Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Đặc điểm siêu âm và một số yếu tố liên quan đến thiểu ối ở thai phụ đến khám thai tại bệnh viện đa khoa trung ương thái nguyên năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.07 MB, 118 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN
TRẦN THỊ HÀ
ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THIỂU ỐI
Ở THAI PHỤ ĐẾN KHÁM THAI TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN NĂM 2014
Chuyên ngành: Sản Phụ khoa
Mã số: CK 62 72 13 03
LUẬN ÁN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HINH
THÁI NGUYÊN, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận án


Trần Thị Hà
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận
được nhiều sự giúp đỡ chân thành cả về tinh thần và kiến thức từ các thầy cô,
bạn bè và đồng nghiệp cùng cơ quan.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn:
Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng quản lý đào tạo sau Đại học, Bộ môn
Phụ sản, các thầy cô giáo Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã tận tình


giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập
và hoàn thành luận án.
Đảng ủy, Ban Giám đốc, Phòng kế hoạch tổng hợp, Khoa Sản, Khoa
Thăm dò chức năng Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thu thập số liệu để hoàn thành
luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn
Đức Hinh - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, người thầy đã hết lòng
dìu dắt và chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng thông qua đề
cương và chấm luận án đã đóng góp ý kiến quý báu cho tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận án.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên khích lệ và tạo điều kiện giúp tôi vượt qua mọi khó khăn
để hoàn thành luận án.
Tác giả luận án
Trần Thị Hà
ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CSNO : Chỉ số nước ối
ĐSTĐNO : Độ sâu tối đa nước ối
SA : Siêu âm
TTNO : Thể tích nước ối
iii
MỤC LỤC
TỔNG QUAN 3
Tài liệu tiếng Việt 71
iv
DANH MỤC BẢNG

TỔNG QUAN 3
Tài liệu tiếng Việt 71
v
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
TỔNG QUAN 3
Tài liệu tiếng Việt 71
vi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiểu ối là lượng nước ối giảm so với lượng nước ối bình thường tính
theo tuổi thai và ở dưới đường percentin thứ 5 ,. Thiểu ối liên quan chặt chẽ
tới sự phát triển của thai nhi cũng như chất lượng cuộc sống của trẻ sau này.
Chamberlain và cộng sự đã thấy tỷ lệ tử vong chu sinh tăng lên 47 lần khi có
thiểu ối và tăng lên 13 lần khi thể tích nước ối (TTNO) hạn chế so với TTNO
bình thường . Mọi tình trạng về TTNO (quá ít hay quá nhiều) đều làm tăng tỷ
lệ tử vong và mắc bệnh chu sinh .
Các vấn đề về thiểu ối và yếu tố liên quan đến thiểu ối trên thế giới đã
được nghiên cứu từ lâu. Rất nhiều công trình khoa học đã công nhận rằng
nước ối đảm nhiệm chức năng dinh dưỡng, che chở bảo vệ phôi thai . Nước ối
thường xuyên được đổi mới, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nước ối hoàn toàn
được đổi mới cứ 3 giờ 1 lần , , . Nước ối cũng có thể mất đi do rỉ ối, do các
yếu tố bất thường của thai hay do bệnh lý của người mẹ. Chính vì vậy, thiểu
ối là một bệnh lý thường gặp trên lâm sàng. Divon (1995) khám cho 139 thai
phụ có tuổi thai trên 41 tuần, với tiêu chuẩn chẩn đoán thiểu ối khi đo CSNO
≤ 50mm, tỷ lệ này là 10% . Shaw và cộng sự (1997), tỷ lệ thiểu ối 10% .
Nghiên cứu của Triệu Thúy Hường (2002), tỷ lệ thiểu ối 4,07% , Nguyễn
Thanh Hà (2004), tỷ lệ thiểu ối 1,81% .
Thiểu ối có thể xác định bằng lâm sàng và nhiều phương pháp khác
nhau, nhưng siêu âm (SA) là phương pháp giúp chẩn đoán sớm tình trạng thiểu
ối, cho kết quả chính xác và có thể áp dụng được cho mọi trường hợp có thai.
Vì vậy, hiện nay SA đánh giá thể tích nước ối đã thay thế cho mọi kỹ thuật

chẩn đoán thiểu ối trước đây. Không những thế, SA còn là phương tiện quan
trọng để chẩn đoán về hình thái thai nhi. SA đã thể hiện vai trò đặc biệt trong
lĩnh vực sản khoa và ngày càng phát triển, phổ cập . SA là phương tiện giúp
1
cho việc theo dõi thai một cách an toàn, chính xác, không có hại, cho phép
nhìn rõ thai, phần phụ của thai và có thể thực hiện nhiều lần trên một thai phụ.
Qua đó người thầy thuốc đánh giá được hình thái của thai nhi trong bụng mẹ,
phát hiện và xử trí kịp thời những bất thường trong suốt quá trình mang thai,
trong đó có thiểu ối . Đặc điểm SA của thai thiểu ối như thế nào và những yếu
tố liên quan đến tình trạng thiểu ối ở thai phụ, tại Thái Nguyên chưa có
nghiên cứu nào về vấn đề này, vì vậy nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đặc điểm siêu âm và một số yếu tố liên quan đến thiểu ối ở thai phụ
đến khám thai tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên năm 2014”
với các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm thiểu ối qua siêu âm tại Bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên năm 2014.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thiểu ối ở thai phụ đến khám
thai tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Nguồn gốc và vai trò của nước ối
1.1.1. Nguồn gốc nước ối
Nước ối là một loại nước sinh học, có khả năng tái tạo, trao đổi, giữ một
vai trò quan trọng đối với sự sống và phát triển của thai nhi trong tử cung .
Ngày thứ 8 sau khi thụ tinh, ở cực phôi xuất hiện một khoang nhỏ và lớn
dần lên thành buồng ối . Buồng ối là khoang đầu tiên xuất hiện trong phôi.
Phelan cho rằng buồng ối xuất hiện ở ngày thứ 11 hay 12 sau khi thụ tinh .
Lúc này phôi là một đĩa tròn dẹt gồm hai lớp và được gọi là đĩa phôi lưỡng
bì . Khi hình thành, buồng ối chứa đầy dịch trong mà nguồn gốc có thể là từ

