Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Giải pháp nâng cao Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.37 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách xã hội của Đảng và Nhà Nước ta. Chính sách BHXH là chính sách mang tính
nhân văn, đạo đức cao cả đối với con người và xã hội nhằm đáp ứng một trong những
quyền lợi và nhu cầu tất yếu của người lao động: nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn
lao động, hơn nữa là an toàn xã hội... Tất cả người lao động trong xã hội đều được
thụ hưởng BHXH theo nguyên tắc “ có đóng, có hưởng”, “lấy số đông bù số ít”. Nhà
Nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao động, ngược lại người
lao động cũng có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình. Vì vậy chính sách BHXH
đảm bảo an ninh xã hội, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị của
Đất nước.
Hệ thống BHXH hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát tốt sẽ đảm bảo
được quyền lợi người lao động, nếu hoạt động không tốt sẽ gây ra đổ vỡ nguồn quỹ,
quyền lợi người lao động sẽ không đảm bảo, có nguy cơ gây ra mất ổn định xã hội.
Do vậy, ngoài biện pháp tăng thu phát triển quỹ thì công tác quản lý chi trả các chế
độ BHXH là một việc làm thường xuyên, cấp thiết vừa đảm bảo cho việc quản lý an
toàn quỹ BHXH, vừa đảm bảo sự công bằng xã hội trong đóng góp và thụ hưởng
BHXH. Mặt khác, vấn đề này cũng liên quan mật thiết đến từng cá nhân, bộ phận,
mọi cấp trong hệ thống BHXH, thể hiện vai trò trách nhiệm trong việc thực hiện chế
độ chính sách của Đảng và Nhà Nước ta.
Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn la được vinh dự thực hiện một phần quan trọng
nhiệm vụ phục vụ con người của chế độ xã hội chủ nghĩa, đi theo suốt cả cuộc đời
con người (sinh ,lão, bệnh, tử), an toàn xã hội , an sinh hạnh phúc ( phúc , lộc, thọ) đó
là những điều mà cả xã hội, mỗi con người, mỗi cộng đồng đều mong ước. Nhưng
với tầm vóc mới, văn minh, công bằng, sâu rộng hơn đến với mọi người dân, người
lao động trong xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được nhiệm vụ cao quý và lớn lao đó
Bảo hiểm xã hội tỉnh Sơn La ra đời với mô hình tổ chức mới, có nhiệm vụ mang tính
chất đặc trưng vừa là của chính phủ vừa là của xã hội và là một quỹ tài chính(quỹ
BHXH) có đặc điểm của mô hình kinh tế.
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Xuất phát từ thực tiễn nên trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm xã hộitỉnh
Sơn la, được sự hướng dẫn tận tình của lãnh đạo cơ quan và cán bộ viên chức công
tác tại Bảo hiểm xã hội Tỉnh Sơn la đã thôi thúc em chọn chuyên đề với tên gọi:
“Giải pháp nâng cao Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH tỉnh Sơn La”
Nhưng với thời gian và kiến thức lý luận còn hạn chế, nên bài viết không thể
tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong được sự tham gia đóng góp của ThS
Trần Minh Tuấn để bài viết đạt kết quả tốt hơn. Em xin trân thành cảm ơn!
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH
1.1 Tính tất yếu khách quan và sự hình thành, phát triển BHXH
1.1.1 Sự tồn tại khách quan của BHXH
Để hiểu rõ khái niệm về bản chất của BHXH có nhiều cách tiếp cận khác nhau
và một trong cách tiếp cận là từ xã hội và lịch sử.
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn
nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của
cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, có nghĩa là việc thoả mãn
nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống,
không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động
hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên
cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có
thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu
công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh
hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu
thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí
còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài
người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục
những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự
mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Sự

tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau.
Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc
xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển
xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những
cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người
làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao
động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai
nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già... đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc
sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền
lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc
những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương
thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức,
nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự
phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng
góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra
cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880,
BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động
đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba
bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không
phân biệt già - trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ -
người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích chung.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latinh,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu
Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An
sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của

giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với
trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được
nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp
những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của
BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách
ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội
loài người trong quá trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH là một tất
yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải
tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Cùng với sự tiến bộ của xã
hội tiến bộ của xã hội loài người, BHXH đã được coi như là nhu cầu khách quan củat
con người Và được xem như là một trong những quyền cơ bản của con người đã
được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày
10/ 12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có
quyền hưởng BHXH . quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.
1.1.2 Khái niệm về BHXH và các khái niệm khác có liên quan BHXH
Bảo hiểm xã hội
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như đã nêu, BHXH có lịch sử khá lâu và đã có nhiều thay đổi về chất với
nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Tuy nhiên,
cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận vì được
tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau. Điều này cho
thấy tính đa dạng và phong phú của BHXH.
- Theo Wiliam Bereridge – nhà kinh tế và xã hội học người Anh (1879-
1963): “BHXH là sự bảo đảm việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo đảm
một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc”.
- Trong Hiến chương Đại Tây Dương năm 1941: “BHXH là sự bảo đảm
thực hiện quyền con người sống trong hoà bình tức là tự do làm ăn, cư trú, di chuyển,
được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập

để có thể thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, ốm đau,
tuổi già…”
- Theo ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua việc huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH để trợ cấp cho các
thành viên nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm
thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi
già, chết đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”.
Từ các giác độ khác, cũng có thể có những khái niệm khác nhau về
BHXH.
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, người lao
động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được
bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu)
hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính
giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã
hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội….
Một số khái niệm có liên quan trong BHXH
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Khác với bảo hiểm thương
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mại, trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên:
bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quyđịnh
của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp).

Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san
sẻ rủi ro của số đông người lao động khác.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà
mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động còn vì lợi ích của
chính họ. Ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với tập đoàn
người sử dụng lao động, để bảo đảm cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh
hưởng khi phát sinh nhu cầu BHXH.
Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của
quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường
hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý,
định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho
các hoạt động BHXH.
- Bên BHXH, đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên
BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty...) do Nhà nước lập ra (ở một số
nước có thể do tư nhân, tổ chức kinh tế - xã hội lập ra) và được Nhà nước bảo trợ,
nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH.
Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu
cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được bảo
hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và
nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu cầu được
BHXH do pháp luật quy định. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong
kinh tế thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (lao
động chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH
vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho
chính họ.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2 Bản chất, chức năng, tính chất của BHXH

1.2.1. Bản chất
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì
BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH
hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động
và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và cả người lao động và
người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động
và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…, hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản… Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những
biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được
tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu ngoài ra
còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người
lai động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã
được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu
cầu sinh sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
1.2.2 Chức năng
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:

- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhầp cho người lao động tham gia bảo
hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự bảo đảm thay thề hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả
năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao dộng khi hết tuổi lao động theo các
điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời
làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với
mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng
phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm
vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối&phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng
lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ
cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng
những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia
đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu
nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại thu nhập giữa những người có
thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người
ốm yếu phải nghỉ việc… Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH sẽ góp phần
thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia
lao động sản suất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền
công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp
thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được
đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình
với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy
kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là

năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử
dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công,
thời gian lao động… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và
giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được
bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với
Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ,
góp phần làm cho sản
xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn.
1.2.3 Tính chất
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội
Như ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất người lao
động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro, khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào
tình cảnh khó khăn không kém như: Sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển
dụng và hợp đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế… Sản xuất càng phát
triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với ngưòi sử dụng
lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng
căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đững ra can thiệp thông qua
BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống
kinh tế - xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH, Từ
thời điểm hành thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hìnn
thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian
đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động…
- BHXH vừa có tình kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.

Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo
toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý
chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất
cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia
BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện
của BHXH. thực chất, phần đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể,
nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động
việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình
sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền
lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với
Nhà nước BHXH góp phần làm giảm gành nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH
còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã
9

×