Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Xây dựng webmail client bằng công nghệ java

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.42 KB, 80 trang )

Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 1/80
LỜI CẢM ƠN



rước hết tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Công Nghệ
Thông Tin của trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh đã trang bị cho
tôi những kiến thức cơ bản cần thiết trong những năm học vừa qua để tôi có
thể thực hiện tốt cuốn khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Ninh Xuân Hương đã tận tình giúp đỡ và hướng
dẫn em hoàn tất cuốn khóa luận này. Ngoài ra tôi cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè đã giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng trong khoảng thời gian cho phép cũng như những
hạn chế về kiến thức nên cuốn khóa luận này của tôi không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Chính vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như bạn bè
gần xa và những cá nhân hay tổ chức có quan tâm đến lĩnh vực được trình bày trong cuốn
khóa luận này.


TP Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2009
Trần Phan Phong Phú

























T
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 2/80
Mục lục

Phần 1: Lời nói đầu 5
Phần 2: Cơ sở lý thuyết 6
Chương 1: Tổng quan về Web và thư điện tử 6
1. Giới thiệu 6
2. Khái niệm về Internet 6
3. Mô hình hoạt động của web 7
3.1. Khái niệm về Website 7
3.2. Tên miền (Domain name) 7

3.3. Nơi lưu trữ WEBSITE (Hosting) 7
3.4. Giao diện WEBSITE 8
3.5. WEBSITE tĩnh và WEBSITE động 8
3.6. Khái niệm thương mại điện tử 8
3.7. Tìm kiếm và Quảng bá WEBSITE trên Internet 8
3.8. Khái niệm về World Wide Web (WWW) 9
4. Tìm hiểu Webmail 9
4.1. Giới thiệu 9
4.2. Ưu điểm Webmail 10
4.3. Khuyết điểm Webmail 11
5. Mô hình client/server 11
5.1. Giới thiệu 11
5.2. Client 13
5.3. Server 13
5.4. Web Server/mail Server và hoạt động của browser WWW 14
6. Dịch vụ thư điện tử 14
6.1. Giới thiệu 14
6.2. Khái niệm 14
6.3. Kiến trúc và dịch vụ 16
7. Phương thức hoạt động 21
7.1. Email đến được hộp thư của người nhận như thế nào? 21
7.2. Email có thể bị giữ chậm hoặc bị mất liên lạc ra sao? 23
8. Cấu trúc một thư điện tử 24
9. Các giao thức gửi nhận mail 25
9.1. SMTP (Simple Mail Transfer Protocol) 25
9.1.1. Giới thiệu chung 25
9.1.2. Mô hình hoạt động phiên giao dịch 25
9.1.3. Thủ tục Mail 27
9.1.4. Thủ tục Forwarding 29
9.1.5. Các thủ tục Mailing và Sending 29

9.2. POP3 (Post Office Protocol) 30
9.2.1. Giới thiệu 30
9.2.2. Mô hình hoạt động phiên giao dịch 30
9.2.3. Trạng thái AUTHORIZATION 31
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 3/80
9.2.4. Trạng thái TRANSACTION 33
9.2.5. Trạng thái UPDATE 37
9.3. IMAP (Internet Message Access Protocol) 38
9.4. Khái niệm Mailserver 45
Chương 2: Các công nghệ dùng trong ứng dụng 47
1. Giới thiệu java 47
1.1. Sự xuất hiện ngôn ngữ Java 47
1.2. Các tính chất, ưu khuyết điểm của Java 51
1.2.1. Các tính chất cơ bản 51
1.2.2. Ưu điểm của java 52
1.2.3. Nhược điểm của Java 53
2. Các công nghệ sử dụng trong ứng dụng 53
2.1. J2EE 53
2.2. JSP/Servlet 54
2.3. Struts framework 55
2.3.1. Giới thiệu 55
2.3.2. Các thành phần cơ bản của Struts 56
2.3.3. Tiến trình thực hiện 56
2.4. Ajax 56
2.4.1. So sánh với các ứng dụng web truyền thống 57
2.4.2. Các trình duyệt hổ trợ Ajax 58
2.5. Javascript 59
2.6. HTML 59

2.7. Hibernate 60
2.8. Webserver Tomcat 61
2.9. Mô hình MVC 61
2.10. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu MySQL 62
2.10.1. Giới thiệu 62
2.10.2. Tại sao lại sử dụng MySQL? 62
2.10.3. Một số đặc điểm của MySQL 62
2.11. Công cụ phát triển Java 63
Phần 3: Xây dựng hệ thống Webmail 65
Chương 1: Phân tích thiết kế hệ thống Mail 65
1. Khảo sát 65
2. Yêu cầu bài toán 65
3. Chức năng xử lý 65
4. Phân tích thiết kế 66
4.1. Phân tích user case 66
4.1.1. Sơ đồ user case 66
4.1.2. Chi tiết user case 67
4.2. Thiết kế cơ sở dữ liệu 71
4.3. Sơ đồ quan hệ các bảng 72
4.4. Thiết kế website 72
4.4.1. Sơ đồ website 72
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 4/80
4.4.2. Một số layout chính 73
5. Sơ đồ kiến trúc hệ thống webmail 75
5.1. Kiến trúc chung 75
5.2. Kiến trúc Struts 75
5.3. Kiến trúc Hibernate 76
5.4. Kiến trúc mail folder 76