huyết thanh người mẹ, đó là nước ối . Ban đầu buồng ối nằm ở mặt lưng của
phôi (mặt ngoại bì), nhỏ hơn khoang phôi nang, sau đó nhanh chóng bành
trướng rộng ra và ôm gọn phôi vào trong. Khi phôi được 8 tuần buồng ối đã
bao phủ toàn bộ phôi. Màng ối ngày càng giãn rộng tiến sát tới màng đệm và
dính vào màng đệm từ tuần thứ 8. Tới tháng thứ 4 buồng ối bành trướng rất
mạnh làm cho màng rụng trứng căng giãn, dán sát vào màng rụng tử cung dẫn
đến biến mất khoang tử cung.
1.1.2. Sự luân chuyển nước ối
Từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 28 sau khi thụ tinh, tuần hoàn thai nhi được
thành lập, có sự thẩm thấu giữa tuần hoàn và nước ối . Thể tích nước ối tăng
lên đều đều trong suốt quá trình thai nghén, vào đầu tuần thứ 10 thể tích này
là khoảng 30 ml, và đạt tới đỉnh cao nhất là khoảng 1000 ml vào tuần thứ 34 -
36. Khi thai ở quý III, mỗi giờ có khoảng 500 ml nước đi vào và đi ra khỏi
buồng ối , đến giai đoạn cuối quý III của thời kỳ thai nghén thể tích nước ối
bắt đầu giảm, ở tuần thứ 40 thể tích này còn lại khoảng 800 ml. Tốc độ giảm
3
thể tích nước ối có thể tới 150 ml/tuần từ tuần thứ 38 đến tuần 43 của thời kỳ
thai nghén .
Nước ối thường xuyên luân chuyển với tốc độ thay cũ đổi mới ước lượng
khoảng 3600ml/giờ . Có nhiều con đường để nước ối đi vào (tạo nước ối) và
đi ra khỏi buồng ối (tiêu nước ối). Tham gia tạo nước ối có hai nguồn chính là
nước tiểu của thai và dịch tiết của phổi thai, ngoài ra có một phần từ da thai
nhi. Nước ối tiêu đi theo hai con đường chính là thai nuốt nước ối và hấp thu
qua màng ối. Ngoài ra một phần nước ối thoát qua màng ối và dây rốn. Nguồn
gốc tạo nước ối và tiêu nước ối thay đổi theo tuổi thai.
1.1.2.1. Các con đường tạo nước ối
* Thận thai nhi
Nước tiểu được nhận thấy ở bàng quang của thai nhi vào tuần thứ 11, tốc
độ sản xuất nước tiểu hàng giờ của thai nhi tăng dần theo tuổi thai. Hiện
tượng tạo nước tiểu có từ rất sớm, khi thai 10 tuần mỗi giờ sinh ra 0,6ml đến

0,7ml nước tiểu . Khi thai được 30 tuần, mỗi giờ sinh 9,6ml nước tiểu. Khi
thai 40 tuần lượng nước tiểu tăng lên 27,3ml/giờ với tổng lượng là 470ml/24
giờ và giảm xuống một chút khi thai 42 tuần (24ml/giờ). Năm 2008, Touboul
C và cộng sự nghiên cứu 116 trường hợp thai từ 20 đến 41tuần có biểu hiện
thiểu ối thấy thai suy không hồi phục bài tiết nước tiểu với lưu lượng
32ml/giờ, thai suy còn hồi phục bài tiết 57ml/giờ và thai không bị suy bài tiết
95ml/giờ . Nhiều đề tài nghiên cứu chứng minh thể tích nước tiểu lớn hơn so
với thể tích nước ối mà thai uống vào. Tóm lại ở nửa sau thời kỳ thai nghén,
mỗi ngày thai sản xuất lượng nước tiểu vào buồng ối 500 - 700ml bằng
khoảng từ 20% đến 30% trọng lượng của thai . Nồng độ ure, acid uric,
creatinin trong nước ối tăng dần theo sự trưởng thành của thận thai nhi khiến
nước ối có thành phần tương tự như dịch gian bào.
* Phổi thai nhi
4
Khái niệm phổi thai chế tiết dịch mới được biết và còn nhiều ý kiến
chưa thống nhất giữa các nhà khoa học . Thực nghiệm buộc khí quản thai
động vật có vú dẫn đến hiện tượng phổi thai bị giãn to quá mức. Phổi có hoạt
động chế tiết mạnh hơn nhiều so với việc hấp thu, như vậy phổi đã tham gia
vào quá trình tạo nước ối. Phổi thai chỉ tham gia tạo nước ối từ sau 20 tuần.
Mỗi ngày phổi thai chế tiết một lượng dịch bằng khoảng 10% thân trọng của
thai, tương đương 300ml dịch khi thai đủ tháng. Dưới 1% lượng dịch chế tiết
của phổi cần thiết cho quá trình giãn nở phổi . Phần dịch phổi còn lại bị đẩy ra
khỏi phổi hoặc tham gia tạo thành nước ối hoặc bị thai nuốt vào dạ dầy. Phổi
vừa tham gia vào tạo nước ối vừa hấp thu nước ối. Hiện nay chưa có khả năng
đánh giá TTNO được hấp thu qua phổi .
* Da thai nhi
Trong 20 tuần đầu tiên da thai có cấu trúc đơn giản chỉ có 4 lớp tế bào.
Các nghiên cứu trên thực nghiệm cho thấy da thai hoàn toàn cho nước, natri,
clo, ure và creatinin tự do đi qua. Sự vận chuyển này diễn ra theo cơ chế thụ
động , . Theo Richard (1991) trong nửa đầu thời kỳ thai nghén, nước ối có

