Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

vai trò của ngân sách nhà nước với phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.19 KB, 17 trang )

VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI
1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (Theo Luật ngân sách nhà nước Việt Nam năm
2002).
2. Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đối với nền kinh tế mỗi
quốc gia. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu
cầu chi tiêu của nhà nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội, thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Vai trò thứ nhất: ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo
các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Đây là vai trò lịch sử mà trong bất kỳ cơ chế nào, thời đại nào ngân sách nhà nước cũng
cần thực hiện. Vai trò này được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách nhà
nước do mọi hoạt động trong mọi lĩnh vực của nhà nước để thực hiện mục tiêu xác định
đều cần đến nguồn tài chính từ việc thu thuế và các hình thức thu ngoài thuế.
Tuy nhiên, việc huy động nguồn tài chính này cần phải quan tâm đến ba vấn đề cơ bản.
Đó là:
Một, mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã hội bằng
hình thức thu thuế và ngoài thuế cần phải hợp lý. Mức thu cao hay thấp đều có tác động
tiêu cực.
Hai, tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với GDP vừa đảm bảo hợp lý với tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ vốn để mở
rộng, tái sản xuất.
Ba, các công cụ kinh tế được sử dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực
hiện các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Vai trò thứ hai: Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội, thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Vai trò này xuất hiện trước nhu cầu cần khắc phục những khuyết điểm của kinh tế thị


trường, giúp cho nền kinh tế phát triển cân đối và hợp lý. Nhà nước thực hiện vai trò này
trong hoạt động thu, chi ngân sách. Cụ thể trong những lĩnh vực kinh tế – xã hội sau:
Về mặt kinh tế: định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích sản xuất kinh doanh
phát triển và chống độc quyền.
Ngân sách nhà nước cung cấp kinh phí để nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ
sở, hình thành các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt từ đó tạo môi trường, điều kiện
thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Nhà nước sử dụng một nguồn vốn không nhỏ để hình thành các doanh nghiệp nhà nước
là biện pháp để chống độc quyền và giữ cho thị trường tránh rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo.
Trong những trường hợp cần thiết, sử dụng một số vốn trong ngân sách để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp ổn định về cơ cấu, vượt qua thời kỳ khó khăn hoặc chuẩn bị chuyển sang
một cơ cấu mới cao hơn.
Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng
đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Vay nợ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng
cần phải thận trọng trong các chính sách điều khoản, mức vay và thời hạn vay và đảm
bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn vốn vay này.
Về mặt xã hội: ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công
bằng xã hội.
Ngân sách nhà nước đầu tư thực hiện các chính sách xã hội như chi cho Giáo dục – đào
tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã hội, trợ
giá hàng hóa…
Thông qua hình thức thu thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều
tiết thu nhập, phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp.
Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng công cụ ngân sách nhà nước để điều chỉnh các vấn đề xã hội
cần chú ý thống nhất giữa chính sách và biện pháp thực hiện để nhóm đối tượng hưởng
lợi từ chính sách phù hợp với mục tiêu của chính sách.
Về mặt thị trường: ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính

sách bình ổn giá cả thị trường, chống lạm phát.
Nhà nước sử dụng những công cụ về chính sách chi ngân sách, thuế, phí, lệ phí, vay để
có thể chủ động điều chỉnh giá cả và thị trường.
Những chính sách đó có thể thắt chặt hay nới lỏng tùy thuộc vào mục đích và mức độ tác
động đến cung – cầu thị trường mà nhà nước mong muốn điều chỉnh.
Việc huy động của ngân sách nhà nước từ các hình thức thuế, phí, lệ phí, vay, bảo hiểm
xã hội trên GDP và GNP chiếm tỷ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền
tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ khan hiếm
hơn. Mặt khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống nhưng
ngân sách nhà nước lại có điều kiện tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn sẽ
kích thích tăng cung.
Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP chiếm tỷ trọng thấp thì
nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng cầu về hàng hóa,
dịch vụ nhưng ngân sách lại không có điều kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.
Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ tác động tăng cung ứng
vốn từ các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng cho tương lai và làm giảm lượng cầu về vốn
đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân toàn xã
hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
mà không muốn cho nhà nước vay.
Mặt khác, lãi suất các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên thị trường chứng
khoán có thể tham gia điều tiết quan hệ cung – cầu trên thị trường chứng khoán.
Dự trữ nhà nước đóng vai trò không thể thiếu nhất là trong cơ chế thị trường. Giá cả do
thị trường quyết định, phụ thuộc và quan hệ cung – cầu và các yếu tố khác. Để bảo vệ lợi
ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kích thích sản xuất phát triển nhà nước cần
theo dõi biến động giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ hàng hóa, tài chính để
điều chỉnh kịp thời.
Chống lạm phát là nội dung quan trọng trong việc điểu chỉnh thị trường. Có nhiều nguyên
nhân gây ra lạm phát trong đó có nguyên nhân xuất phát từ lĩnh vực thu chi ngân sách
nhà nước. Nếu đồng vốn ngân sách được sử dụng hợp lý, hiệu quả thì sẽ có tác động tích