Chương 2: Cài đặt và triển khai ứng dụng 77
1. Cài đặt Java 77
2. Cài đặt MySQL Server 5.0.27 77
3. Cấu hình Mailserver 77
4. Cấu hình Webserver 77
5. Triển khai ứng dụng 78
Chương 3: Kết luận 79
1. Kết quả đạt được 79
2. Hạn chế của chương trình 79
3. Hướng phát triển chương trình 79






























Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 5/80
Phần 1: Lời nói đầu

gày nay với sự phát triển mạnh mẽ của tin học và công nghệ Internet, hầu
như mọi người đều thấy rõ lợi ích mà các dịch vụ do mạng Internet mang
lại.
Dịch vụ thư điện tử gọi tắt là Email là một trong nhưng dịch vụ được sử dụng
nhiều nhất trên Internet hiện nay. Dịch vụ này cho phép các cá nhân hay tổ chức trao đổi
thư với nhau thông qua mạng Internet. Nhiều người sử dụng Internet chỉ để dùng dịch vụ
này. Hầu như mọi trao đổi thông tin liên lạc trong doanh nghiệp đều sử dụng Email.
Thông thường, khi sử dụng dịch vụ thư tín điện tử, người sử dụng thường ít khi
quan tâm xem hệ thống bên trong đã thực hiện như thế nào. Vì vậy, họ ( người sử dụng)
mới chỉ thấy được một nửa của ứng dụng dịch vụ Email và phần ứng dụng đó được gọi là
Mail Client, hay là sử dụng dịch vụ thư tín máy trạm.
Do xu hướng toàn cầu hóa nên việc dùng phần mềm không bản quyền càng ngày
càng hạn chế ở nước ta. Do đó việc dùng phần mềm mã nguồn mở ngày càng phổ biến.
Từ những nhu cầu trên tôi quyết định chọn đề tài “Xây dựng webmail cient bằng công
nghệ java” nhằm cũng cố lại những kiến thức đã học và tìm hiểu thêm nhiều công nghệ
mới.
























N

Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 6/80
Phần 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 1: Tổng quan về Web và thư điện tử

1. Giới thiệu
Những khái niệm như cửa hàng, siêu thị, thư viện, nhà máy, đã quá quen thuộc
với chúng ta. Nhưng đó chỉ là thế giới vật chất, còn trong thế giới của thông tin với hệ
thống giao thông mạng Internet, những khái niệm đó được tổng hợp chung vào trong từ
"WEBSITE". Chúng ta sẽ có WEBSITE cửa hàng, WEBSITE siêu thị, WEBSITE thư
viện, WEBSITE nhà máy, WEBSITE cá nhân,
Khi so sánh internet với mội trường kinh doanh truyền thống, chúng ta có thể tự
đặt câu hỏi, thế trên internet có những khái niệm như vị trí tốt xấu không, có nhà trung
tâm, nhà ngoại ô không. Có! và đó là điều đáng để suy nghĩ, không nhanh chân chúng ta
sẽ không còn chỗ, hoặc là phải mua lại với giá rất đắt. Đó là gì vậy? Chính là địa chỉ của
WEBSITE. Ví dụ như www.dtcvn.net hay www.admin.com.vn. Tên của WEBSITE
không được trùng nhau, trong khi đó tên viết tắt của các công ty thì trùng nhau quá nhiều,
và ai cũng muốn tạo cho mình một địa chỉ thật dễ nhớ. Kết quả là người chậm chân mất
quyền ưu tiên, không mua được địa chỉ đó. Một địa chỉ dễ nhớ giữ vai trò rất quan trọng
trong việc giới thiệu một WEBSITE. Địa chỉ nhớ thông thường phải ngắn gọn hoặc có ý
nghĩa. Nếu doanh nghiệp đã có thương hiệu khá nổi tiếng thì nên dùng ngay thương hiệu
của mình.