nguồn gốc từ huyết tương người mẹ và thai, qua màng đệm và da thai, có
nồng độ protein thấp. Từ tuần thứ 25 trở đi, da thai nhi trở nên sừng hóa làm
cho dịch thẩm phân giảm dần, đến tuần thứ 28 cấu trúc da ổn định vĩnh viễn,
các tuyến mồ hôi bắt đầu hoạt động, chấm dứt con đường vận chuyển chính
nước ối qua da thai. Lúc này tuyến mồ hôi tham gia tạo nước ối với một
lượng đáng kể và như vậy da thai vẫn tiếp tục đóng vai trò điều hòa lượng
nước ối trong suốt quá trình thai nghén , , , .
* Nguồn gốc nước ối từ màng ối và dây rốn
Màng ối xuất hiện vào ngày thứ 7 - 8 sau khi thụ thai, từ tế bào lưng của
lá thai ngoài. Màng ối có hoạt động trao đổi chất và chứa các men cần thiết
cho sự sản xuất hormon và sự tổng hợp prostaglandin. Nội sản mạc có cấu
trúc liên bào bài tiết để làm trơn các lá phúc mạc. Trong giai đoạn đầu khi thai
5
chưa sản xuất nước tiểu, các tế bào biểu mô màng ối cũng tham gia bài tiết
một số lượng dịch vào buồng ối .
Dây rốn được bao phủ bởi một lớp tế bào biểu mô có ít nhung mao ở cực
ngọn, liên kết với nhau bởi các cầu nối chắc. Đến nửa sau của thời kỳ thai
nghén, số lượng vi nhung mao của tế bào tăng dần lên, các cầu nối gian bào
không đều, đôi khi không còn. Theo nghiên cứu của Sherer D. M (2001)
chứng minh hiện tượng thấm nước và các chất sinh học của dây rốn chỉ thực
sự bắt đầu diễn ra từ tuần thứ 18 . Có tác giả nghiên cứu chứng minh thai đủ
tháng có 50ml nước được trao đổi qua dây rốn trong 24 giờ. Hiện tượng trao
đổi nước và chất diễn ra ở đoạn dây rốn gần thai nhiều hơn ở đoạn dây rốn
gần bánh rau. Theo Thurlow R.W (2003), con đường trao đổi nước ối qua da
thai, dây rốn, màng ối phần bánh rau tăng dần theo tuổi thai và đạt
393ml/ngày khi thai 40 tuần .
1.1.2.2. Các con đường tiêu nước ối
* Cơ quan tiêu hóa
Hiện tượng thai uống nước ối vào dạ dầy đã được nhiều tác giả đề cập
đến , . Theo nghiên cứu của Brace R. A (2013) thực hiện trên 115 thai nhi

nhận thấy mỗi ngày thai uống từ 36 -1963 ml khi khối lượng nước ối được tạo
ra dao động 160-6150 ml. Khối lượng nuốt gần bằng không khi khối lượng
nước ối xuống thấp quá nhiều so với khối lượng nước ối bình thường, trung
bình thai nhi uống tối đa 635 ± 41 ml khi khối lượng nước ối là 1682 ± 31ml,
và không tăng hơn nữa nếu lượng nước ối tăng cao hơn . Thurlow R.W
(2003), cho biết TTNO được thai uống vào tăng dần theo tuổi thai, đạt mức
tối đa là 1006ml/ ngày khi thai 40 tuần . Theo Beall M.H (2007) nước ối được
tạo ra bởi sự lưu thông dịch từ phổi thai nhi và bàng quang. Một con đường
chính của việc tái hấp thu nước ối là hoạt động uống của thai nhi, tuy nhiên trong
nhiều trường hợp khối lượng nước ối được sản xuất và hấp thu không cân bằng,
mức độ uống nước ối khác nhau tùy theo từng điều kiện :
6
- Thai bình thường uống 264 ± 43ml/24giờ/kg thân trọng thai.
- Thai thiếu oxy uống 92 ± 23ml/24giờ/kg.
- Thai thiếu oxy đã hồi phục uống 271 ± 24ml/24giờ/kg.
Tóm lại, mỗi ngày thai uống lượng nước ối bằng khoảng 20% đến 25%
thân trọng của thai, ít hơn so với lượng nước tiểu do thai bài tiết ra .
* Màng ối
Màng ối là màng xốp có tính chất bán thấm đối với nước các chất điện
giải ure, glucose, creatinin, protein. Nước ối đi qua màng ối theo cơ chế thụ
động, với chiều từ buồng ối vào cơ thể mẹ, lưu lượng khoảng 0,3- 0,7ml/giờ.
Theo Brace (1997), mỗi ngày ước tính có khoảng 100ml nước ối thoát ra buồng
ối qua đường màng ối .
* Dây rốn
Nước ối được trao đổi qua dây rốn hàng ngày, thai đủ tháng có 50ml
nước ối được trao đổi qua dây rốn trong vòng 24 giờ. Khi dây rốn không được
nuôi dưỡng sẽ bị khô héo đi tuần hoàn trong dây rốn bị cản trở.
1.1.3. Thể tích và tính chất nước ối
* Thể tích nước ối
Hiện nay người ta chưa biết rõ cơ chế điều hòa cân bằng thể tích nước ối.