cưc, ngượi lại sẽ gay ra bất ổn trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng. Việc phát hành
thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là nguyên nhân trực tiếp khiến lạm
phát tăng. Và sự cân bằng của ngân sách nhà nước sẽ có tác động đến sự cân bằng của
cán cân thanh toán quốc tế do sự cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự cân
bằng của cán cân thương mại; mức độ thực hiện cân bằng ngân sách nhà nước nói lên khả
năng chi trả các khoản nợ nước ngoài đến hạn.
3. Thực tế vai trò của ngân sách nhà nước
Nhìn chung, ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đối với bất kỳ
một nhà nước trong bất kỳ thời đại nào. Đối với Việt Nam cũng vậy, ngân sách nhà nước
thể hiện rõ nét vai trò đó trong suốt quá trình xây dựng đất nước, đặc biệt là trong giai
đoạn từ trước đổi mới và sau đổi mới, quá trình sử dụng ngân sách nhà nước đã có sự tác
động tích cực và cả tiêu cực đối với nền kinh tế nhất là quá trình chuyển đổi nền kinh tế
từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Sơ đồ tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước:

Trước đổi mới, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, hầu hết các khoản tích lũy cho đầu tư đều phải dựa vào các nước xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thu chi ngân sách mất cân đối lại dựa vào
phát hành tiền để bù đắp thâm hụt nên gây ra tình trạng lạm phát và nền kinh tế khủng
hoảng trầm trọng.
Thu chi ngân sách của Chính phủ trong thời kỳ này mang nặng tính bao cấp, nguồn thu
eo hẹp, quy mô nhỏ nhưng phải chịu gánh nặng từ hầu hết các nhu cầu chi tiêu của nền
kinh tế – xã hội. Do phải chi tiêu phục vụ khôi phục và xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế và
đẩy mạnh năng lực sản xuất của doanh nghiệp nhà nước nên tổng chi ngân sách nhà nước
so với thu nhập quốc dân luôn ở mức cao, lớn hơn tổng thu rất nhiều. Ngân sách nhà
nước thâm hụt nặng nề, tổng thu ngân sách luôn thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu chi
tiêu.
Toàn bộ nguồn vốn chi đầu tư phát triển đều phải dựa vào nguồn vốn viện trợ và vay nợ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng như từ nguồn phát hành tiền của ngân
hàng nhà nước.

Nhu cầu chi NSNN rất lớn trong khi nguồn thu hạn hẹp dẫn đến thâm hụt trầm trọng
NSNN. Thâm hụt NSNN giai đoạn 1976-1980 là 28%, giai đoạn 1981-1985 là 14%. Việc
phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách đã dẫn đến lạm phát phi mã vào giữa những
năm 80 buộc Nhà nước phải tiến hành cải cách. Nhưng cuộc cải cách giá-lương-tiền năm
1985 không những không cải thiện được tình hình mà còn làm cho nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng trầm trọng hơn.
Chính sách thu NSNN trong thời kỳ này có đặc trưng chủ yếu:
Chính sách thuế không thực hiện đồng bộ nền kinh tế mà chỉ áp dụng đối với bộ phận
kinh tế ngoài quốc doanh, kinh doanh tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
Chính sách thu đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước là cơ chế thực thanh thực chi, thu
đủ chi đủ, không phân biệt hiệu quả đầu tư kinh doanh, cũng không có tác dụng khuyễn
khích đổi mới công nghệ, tăng năng suất chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, tăng lợi
nhuận.
Chi tiêu dùng trong thời kỳ này chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng. Giai đoạn 1976-
1980 chi tiêu dùng chiếm bình quân 60,8% tổng chi NSNN. Do bao cấp tràn nan và nặng
nề nên nhu cầu chi tiêu NSNN ngày càng tăng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cuối năm 1986 đã mở ra một thời kỳ mới với những
chương trình cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện. Nền kinh tế đã chuyển dần từ mô
hình tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm của Việt Nam.
Sau 10 năm đổi mới, vị thế và tiềm lực tài chính công đã được củng cố và tăng cường, dự
trữ tài chính nhà nước và dự trữ ngoại tệ tăng khá, cán cân thanh toán được cải thiện. Về
quy mô, thu ngân sách nhà nước đã tăng từ mức 13,4% GDP giai đoạn 1986-1990 lên
mức 20,2% giai đoạn 1991-2000. Điều này đã tạo nguồn lực cho nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ chiến lược, đưa nền tài chính ngân hàng thoát khỏi tình trạng phụ thuộc, có tích
lũy vốn để đầu tư phát triển kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề xã hội.
Thực hiện cải cách lại cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã góp phần làm giảm
đáng kể các khoản chi cho các doanh nghiệp nhà nước.
Chi đầu tư phát triển trong thời kỳ này được coi là nội dung ưu tiên hàng đầu trong cơ
cấu chi NSNN.
Chi đầu tư phát triển của NSNN là quá trình phân phổi và sử dụng một phần vốn tiền tệ