2. Khái niệm về Internet
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm
các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối
chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn
hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các
doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và
các chính phủ trên toàn cầu. Khi phát triển World Wide Web, Tim Berners-Lee xài bộ
NeXTcube tại CERN và làm nó thành máy chủ Web đầu tiên. Tiền thân của mạng
Internet ngày nay là mạng ARPANET. Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu phát triển
ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1969 bao
gồm: Viện nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Utah và Đại
học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area Network -

WAN) đầu tiên được xây dựng.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó mạng vẫn
được gọi là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức được coi như một chuẩn
đối với ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối với ARPANET phải sử dụng chuẩn
mới này. Năm 1984, ARPANET được chia ra thành hai phần: phần thứ nhất vẫn được gọi
là ARPANET, dành cho việc nghiên cứu và phát triển; phần thứ hai được gọi là MILNET,
là mạng dùng cho các mục đích quân sự. Giao thức TCP/IP ngày càng thể hiện rõ các
điểm mạnh của nó, quan trọng nhất là khả năng liên kết các mạng khác với nhau một cách
dễ dàng. Chính điều này cùng với các chính sách mở cửa đã cho phép các mạng dùng cho
nghiên cứu và thương mại kết nối được với ARPANET, thúc đẩy việc tạo ra một siêu
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 7/80
mạng (SuperNetwork). Năm 1980, ARPANET được đánh giá là mạng trụ cột của
Internet.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập niên 1980 khi tổ
chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính lớn với
nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do
đó sau gần 20 năm hoạt động, ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào
khoảng năm 1990. Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng
khác đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995,
NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn tiếp tục phát triển. Với
khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành một mạng lớn nhất trên thế giới, mạng
của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu,
giáo dục, văn hoá, xã hội Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không ngừng phát triển
tạo ra cho nhân loại một thời kỳ mới: kỷ nguyên thương mại điện tử trên Internet.
3. Mô hình hoạt động của web
3.1. Khái niệm về Website
Những khái niệm như cửa hàng, siêu thị, thư viện, nhà máy, đã quá quen thuộc
với chúng ta. Nhưng đó chỉ là thế giới vật chất, còn trong thế

giới của thông tin với hệ thống giao thông mạng Internet,
những khái niệm đó được tổng hợp chung vào trong từ
"WEBSITE". Chúng ta sẽ có WEBSITE cửa hàng, WEBSITE
siêu thị, WEBSITE thư viện, WEBSITE nhà máy, WEBSITE
cá nhân,

3.2. Tên miền (Domain name)
Khi so sánh internet với mội trường kinh doanh truyền thống, chúng ta có thể tự đặt
câu hỏi, thế trên internet có những khái niệm như vị trí tốt xấu không, có nhà trung tâm,
nhà ngoại ô không. Có! và đó là điều đáng để suy nghĩ, không nhanh chân chúng ta sẽ
không còn chỗ, hoặc là phải mua lại với giá rất đắt. Đó là gì vậy? Chính là địa chỉ của
WEBSITE. Ví dụ như www.dtcvn.net hay www.admin.com.vn. Tên của WEBSITE
không được trùng nhau, trong khi đó tên viết tắt của các công ty thì trùng nhau quá nhiều,
và ai cũng muốn tạo cho mình một địa chỉ thật dễ nhớ. Kết quả là người chậm chân mất
quyền ưu tiên, không mua được địa chỉ đó.
Một địa chỉ dễ nhớ giữ vai trò rất quan trọng trong việc giới thiệu một WEBSITE.
Địa chỉ nhớ thông thường phải ngắn gọn hoặc có ý nghĩa. Nếu doanh nghiệp đã có thương
hiệu khá nổi tiếng thì nên dùng ngay thương hiệu của mình.

3.3. Nơi lưu trữ WEBSITE (Hosting)
Công trình thiết kế web đã hoàn tất, bạn cần đưa nó lên mạng,
bạn cần một nơi để cất giữ thông tin của WEBSITE để khi người
xem gõ đúng địa chỉ WEBSITE lập tức trang web của bạn được
tìm thấy thì được gọi là Hosting. Chúng tôi ví von nơi lưu trữ
WEBSITE trên internet (Host) là nhà, còn địa chỉ WEBSITE
(domain name) chính là địa chỉ nhà. Hai khái niệmHai khái niệm
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 8/80
này luôn đi đôi với nhau thì người ta mới tìm thấy nội dung WEBSITE của bạn trên

internet, ví như có nhà mà không có địa chỉ thì cũng không ai tìm được, có địa chỉ mà
không có nhà thì không biết tìm ai
3.4. Giao diện WEBSITE
Chính là cái mà chúng ta thấy nó ở trên trang web, là khung được trang trí cho trang
web. Được thiết kế bởi những designer với các khung, bảng, mầu và chữ, Các giao diện
website thường có kích thước bề ngang chuẩn là 800 pixel hoặc 1024 pixel, nhưng cũng
có một số website không theo chuẩn này mà thiết kế tự động giãn theo kích thước màn
hình. Để có 1 giao diện website đẹp, cần rất nhiều yếu tố cấu thành, trong đó ý tưởng của
người chủ website là quan trọng nhất.