Thể tích nước ối là kết quả của một quá trình cân bằng động, rất nhạy cảm,
mong manh và dễ bị phá vỡ .
Theo Beall M.H cho biết khi thai đủ tháng TTNO bắt đầu giảm dần và
đặc biệt giảm đi nhiều khi thai già tháng với tốc độ khoảng 8% mỗi tuần . Thể
tích nước ối tăng một cách nhanh chóng từ thể tích trung bình 60ml ở tuần thứ
12 lên đến 980ml ở tuần thứ 36 . Sau đó nước ối giảm dần khi gần đến ngày
sinh .
Ở tuần 40 lượng nước ối trung bình 800ml, sau tuần 40 lượng nước ối là
250ml , .
Theo Queenan J.T và Whitfielf C.R (1972), lượng nước ối thay đổi theo
7
tuổi thai như sau :
Bảng 1.1. Thể tích nước ối theo tuổi thai
Tuổi thai (tuần) TTNO (ml)
7 20
10 30
12 60
14 100
16 140
20 350
25-26 670
32-36 980
40 840
42 540
* Tính chất lý học của nước ối
Nước ối có màu trắng trong những tháng đầu, vào gần cuối của thời kỳ
thai nghén trở lên hơi đục do lẫn chất gây, tế bào thượng bì, lông, chất bã, tế
bào đường tiết niệu, tế bào âm đạo , .
Hơi nhớt.
Mùi tanh nồng.

Tỷ trọng 1001.
Hơi kiềm: pH từ 7,1-7,3.
* Tính chất hóa học của nước ối
97% là nước, 2-3% là muối khoáng và chất hòa tan.
Chất vô cơ: Na+, K+, Mg++, Ca++.
Chất hữu cơ: protein, glucose, lipit, các hormone và các chất màu .
1.1.4. Vai trò của nước ối
8
1.1.4.1. Vai trò bảo vệ
Nước ối che chở cho thai nhi tránh các sang chấn từ bên ngoài.
Giúp cho thai không bị dính vào màng ối.
Giúp cho thai cử động dễ dàng, lớn lên trong môi trường nước.
Nhờ có nước ối mà dây rốn không bị chèn ép, không bị khô, tuần hoàn
trong dây rốn được dễ dàng
1.1.4.2. Vai trò chuyển hóa điều nhiệt
Nước ối không chỉ là môi trường bảo vệ mà còn là chỗ bài tiết, đào
thải của thai nhi. Nước ối giúp duy trì thân nhiệt của thai khi ở trong tử
cung. Thai hoàn toàn không có khả năng tự điều nhiệt, nhiệt độ của thai
phụ thuộc hoàn toàn nhiệt độ của mẹ thông qua nước ối.
1.1.4.3. Vai trò sản khoa
Nhờ có nước ối thai có thể dễ dàng bình chỉnh ngôi, có thể quay
được trong tử cung.
Nước ối có tác dụng kìm hãm vi khuẩn phát triển.
Trong khi chuyển dạ nước ối góp phần hình thành đầu ối, giúp cổ tử
cung xóa và mở dễ dàng hơn.
Sau khi màng ối vỡ, nước ối làm trơn đường sinh dục, giúp cho thai sổ
dễ dàng hơn.
1.2. Thiểu ối tỷ lệ, hậu quả và phương pháp xác định thiểu ối
1.2.1. Định nghĩa thiểu ối
Định nghĩa thiểu ối chưa được hoàn toàn thống nhất, nhiều giới hạn thiểu