từ quỹ NSNN để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển sản xuất và dự
trữ vật tư hàng hóa của đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Giai đoạn này nguồn vốn chi đầu tư phát triển từ NSNN tuy còn hạn hẹp nhưng vốn đàu
tư của toàn xã hội đã tăng nhanh đáng kể. Ngoài nguồn vốn chi từ NSNN còn huy động
được nguồn vốn từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, đầu tư gián tiếp của
Nhà nước thông qua cơ chế để lại khấu hao cơ bản cho các doanh nghiệp nhà nước, cấp
lại một số tiền thuế, để lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, miễn thuế cho các doanh nghiệp
mới thành lập đi vào hoạt động. Đồng thời với chính sách huy động vốn đầu tư nước
ngoài đã góp phần tăng mức đầu tư xã hội lên cao.
NSNN được sử dụng để kích thích nền kinh tế phát triển hoặc hình thành cơ cấu kinh tế
mới, hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã
hoạch định thông qua các hoạt động như:
Dùng vốn NSNN để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, điện, nước
thuỷ lợi… Đây là những lĩnh vực rất cần cho sự phát triển kinh tế xã hội nhưng tư nhân
không muốn đầu tư (do tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn chậm) hoặc không đủ
khả năng (về vốn và trình độ) để đầu tư.
Ví dụ : Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi) là công trình trọng điểm quốc gia,
nhằm hình thành ngành công nghiệp lọc hóa dầu của Việt Nam, tạo điều kiện cho phát
triển nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ liên quan. Công trình còn góp phần thúc đẩy
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của miền Trung, từng bước tạo ra sự phát triển
kinh tế cân đối giữa các vùng, miền trong cả nước. Điều này đáp ứng mục tiêu vừa phát
triển kinh tế vừa ổn định xã hội của Chính phủ. Hơn nữa, Công trình trọng điểm quốc gia
về dầu khí này cho phép chúng ta chế biến và gia tăng giá trị dầu thô khai thác trong
nước, hạn chế nhập siêu và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng dầu từ nước
ngoài, đảm bảo từng bước về an ninh năng lượng. Năm 2010, tính từ khi bàn giao,
NMLD Dung Quất đạt doanh thu 60.000 tỷ đồng, nộp ngân sách 10.000 tỷ đồng, sản
phẩm đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu của cả nước.
Hay cụm công trình công nghiệp khí-điện-đạm Cà Mau có tổng giá trị hơn 1,2 tỷ USD
cung cấp điện năng cho đất nước. Đây là công trình trọng điểm có ý nghĩa cả về kinh tế,

xã hội và an ninh quốc phòng.
Cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để
chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn
hảo.
Thực hiện những ưu đãi về tín dụng hoặc thuế nhằm khuyến khích phát triển những
ngành nghề hoặc vùng cần phát triển, ví dụ các ngành kinh tế mới (công nghệ sinh học,
tin học), các ngành trọng điểm (sản xuất hàng xuất khẩu), các vùng kinh tế ở vùng sâu
vùng xa cần hỗ trợ phát triển để đảm bảo đời sống người dân ở đó. Ví dụ gói kích cầu
năm 2009 (bao gồm cả hỗ trợ lãi suất, miễn giảm thuế…) trị giá khoảng 8 tỷ USD.
Thông qua việc áp dụng thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ có tác dụng định
hướng tiêu dùng, định hướng đầu tư nhằm tiết kiệm nguồn vốn có hạn của xã hội để phát
triển kinh tế.
Ví dụ, để hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao kèm theo
thuế tiêu thụ đặc biệt như ở mặt hàng ô tô, máy bay…
Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước có thể tăng chi ngân sách cho đầu tư, cắt giảm thuế
nhằm kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sớm.
Thông qua các khoản chi đầu tư từ vốn ngân sách và ưu đãi thuế để thúc đẩy hình thành
cơ cấu kinh tế mới, hợp lý hơn, qua đó phát huy các nguồn lực trong xã hội một cách có
hiệu quả.
Vai trò ổn định kinh tế xã hội của NSNN được thể hiện qua những hoạt động như:
Lập quỹ dự trữ nhà nước về hàng hoá, vật tư thiết yếu, các quỹ dự phòng tài chính (kể cả
bằng vàng và ngoại tệ) để ổn định kinh tế xã hội khi có sự biến động do thiên tai, tai hoạ
lớn mà Nhà nước cần can thiệp.
Ví dụ như tính đến tháng 11/2012 Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã chỉ đạo các đơn vị nhập
đủ 191.550 tấn gạo và 80.000 tấn thóc, hoàn thành 100% kế hoạch được giao; về kết quả
xuất đổi hàng, thóc được 68.019 tấn (đạt 81,2%), gạo được 86.477 tấn, đạt 62,1%; triển
khai việc xuất 5.000 tấn gạo quà tặng đến nhân dân Triều Tiên; xuất 4.000 tấn gạo viện
trợ cho các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An khắc phục hậu quả thiên tai; mua vật tư, thiết bị,
đã nhập được 185.000 chiếc phao tròn tại các đơn vị; thương thảo hợp đồng với các nhà
thầu trúng thầu cung cấp thiết bị chữa cháy rừng, nhà bạt nhẹ theo kết quả đấu thầu được

Bộ phê duyệt.
Tính đến ngày 25/3/2013, Tổng cục dự trữ quốc gia đã hoàn thành việc xuất cấp 29.092
tấn gạo hỗ trợ cho các địa phương, trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm 2013 và
750 tấn gạo (đợt 1) cho Dự án Đầu tư và phát triển rừng, tại 4 huyện vùng cao núi đá tỉnh
Hà Giang.
Bình ổn giá cả hàng hoá để ổn định thị trường. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng
quan trọng, mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế
suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia
Ví dụ: Bộ Công Thương ban hành văn bản số 3705/BCT-CNNg triển khai thực hiện các
biện pháp bình ổn giá cả mặt hàng thép, góp phần kiềm chế lạm phát trong năm 2010.
Bình ổn giá xăng trong cuối năm 2010 để tránh việc giá cả các mặt hàng khác tăng nhanh
trong dịp tết, tranh nguy cơ lạm phát trong đầu năm 2011.
Cấp tín dụng ưu đãi hoặc mua lại các doanh nghiệp có vị trí quan trọng đang gặp khó
khăn, có nguy cơ giải thể hoặc phá sản.
Kinh tế Việt Nam đang ở trong thời kỳ cuối của giai đoạn suy thoái kinh tế. Chính phủ đã
buộc phải tung ra các gói cứu trợ để kích thích nền kinh tế đang suy yếu.Trong vòng 5
năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam đã hai lần tung ra các gói cứu trợ để kích thích nền
kinh tế sau khi thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát.
Nhà nước đã tung ra các gói kích cầu kinh tế như gói hỗ trợ lãi suất 160.000 tỷ đồng đẩy
nhanh tăng trưởng tín dụng năm 2009 và gói kích cầu miễn giảm thuế cho doanh nghiệp
29.000 tỷ đồng năm 2012.
Gần đây nhất, ngày 7/01/2013 Chính phủ ra Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xâu nhằm tháo
gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các gói kích cầu cũng mang lại hiệu quả và đôi khi những
sai lầm trong quản lý điều hành doanh nghiệp đã dẫn đến doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và
gây thất thoát tiền bạc của nhà nước. Đó là trường hợp của Tập đoàn kinh tế
Vinashin (Vinashin Business Group) đã làm thất thoát hàng chục nghìn tỷ VNĐ của nhà
nước. Các thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất thoát của Vinashin đã gấp 4
lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi kinh tế trong cơn khủng hoảng suy

thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo cả
nước.
Lập quỹ dự trữ ngoại tệ để ổn định tỷ giá.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam .
Năm 2008 dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 23,9 tỷ USD, năm 2009 giảm xuống còn
14,1 tỷ USD, năm 2010 chỉ còn 12,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, Quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện tương ứng khoảng 14-16 tuần nhập
khẩu. Nếu tính theo số liệu Hải quan về kim ngạch nhập tháng 1/2013 thì khối lượng
ngoại tệ đang dự trữ của Việt Nam có thể lên tới gần 43 tỷ USD.
Sử dụng các chính sách tài khoá thắt chặt hoặc mở rộng nhằm điều tiết kinh tế vĩ mô
(giảm nhiệt nền kinh tế, chống lạm phát, phục hồi tổng cầu).
Ngoài ra, các hoạt động nhằm cân bằng ngân sách cũng có ảnh hưởng lớn tới các cân
bằng vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán…
Vai trò NSNN về mặt thực hiện công bằng xã hội thể hiện ở những hoạt động như:
Chi phúc lợi công cộng như giáo dục, y tế, văn hoá… nhằm tạo điều kiện nâng cao mặt
bằng xã hội.
Chi trợ cấp trực tiếp đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em mồ côi,
người già không nơi nương tựa, những gia đình có công với đất nước. Chi trợ cấp thất
nghiệp, người có thu nhập thấp nhằm giúp ổn định xã hội.
Chi trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí
để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ,…
Chi hỗ trợ việc làm cho người nghèo, người tàn tật qua tín dụng ưu đãi.
Thông qua thuế thu nhập, thuế lợi tức nhằm điều tiết thu nhập cao để phân phối lại cho
các đối tượng có thu nhập thấp, góp phần giảm bớt khoảng cách giàu nghèo.
Về nội dung và cơ cấu chi đầu tư phát triển đã từng bước thay đổi theo hướng phù hợp
với yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần.
Một xu hướng mới đang hình thành: chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung của nhà
nước được dành chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực đặc biệt khó khăn
hoặc không thu hồi được vốn. Trong thời kỳ 1991-1995 tỷ trọng chi đầu tư xây dựng cơ
bản bình quân là 85,2% chi đầu tư phát triển, đến năm 1996 tỷ lệ này đã tăng lên 92,1%,

năm 1999 tăng lên 93,2%.
Hiệu quả và tác động của chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN đến kinh tế – xã hội
được thể hiện ở những mặt sau đây:
Về hiệu quả kinh tế:
Đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN có tác động vào phát triển GDP kinh tế nhà nước.
Giai đoạn 2006-2008 và 2009-2010 hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN đối
với việc phát triển GDP kinh tế nhà nước có xu hướng tăng. Giai đoạn 2005-2006 và
2008-2009 hiệu quả giảm, đặc biệt giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm rõ rệt. Nhìn chung
cả giai đoạn 2005-2010 hiệu quả tăng, giảm thiếu ổn định và ngày càng có xu hướng
giảm dần với tốc độ lớn trong việc đóng góp vào phát triển GDP kinh tế nhà nước.
Đối với đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN theo số liệu Niên giám thống kê Việt Nam
giai đoạn 2005-2010, kết quả cho thấy ICOR kinh tế nhà nước đã tăng rất nhanh và tăng
liên tục từ 6,81 năm 2005 lên 10,24 năm 2010, có năm tăng đến 12, 37 (năm 2009).
ICOR khu vực vốn đầu tư phát triển từ NSNN tăng nhanh và cao như vậy, giai đoạn
2005-2010 đầu tư phát triển từ vốn NSNN kém hiệu quả.
Chi đầu tư phát triển tới hiệu quả xã hội trong giai đoạn 2006-2008 và 2009-2010 có tác
động làm tăng mức sống của người dân còn giai đoạn 2005-2006 và 2008-2009 có hiệu
quả giảm, đặc biệt giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm rõ rệt. Nhìn chung, trong cả giai
đoạn 2005-2010 đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN có hiệu quả giảm rõ rệt trong việc
nâng cao mức sống của người dân.
Về lao động, giai đoạn 2005-2007, hiệu quả đầu tư phát triển từ NSNN trong việc tăng
thêm số lao động bình quân trong khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần, giai đoạn
2008-2009 tăng lên. Nhìn chung, trong cả giai đoạn 2005-2010 đầu tư phát triển từ
NSNN có hiệu quả nhưng thiếu ổn định.
Đầu tư phát triển từ vốn NSNN trong việc giảm hộ nghèo ở nông thôn có hiệu quả tăng
lên.
Về bình ổn giá cả, giai đoạn 2005-2008 và 2009-2010 đầu tư phát triển từ NSNN có hiệu
quả tăng, giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm. Nhìn chung, trong cả giai đoạn 2005-2010
đầu tư phát triển vào bình ổn giá cả còn thiếu ổn định và hiệu quả thấp.
Từ năm 2006-2010 tình hình lạm phát khó lường và khó kiểm soát. Đầu tư phát triển từ

nguồn vốn NSNN ít có hiệu quả trong việc bình ổn giá cả và chống lạm phát.
Tóm lại, ngân sách nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc huy động các nguồn vốn
vay để thực hiện các nhu cầu chi tiêu của nhà nước và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên,
vai trò đó chỉ được thực hiện hiệu quả khi ngân sách nhà nước được sử dụng hợp lý và
hiệu quả từ quá trình huy động vốn đến thu, chi ngân sách nhà nước cũng như các chính
sách NSNN chung. Ngược lại, ngân sách nhà nước sẽ có tác động tiêu cực, hiệu quả của
NSNN giảm, kinh tế phát triển thiếu ổn định và điều này đúng với thực trạng kinh tế Việc
Nam trong những năm gần đây.
Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước

1 Chi đầu tư phát triển:
Việc phân biệt chi đầu tư phát triển trong cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước là căn
cứ vào mục đích kinh tế-xã hội của việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước. Theo
đó, các khoản chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành 2 nhóm lớn: chi đầu tư phát
triển và chi thường xuyên. Trong đó, chi đầu tư phát triển mang tính chất của khoản chi
tích luỹ. Chi thường xuyên còn được hiểu là chi có tính chất tiêu dùng.
Chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi
phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, gắn liền với việc xây dựng, mở rộng cơ sở hạ
tầng kinh tế. Có thể nói, chi đầu tư phát triển là khoản chi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật,
nhằm phát triển năng lực sản xuất, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân. Việc
nhà nước thực hiện chi đầu tư phát triển chính là việc ngân sách nhà nước bỏ vốn vào các
hoạt động kinh tế xã hội để hướng đến những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn trong tương
lai. Đây là những khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhưng ít phát sinh lợi ích ngay lập tức.
Điều này làm cho các khoản chi đầu tư phát triển ít thu hút tư nhân tham gia đầu tư.
Chính vì vậy mà vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc thực hiện các khoản chi
này. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, chi đầu tư phát triển thường có những khoản chi
lớn hay được kể đến là:
-Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi này được ngân sách nhà nước dùng để chi cho
việc đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội mà không có khả năng
thu hồi vốn. Khoản chi này nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các

nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
-Chi đầu tư, hỗ trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, lĩnh vực quan trọng
mà cần thiết phải có sự tham gia của nhà nước Nhà nước. Những khoản chi này góp phần
quan trọng để nhà nước thực hiện vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế xã
hội theo đúng múc tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.
-Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hoá, vật tư dự trữ nhà nước có tính chiến
lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ mang tính chuyên ngành.
-Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước chẳng
hạn như cho chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình nước
sạch nông thôn, phủ xanh đồi trọc…
Chi đầu tư phát triển có những đặc điểm như sau:
-Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn như không có tính ổn định do thứ tự và tỉ trọng ưu
tiên trong chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước cho từng nội dung chi, từng lĩnh
vực kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn là khác nhau.
-Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với việc
thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
2 Chi thường xuyên:
So với nhóm các khoản chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển,
nhóm các khoản chi có tính chất tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn. Chi thường xuyên
của ngân sách nhà nước thể hiện quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách nhà
nước để đáp ứng cho các nhu cầu gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ
máy nhà nước. Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm chi chủ yếu được xác định:
– Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng: bao gồm chi quản lý hành
chính của các cơ quan Nhà nước ở các cấp. Nhà nước ngày càng có xu hướng giảm thiểu
đến mức tối đa có thể được các khoản chi năm trong nhóm này, nhằm mục đích tăng thu
và tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước, tiến đến tinh gọn bộ máy quản lý hành chính
nhà nước các cấp sao cho hiệu suất làm việc đạt mức cao nhất.
– Chi cho các hoạt động sự nghiệp: Bao gồm chi cho các hoạt động kinh tế, giáo dục, y
tế, nghiên cứu khoa học, đào tạo, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, trợ cấp chính sách
xã hội và bảo hiểm xã hội… Chi hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội,

chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp…Đây là nhóm chi chiếm tỷ
trọng khá lớn trong tổng số chi có tính chất tiêu dùng của ngân sách Nhà nước.
– Chi cho quốc phòng và an ninh: Là khoản chi hết sức cần thiết của quốc gia, nhăm bảo
đảm điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội.
– Chi khác: bao gồm chi trợ giá theo chính sách của nhà nước, phần chi thường xuyên
trong các chương trình, mục tiêu quốc gia.
Chi thường xuyên có đặc điểm sau:
-Những khoản chi thường xuyên có tính chất ổn định, bởi vì, có nhiều chức năng của nhà
nước là không thay đổi như chức năng bảo vệ công dân, chức năng quản lý kinh tế. Mặt
khác, nhà nước luôn phải đảm bảo những khoản chi mang tính chất ổn định mà không
phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội thay đổi, chẳng hạn như khoản chi lương của công
chức, viên chức.
-Các khoản chi thường xuyên có hiệu lực tác động trong thời gian ngắn và mang tính tiêu
dùng xã hội. Chi thường xuyên chủ yếu đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các
nhiệm vụ của nhà nước về quản lý kinh tế xã hội trong từng năm ngân sách. Đây là khoản
chi chủ yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, quốc phòng
an ninh, các hoạt động sự nghiệp
-Phạm vi, mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với cơ cấu tổ chức
của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của nhà nước trong việc cung ứng các hàng hoá
công cộng. Một quốc gia với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, hoạt động
hiệu quả thì khoản chi thường xuyên càng được tiết kiệm và ngược lại.
-Chi thường xuyên cần được quản lý theo dự toán và được sử dụng theo nguyên tắc tiết
kiệm hiệu quả. Trong quá trình phân bổ và lập kế họach chi để đưa vào trong dự toán
phải luôn tính toán sao cho chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất Những khoản
chi thường xuyên một khi đã được ghi nhận vào dự toán và được cơ quan quyền lực nhà
nước thông qua sẽ được xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Các đơn vị quản lý tài chính và chủ
thể thụ hưởng ngân sách nhà nước có nghĩa vụ chấp hành tuyệt đối. Yêu cầu này nhằm
hướng đến việc đảm bảo mục tiêu cân đối ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn bao gồm chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu

tư, chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính và chi bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới.
3 Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư:
Khoản nợ gốc thực chất đó là số tiền nhà nước đã vay của các chủ nợ trong và ngoài
nước đến hạn phải thanh toán. Chi trả nợ bao gồm:
-Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước đã vay của các tầng lớp dân cư,
đoàn thể xã hội, tổ chức thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu, công
trái…). Ở đây, Chính phủ là chủ thể đứng ra vay và phải đảm bảo thanh toán đầy đủ,
đúng hạn cả gốc, lãi cho người chủ sở hữu công trái, trái phiếu của Chính phủ. Việc thanh
toán chi trả sẽ đựoc thực hiện tại kho bạc nhà nước. Nguồn vốn thanh toán sẽ do ngân
sách nhà nước đảm nhận. Cụ thể là, ngân sách nhà nước ở trung ương có trách nhiệm chi
trả các loại giấy tờ có giá phát hành phục vụ cho các công trình trung ương. Hàng năm,
Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thanh toán trái phiếu trình Chính phủ phê duyệt
và đưa vào dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ vào kế hoạch được duyệt, cơ quan tài
chính chuẩn bị nguồn vốn để kho bạc nhà nước thanh toán trái phiếu, công trái đến hạn.
Trường hợp công trái, trái phiếu đã đến hạn thanh toán mà chủ sở hữu chưa đến thanh
toán thì trái phiếu, công trái đó sẽ được bảo lưu cả gốc lẫn lãi trong thời gian phát hành
và được hưởng lãi suất ngang bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, ngân sách địa phương cũng có thể
được bổ sung bằng nguồn vốn thu đựoc từ việc phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu. Trường hợp ngân sách cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch
5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối
của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì ngân sách cấp tỉnh đó được phép huy động vốn
trong nước bằng việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Việc huy động vốn
bằng hình thức này phải tuân thủ yêu cầu cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ
động trả hết nợ khi đến hạn. Mức tổng dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá
30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
-Trả nợ nước ngoài: đây là những khoản nợ nước ngoài mà nhà nước đã vay của chính
phủ các nước, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Chính phủ sẽ

lập kế hoạch trả nợ theo hàng năm và kế hoạch trả nợ 5 năm. Hàng năm, Bộ Tài chính có
trách nhiệm lập kế hoạch tổng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ trình lên cho
Chính phủ duyệt. Thủ tướng Chính phủ sẽ uỷ quyền cho Bộ Tài chính thay mặt Chính
phủ theo hạn mức được duyệt. Nguồn vốn để thanh toán nợ nước ngoài do ngân sách
trung ương đảm nhận. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí nguồn vốn hàng năm theo kế
hoạch được duyệt để trả nợ nước ngoài khi đến hạn. Việc trả nợ theo kế hoạch có thể
được tiến hành theo phương thức trả nợ thông qua hàng hoá hoặc bằng tiền.
Theo xu hướng đổi mới chính sách tài chính quốc gia, quan điểm mới về cân đối ngân
sách và bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Các khoản vay trong nước, nước ngoài của
Chính phủ đều phải được thực hiện cho mục đích đầu tư và phát triển, xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế. Đối với vốn vay để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà
nước tiến hành cấp phát vốn và thực hiện thu hồi vốn thông qua tu phí, giá dịch vụ. Đồng
thời, nhà nước sẽ là chủ thể trực tiếp trả nợ. Đối với vốn cho vay mục đích đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà nước là người vay sau đó sẽ cho tổ chức kinh tế
trong nước vay lại. Các tổ chức này sau một thời gian nhất định và với một tỷ lệ lãi suất
được xác định trên thị trường vốn ở trong nước, phải hoàn trả số vốn vay cho nhà nước
để nhà nước thanh toán nợ cho chủ thể đã cho vay.
4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính:
Quỹ dự trữ tài chính của quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách nhà nước, hình thành
nên nguồn dự trữ chiến lược do nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng. Quỹ dự trữ
quốc gia được sử dụng với 2 mục đích:
-Nhằm tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp ngân sách nhà nước cần thực
hiện nhu cầu chi để đảm bảo nhiệm vụ, yêu cầu kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nguồn
thu cho ngân sách nhà nước chưa tập trung kịp. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính tạm ứng
cho ngân sách nhà nước thì ngân sách nhà nước phải hoàn trả trong năm ngân sách.
-Nhằm xử lý cân đối ngân sách nhà nước. Việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho mục đích
xử lý cân đối ngân sách được thể hiện trong các trường hợp như: cần nguồn ngân sách
nhà nước để phòng chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, tai nạn trên diện rộng, thực
hiện các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng an ninh, hoặc các nhiệm vụ cần thiết, cấp
bách khác phát sinh ngoài dự toán để tránh không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến sản xuất,