ối khác nhau tuỳ theo từng tác giả. Theo Phan Trường Duyệt và Nguyễn Đức
Hinh, thiểu ối là lượng nước ối giảm so với lượng nước ối bình thường tính
theo tuổi thai và ở dưới đường percentile thứ 5 ,. Theo tác giả Nguyễn Đức
Hinh, chỉ số nước ối (CSNO) theo nhóm tuổi thai (mm) như sau:
Bảng 1.2. Chỉ số nước ối (mm) theo nhóm tuổi thai
9
Tuổi thai 5% 10% 50% 90% 95%
Thai 28 - 37 tuần 86 91 130 180 189
Thai 38 - 42 tuần 68 81 113 142 148
Thai 28 - 42 tuần 80 88 125 169 175
Theo Phelan (1987), thiểu ối là khi CSNO đo được dưới 50mm . Theo
Magann (2001), thiểu ối là khi TTNO dưới 500ml . Với thai từ 37 - 41 tuần,
thiểu ối là khi CSNO dưới đường percentile thứ 5 các giá trị mà Magann đưa ra
cho tuổi thai này lần lượt là 5%, 50%, 90% là 42mm, 94mm và 149mm .
1.2.2. Tỷ lệ thiểu ối
Tỷ lệ thiểu ối thay đổi tùy theo từng tác giả, tiêu chuẩn chẩn đoán, đối
tượng nghiên cứu, phương pháp xác định thăm dò.
Theo Hill và cộng sự (1983) thăm dò cho 1408 thai phụ thấy tỷ lệ thiểu
ối là 4,3% .
Divon (1995) khám cho 139 thai phụ có tuổi thai trên 41 tuần, với tiêu
chuẩn chẩn đoán thiểu ối khi đo CSNO ≤ 50mm, thì tỷ lệ này cũng là 10% .
Shaw và cộng sự (1997) thì tỷ lệ này là 10% .
Nghiên cứu của Triệu Thúy Hường (2002), tỷ lệ thiểu ối 4,07% . Nguyễn
Thanh Hà (2004), tỷ lệ thiểu ối 1,81% . Nguyễn Thị Thu Hồng (2009), tỷ lệ
thiểu ối 1,82% . Theo tác giả Ninh Văn Minh (2011) tỷ lệ thiểu ối ở thai từ 28
tuần trở lên là 2,1%
1.2.3. Hậu quả của thiểu ối
Chamberlain và cộng sự (1984) nghiên cứu thấy rằng thiểu ối gây biến
chứng từ 0,5 - 5% và cũng liên quan đến tăng tỷ lệ bệnh tật, tỷ lệ tử vong chu
sinh, tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược và mổ lấy thai cho mẹ . Theo Stoll (1990) tỷ lệ

biến chứng của thiểu ối là 1,9% và tỷ lệ này ở Casey (2000) là 2,3% và
Chandra (2000) là 4 - 5% ,,.
1.2.3.1. Hậu quả với con
* Phân su trong nước ối
10
Khi thể tích nước ối giảm dây rốn sẽ bị chèn ép, hoặc giảm chức năng
bánh rau và làm giảm cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng cho thai, khi oxy
cung cấp cho thai giảm kéo dài hoặc giảm quá mức dẫn đến tình trạng phân
bố lại tuần hoàn thai nhi nhằm cung cấp oxy cho các cơ quan của thai: tim và
não là các cơ quan trọng yếu cần được ưu tiên cung cấp oxy do đó giảm cung
cấp cho da và ruột dẫn đến tăng nhu động ruột gây tống phân su ra buồng ối
và nhuộm xanh nước ối.
Tỷ lệ phân su trong nước ối ở thai phụ thiểu ối có tỷ lệ khá cao qua
nghiên cứu của một số tác giả. Golan và cộng sự (1994) có 29,1% thai phụ
thiểu ối có phân su trong nước ối . Nguyễn Duy Tài (2002) nghiên cứu 100
thai phụ thiểu ối tại bệnh viện Hùng Vương từ 3/2001 đến tháng 8/2001 thấy
tỷ lệ phân su trong nước ối là 12% .
* Chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh ở phút thứ 5 sau đẻ < 7 điểm
Tình trạng trẻ sơ sinh ngạt khi đẻ ở thai phụ thiểu ối cao hơn so với
nhóm chứng một cách có ý nghĩa, Morris J.M và cộng sự (2003) chỉ số Apgar
ở phút thứ 5 dưới 7 điểm của những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ có thiểu
ối là 5,1%, còn Lin và cộng sự (1990) thì tỷ lệ này 13%, của Golan và cộng sự
(1994) là 11,5% , , .
Theo Melamed N và cộng sự (2011) chỉ số Apgar ở phút thứ 5 dưới 7
điểm của những trẻ được sinh ra từ người mẹ thiểu ối cao hơn nhiều so với
nhóm chứng (15,2% và 4%) và tỷ lệ sinh non cũng cao hơn (26,9% và 12,3%,
p < 0,001) .
* Trẻ sơ sinh bị bệnh
Chamberlin và cộng sự (1984) đã báo cáo tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh ở
nhóm thiểu ối cao hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa . Thiểu ối trung bình

tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh là 2,5%, thiểu ối nặng là 9,4%, trong khi đó nhóm
chứng tỷ lệ trẻ sơ sinh bị bệnh chỉ chiếm 0,54% .
11
* Tử vong chu sinh
Tỷ lệ tử vong chu sinh ở những trẻ sinh ra từ thai phụ thiểu ối cao hơn
so với nhóm chứng một cách có ý nghĩa, Melamed N và cộng sự (2011) tỷ lệ
tử vong chu sinh ở nhóm thiểu ối là 132,7/1000 và ở nhóm chứng là
14,2/1000 .
Nghiên cứu của Casey (2000) tỷ lệ tử vong ngay sau đẻ của nhóm thiểu
ối là 1,4%, của nhóm chứng là 0,3% với p < 0,03, tỷ lệ tử vong chu sinh của
nhóm thiểu ối là 5%, nhóm chứng là 3% với p < 0,001 . Chamberlain và cộng
sự (1984) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong ngay sau đẻ và tử vong chu sinh cũng
cao hơn nhóm chứng nhiều .
Mercer và cộng sự (1984) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong chu sinh ở nhóm
bệnh cao gấp 6 lần so với nhóm chứng . Theo Wolff (1994) 7,2% tử vong chu
sinh ở thai phụ thiểu ối, còn theo Golan (1994) là 10,7% , .
Christianson (1999) nghiên cứu biến chứng của thiểu ối mãn tính, ông
thấy ngoài các biến chứng với thai nhi có chỉ số Apgar thấp, sơ sinh bị bệnh,
tử vong chu sinh cao, còn một số biến chứng khác tuy không phải là quan
trọng nhất nhưng lại thường gặp, đó là thiểu ối làm cho buồng tử cung bị hẹp
lại, tử cung co lại gây ra chèn ép và biến dạng chi, ông thấy rằng nếu thiểu ối
kéo dài 2 tuần thì 57% thai nhi bị chèn ép, các biến dạng xảy ra ở tay và chân
gây ra tay và chân bị khoèo sau khi đẻ .
Triệu Thuý Hường (2002) nghiên cứu thấy tỷ lệ tử vong con sau đẻ ở
những thai phụ bị thiểu ối có tuổi thai từ 28 tuần trở lên là 8,4%o, trong đó
3,72%o tử vong sau đẻ không phải do thai bị dị dạng .
1.2.3.2. Hậu quả đối với mẹ
* Tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược do thiểu ối làm cho ngôi bình chỉnh không tốt
Mercer và cộng sự (1984) thiểu ối làm tăng tỷ lệ đẻ ngôi ngược từ 8-13% .
Golan và cộng sự (1994) 17% thai phụ thiểu ối đẻ ngôi ngược .

* Tăng tỷ lệ mổ lấy thai
12
Theo tác giả Triệu Thúy Hường và cộng sự (2002) cho thấy tỷ lệ mổ lấy
thai của nhóm thai thiểu ối cao hơn so với nhóm không thiểu ối có ý nghĩa
thống kê, tương ứng là 75,7% và 28,7% .
Trong nghiên cứu của Nguyễn Duy Tài (2002) về thai thiểu ối thì tỷ lệ
mổ lấy thai là 45%, trong đó mổ vì thai suy chiếm 89% .
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hồng (2009) tỷ lệ mổ lấy thai do thiểu
ối là 58,2% .
1.2.4. Phương pháp xác định thiểu ối
* Phương pháp lâm sàng
Các phương pháp lâm sàng đánh giá thiểu ối cho đến nay vẫn là
phương pháp cổ điển. Dùng thước đo chiều cao tử cung và vòng bụng thấy
các số đo nhỏ hơn tuổi thai. Thai cử động kém. Khám dễ sờ thấy các phần của
thai, không thấy dấu hiệu bập bềnh thai. Khả năng xác định TTNO bằng lâm
sàng không cao, đặc biệt là trong trường hợp thiểu ối. Chẩn đoán thiểu ối
bằng thăm khám lâm sàng là rất khó, thực tế hầu hết chỉ chẩn đoán được sau
khi đẻ .
* Phương pháp siêu âm
Từ khi ra đời, SA đánh giá TTNO đã thay thế cho mọi kỹ thuật trước
đây. Có nhiều phương pháp đo TTNO phương pháp hay dùng hiện nay là
phương pháp đo CSNO.
Phương pháp đo độ sâu tối đa nước ối (ĐSTĐNO)
Năm 1981, tác giả Hill, Manning và Platt đã đề xuất phương pháp đo
ĐSTĐNO . Ban đầu ĐSTĐNO được sử dụng như là một trong nhiều thông số
để đánh giá sinh lực của thai, để phát hiện nguy cơ thai nghén cao. Độ sâu tối
đa nước ối là bề dầy tối đa của vùng nước ối lớn nhất. Trong chỉ số sinh lực
thai, Manning coi tiêu chuẩn của thiểu ối là ĐSTĐNO dưới 1cm (qui tắc
1cm). Hầu hết thường đo ở khu vực chi của thai hay gáy của thai .
13

Chamberlain và Manning (1984), xác định ĐSTĐNO cho 7562 thai phụ
có nguy cơ cao và tìm ĐSTĐNO bình thường từ 2 - 8cm, dưới 1cm là thiểu
ối, từ 1 - 2cm là thiểu ối ở mức giới hạn . Phương pháp đánh giá này không
tính đến biến đổi sinh lý của TTNO theo tuổi thai.
Phương pháp đo hai kích thước nước ối
Do Manngan và cộng sự đề xuất năm 2011 . Hai kích thước nước ối là
tích số của ĐSTĐNO với chiều ngang tối đa. Cả hai kích thước này đều cùng
đo ở một vùng nước ối rộng nhất. Các giới hạn bình thường của hai kích
thước nước ối là:
Nước ối bình thường từ 15,1cm
3
đến 50cm
3
.
Thiểu ối là dưới 15cm
3
.
Đa ối là trên 50cm
3
.
Phương pháp đo chỉ số nước ối
Phelan và cộng sự (1987), đã mô tả lần đầu tiên kỹ thuật đo CSNO.
CSNO là tổng ĐSTĐNO ở 4 góc của tử cung (còn gọi là kỹ thuật đo 4 góc).
Từ nhiều năm nay, tác giả Phan Trường Duyệt ở Bệnh viện Phụ sản
Trung ương đã sử dụng phương pháp đo các túi ối rộng nhất tại 4 vùng thăm
dò trên rốn bên phải, trên rốn bên trái, dưới rốn bên phải, dưới rốn bên trái rồi
chia 4 để có số đo trung bình .
Số trung bình dưới 7mm (tương đương CSNO dưới 28mm) là nước ối
quá ít thì phải đình chỉ thai nghén ngay bằng mổ lấy thai trong vòng 6 giờ.
Số trung bình từ 7mm đến 10mm (tương đương CSNO từ 28mm đến

40mm) là nước ối giảm, cần theo dõi và đo lại sau 6 giờ. Nếu giảm thì nên
đình chỉ thai nghén nếu thai đã đủ tháng.
Số trung bình trên 10mm đến 15mm (tương đương CSNO trên 40mm
đến 60mm) là nước ối giảm ít nhưng cũng phải theo dõi hàng ngày.
Số trung bình trên 15mm (tương đương CSNO trên 60mm) là ối bình thường.
14
Về độ tin cậy của các kỹ thuật, Magann và cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu so sánh mức độ chính xác của cả 3 phương pháp ĐSTĐNO, hai kích
thước nước ối, CSNO thấy rằng cả 3 kỹ thuật SA đều có độ chính xác vừa
phải trong trường hợp nước ối bình thường, đa ối hay thiểu ối .
Năm 1997, Moore chứng minh ưu thế của CSNO so với ĐSTĐNO
trong việc xác định nước ối bất thường . Độ nhạy của chẩn đoán thiểu ối trong
ĐSTĐNO chỉ là 58% so với CSNO. Năm 2004, Moore nghiên cứu trên 1584
thai phụ thấy 7,9% có CSNO dưới 5cm trong khi đó đo ĐSTĐNO chỉ có
1,4% dưới 2cm .
Theo Nguyễn Đức Hinh cũng thấy rằng CSNO có tính ưu việt hơn hẳn
so với ĐSTĐNO vì : sai lệch trong phép đo CSNO thấp hơn với sai lệch của
phép đo ĐSTĐNO. Trong phát hiện thai già, CSNO có độ nhạy 82,7% độ đặc
hiệu 38,8% và tỷ suất chênh là 3,0 cao hơn hẳn so với ĐSTĐNO có độ nhạy
71,2% độ đặc hiệu 48,7% và tỷ suất chênh là 2,3%.
Các tác giả khác tiến hành nghiên cứu so sánh CSNO với ĐSTĐNO
đều đưa ra nhận định tương tự. Trong đánh giá TTNO bằng SA thì kỹ thuật
CSNO được đề nghị sử dụng rộng rãi , đã góp phần đáng kể vào việc chẩn đoán,
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thai nằm trong bụng mẹ.
1.3. Đánh giá đặc điểm thiểu ối trên siêu âm
1.3.1. Ngôi thai
Trong trường hợp thiểu ối buồng tử cung hẹp lại tử cung bóp chặt thai
nhi làm cho thai không xoay được, ngôi không bình chỉnh tốt dẫn tới ngôi thai
bất thường không có cơ chế đẻ buộc phải chỉ định mổ lấy thai. Nghiên cứu
của Mercer và cộng sự (1984) thấy thai phụ thiểu ối có tỷ lệ đẻ ngôi ngược từ 8 -

13% . Golan và cộng sự (1994) 17% thai phụ thiểu ối đẻ ngôi ngược .
1.3.2. Đường kính lưỡng đỉnh và chu vi vòng đầu
15
Trong trường hợp thiểu ối máu được ưu tiên cung cấp cho não, do đó duy
trì sự phát triển của não, duy trì sự phát triển đường kính lưỡng đỉnh, chu vi
đầu bình thường.
1.3.3. Đường kính trung bình bụng thai và chu vi vòng bụng
Thai nhi có khả năng tự điều chỉnh và bù đắp những thiếu hụt dưỡng khí
trong tử cung bằng cách:
Điều chỉnh lượng máu đến nuôi dưỡng các cơ quan thiết yếu trong cơ
thể: tăng lượng máu đến não. Thoạt đầu tăng tỷ lệ dòng chảy giữa động mạch
cảnh và động mạch chủ, sau đó nếu vẫn tiếp tục thiếu oxy thì mạch máu não
sẽ giãn để có thể dự trữ máu nhiều hơn. Giảm lượng máu đến thận và phổi.
Thay đổi các nội tiết tố: tăng chất co mạch arginine vasopressin (một yếu
tố góp phần gián tiếp làm giảm lượng nước ối), tăng chất catecholamines
trong hệ tuần hoàn làm giảm glycogen từ đó làm giảm khối lượng gan, cơ và
dự trữ mỡ.
Hệ thần kinh giảm hoạt động của các cơ xương và giảm nhịp hô hấp để
giảm tiêu thụ oxy, có thể đến 17% .
Hay gặp giảm lượng máu đến phổi là tình trạng thiểu sản phổi. Sinh lý
bệnh học rất phức tạp và hiện tượng thiểu sản phổi liên quan đến nhiều hiện
tượng: áp lực ngoài lồng ngực, cử động hô hấp của thai kém và gradient giữa
áp lực trong lòng các phế nang và khoang ối. Khả năng xảy ra thiểu sản phổi
phụ thuộc vào nhiều yếu tố :
+ Thời điểm xuất hiện thiểu ối: nguy hiểm nhất là vào giai đoạn từ 17 đến 26
tuần vì giai đoạn này là giai đoạn hình thành và phát triển các phế nang.
+ Thời gian kéo dài của thiểu ối: nhất là kéo dài trên 1 tuần.
+ Mức độ trầm trọng của thiểu ối: tiên lượng cho các trường hợp này
thường rất xấu mặc dù đứa trẻ sống và thường để lại di chứng.
Nếu tình trạng trên không được cải thiện, lâu dần sẽ dẫn đến tăng tỷ số