đời sống xã hội. Ngoài ra, nếu nguồn thu ngân sách nhà nước, kể cả từ vay nợ nhằm mục
đích bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước không đạt mức bội chi mà dự toán ngân sách
nhà nước đã tiên liệu theo quyết định của cơ quan quyền lực ở trung ương và địa phương,
trường hợp này quỹ dự trữ tài chính sẽ được sử dụng nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối ngân
sách trong năm ngân sách.
Quỹ dự trữ quốc gia được hình thành từ ngân sách nhà nước, do cơ quan quyền lực cao
nhất (Quốc hội) quyết định. Quỹ dự trữ quốc gia được quản lý chuyên trách bởi Cục dữ
trự quốc gia-một cơ quan được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương.
Hàng năm, ngân sách nhà nước sẽ bố trí những nguồn tăng thu từ ngân sách nhà nước,
thu kết dư và dự toán chi ngân sách nhà nước hàng năm (tối đa không vượt quá 25% tổng
dự toán chi) để bổ sung cho quỹ dự trữ tài chính.
Về thẩm quyền quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định đối với việc tạm ứng cho ngân sách nhà
nước từ quỹ dự trữ tài chính. Trường hợp xử lý cân đối ngân sách, đối với quỹ dự trữ tài
chính ở trung ương, Thủ tướng Chính phủ sẽ có thẩm quyền quyết định. Đối với quỹ dự
trữ tài chính ở địa phương sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nếu không xét đến
trường hợp tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính phải được hoàn trả ngay trong năn ngân sách,
việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho các mục đích khác cần phải đảm bảo yêu không
bảo toàn số dư của quỹ dự trữ tài chính. Theo đó, không được sử dụng vượt quá 30% số
dư của Quỹ dự trữ tài chính tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.
Ngoài ra, quỹ dự trữ tài chính phân biệt với quỹ dự phòng ngân sách-một khoản chi được
bố trí từ nội dung chi đầu tư phát triển.
5 Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới:
Mục đích của khoản chi này nhằm đảm bảo tính công bằng, yêu cầu phát triển cân đối
giữa các vùng địa phương. Luật Ngân sách nhà nước 2002 đã có sự mở rộng hơn so với
trước đây. Trước khi Luật Ngân sách nhà nước 2002 có hiệu lực, ngân sách cấp trên chỉ
được phép bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới để đảm bảo yêu cầu cân đối thu chi
cho cấp ngân sách được thụ hưởng. Hình thức cho bổ sung này đựơc gọi là cho bổ sung
để cân đối ngân sách và thể hiện tính chất tài trợ vô điều kiện. Hiện nay, loại hình chi bổ
sung cân đối thu, chi này vẫn được duy trì nhằm tạo đìêu kiện cho chính quyền cấp dưới

cân đối nguồn ngân sách để hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh
được giao. Ngoài ra, pháp luật ngân sách nhà nước hiện hành còn cho phép ngân sách cấp
trên chi bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới để hỗ trợ một phần cho những cấp
ngân sách có khó khăn khi phát sinh các nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết mà sau khi đã tận
dụng mọi khả năng về kinh phí của cấp mình chẳng hạn như đã sử dụng nguồn quỹ dự
phòng, quỹ dự trữ tài chính mà vẫn chưa đáp ứng được.[1] Hình thức chi bổ sung có mục
tiêu mang bản chất của những khoản tài trợ bất đối ứng.

×