chu vi vòng đầu/ chu vi vòng bụng và giảm khối lượng nước ối.
16
1.3.4. Chiều dài xương đùi
Chiều dài của xương đùi ít thay đổi trừ trường hợp thai kém phát triển
trong tử cung thể nặng.
1.3.5. Độ dầy bánh rau
Khi TTNO giảm dây rốn sẽ bị chèn ép, hoặc giảm chức năng bánh rau
chứ không làm giảm độ dầy bánh rau, giảm cung cấp oxy và các chất dinh
dưỡng cho thai, khi oxy cung cấp cho thai giảm kéo dài hoặc giảm quá mức
dẫn đến tình trạng phân bố lại tuần hoàn thai nhi nhằm cung cấp oxy cho các
cơ quan quan trọng của thai.
Độ dày bánh rau thay đổi theo tuổi thai giá trị trung bình của độ dày
bánh rau là 29,5mm khi thai 28 tuần; 32,8mm khi thai 32 tuần; 37,8mm
khi thai 36 tuần và đạt 37,4mm khi thai 40 tuần.
1.3.6. Tần số tim thai
Thể tích nước ối giảm nhiều, giảm lâu dây rốn bị chèn ép, giảm
chức năng bánh rau giảm cung cấp các chất dinh dưỡng cho thai dẫn tới
tình trạng thay đổi nhịp tim thai.
Sự giảm nhịp tim thai xuất hiện từ 10 - 20% số thai phụ bị thiểu ối.
Để đánh giá sự thay đổi tần số tim thai một cách chính xác có hệ thống
lâm sàng sử dụng monitoring sản khoa.
1.3.7. Trọng lượng thai
Thai thiểu ối thường có trọng lượng nhỏ hơn so với tuổi thai do hậu quả
của suy thai trường diễn dẫn đến tình trạng phân bố lại tuần hoàn không đồng
đều. SA chẩn đoán là phương pháp có giá trị và nhanh chóng dựa trên cơ sở
đối chiếu với biểu đồ phát triển cân nặng theo tuổi thai:
+ Đo kích thước phần bụng thai để chẩn đoán cân nặng (hiện được
nhiều tác giả áp dụng vì mối tương quan cao, mối tương quan từ 0,8 đến 0,9).
+ Theo Phan Trường Duyệt phương pháp đo đường kính trung bình
bụng cắt qua tĩnh mạch rốn có giá trị trong chẩn đoán cân nặng thai. Qua

17
kiểm định lâm sàng so sánh giữa cân nặng chẩn đoán bằng phương pháp này
và cân nặng thực tế có độ sai lệch từ 200gam đến 300gam.
+ Phương pháp này có ưu điểm là đo nhanh chóng, ít sai lệch, số liệu đo
được hiện rõ trên màn hình tính toán dễ dàng, áp dụng trên các máy SA đơn
giản được.
Có nhiều định nghĩa về trọng lượng thai nhỏ hơn tuổi thai được đưa ra
nhưng phần lớn đều chấp nhận là trọng lượng thai dưới đường percentil thứ
10 của tuổi thai , . Nghiên cứu của Triệu Thúy Hường (2002) có 25 trường
hợp non tháng, 113 trường hợp thai đủ tháng thiểu ối trọng lượng thai nhỏ
hơn 2500gam trong 1074 thai thiểu ối chiếm tỷ lệ 10,8% . Nguyễn Thị Thu
Hồng (2009), có 5 trường hợp thai thiểu ối trọng lượng thai nhỏ hơn tuổi thai
trong 122 thai thiểu ối chiếm tỷ lệ 4,1% . Đinh Lương Thái (2012) có 58
trường hợp thai thiểu ối trọng lượng thai nhỏ hơn tuổi thai trong tổng số 104
thai phụ bị thiểu ối chiếm 55,8% .
1.4. Yếu tố liên quan đến thiểu ối
1.4.1. Yếu tố con
1.4.1.1. Thai bất thường
Thiểu ối có thể kết hợp với bất thường của thai như: bất thường ở tim,
da, hệ thống thần kinh trung ương và bất thường nhiễm sắc thể, trong đó hay
gặp nhất là các bất thường ở hệ tiết niệu, ngoài ra thiểu ối còn có thể gặp
trong hội chứng truyền máu trong thai đôi, tuy nhiên thiểu ối cũng có thể xảy
ra mà không có bất thường nào của thai , . Nguyên nhân thường gặp nhất là
do bất thường hệ tiết niệu đơn thuần hay kết hợp với các bất thường khác,
chiếm 1/3 các trường hợp thiểu ối .
Bất thường về thận: không có thận 1 hoặc 2 bên là nguyên nhân phổ biến
gây thiểu ối nặng. Theo Quetel (1992) thì 38% trường hợp thiểu ối nặng liên
quan đến không có thận một hoặc cả hai bên . Theo Shimida và cộng sự
(1994) trong số 45 thai phụ thiểu ối nặng thì có 20 trường hợp là thiểu sản
18

×