3.5. WEBSITE tĩnh và WEBSITE động
- WEBSITE tĩnh: là dạng WEBSITE mà nội dung của nó là cố định, để thay đổi cần có
kiến thức về web, người sử dụng không thể sửa chữa trực tiếp trên inetrnet.
- WEBSITE động: là dạng WEBSITE mà sau khi thiết kế, người sử dụng có thể thêm -
xóa - sửa nội dung thông qua một phần mềm quản lý mà không cần có nhiều kiến thức về
thiết kế web.

3.6. Khái niệm thương mại điện tử
Nếu một trong những công đoạn của giao dịch thương mại như tìm kiếm đối tác, thỏa
thuận hợp đồng, trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thanh toán, được thực hiện bằng công cụ
điện tử thì giao dịch thương mại đó có thể được coi là thương mại điện tử. Bạn gửi fax
cho các khách hàng tiềm năng để chào hàng, bạn thỏa thuận chi tiết hợp đồng qua hệ
thống ngân hàng, tất cả những việc đó đều thuộc phạm trù của thương mại điện tử với ý
nghĩa tổng quát của nó.
Chỉ sau internet ra đời và được phổ biến rộng rãi thì thương mại điện tử mới thực sự
có bước nhảy vọt. Khái niệm thương mại điện tử hiện nay hàm ý thương mại internet
nhiều hơn. Theo thống kê của IDC và OECD, với internet, thương mại điện tử đã đạt mức
tăng trưởng từ 50 tỷ USD vào năm 1998, lên đến 111 tỷ năm 1999 và dự tính sẽ đạt mức
1000 tỷ USD vào những năm 2003-2005. Qua hệ thống internet với hàng trăm triệu máy
tính trên khắp các châu lục, các doanh nhân ngày nay đã thật sự có một công cụ đặc biệt

hữu hiệu để giao dịch.


3.7. Tìm kiếm và Quảng bá WEBSITE trên Internet
Ngày nay, chúng ta có thể tìm đối tác một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ
tìm kiếm trên internet, đặc biệt là đối tác tại các nước phát triển, nơi
có tỷ lệ phổ cập internet rất cao. Bạn chỉ cần vào một trong những
công cụ tìm kiếm như www.google.com hoặc www.yahoo.com, gõ
vào từ khóa liên quan đến vấn đề cần tìm, chỉ vài giây sau bạn đã có
một danh sách dài ngoằng. Sau vài giờ phân loại, sàng lọc thông tin,
bạn đã có thể có trong tay một danh sách các đối tác tiềm năng. So
với cách làm truyền thống qua danh bạ điện thoại, catalog thì việc
tìm kiếm trên internet nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều.
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 9/80
3.8. Khái niệm về World Wide Web (WWW)
World Wide Web, gọi tắt là Web hoặc WWW, mạng lưới toàn cầu là một không gian
thông tin toàn cầu mà mọi người có thể truy nhập (đọc và viết) qua các máy tính nối với
mạng Internet. Thuật ngữ này thường được hiểu nhầm là từ đồng nghĩa với chính thuật
ngữ Internet. Nhưng Web thực ra chỉ là một trong các dịch vụ chạy trên Internet, chẳng
hạn như dịch vụ thư điện tử. Web được phát minh và
đưa vào sử dụng vào khoảng năm 1990, 1991 bởi viện sĩ
Viện Hàn lâm Anh Tim Berners-Lee và Robert Cailliau
(Bỉ) tại CERN, Geneva, Switzerland.
Các tài liệu trên World Wide Web được lưu trữ
trong một hệ thống siêu văn bản (hypertext), đặt tại các
máy tính trong mạng Internet. Người dùng phải sử dụng
một chương trình được gọi là trình duyệt web (web
browser) để xem siêu văn bản. Chương trình này sẽ nhận

thông tin (documents) tại ô địa chỉ (address) do người sử dụng yêu cầu (thông tin trong ô
địa chỉ được gọi là tên miền (domain name)), rồi sau đó chương trình sẽ tự động gửi
thông tin đến máy chủ (web server) và hiển thị trên màn hình máy tính của người xem.
Người dùng có thể theo các liên kết siêu văn bản (hyperlink) trên mỗi trang web để nối
với các tài liệu khác hoặc gửi thông tin phản hồi theo máy chủ trong một quá trình tương
tác. Hoạt động truy tìm theo các siêu liên kết thường được gọi là duyệt Web.Quá trình này
cho phép người dùng có thể lướt các trang web để lấy thông tin. Tuy nhiên độ chính xác
và chứng thực của thông tin không được đảm bảo.

3.9. URL
URL (Uniform Resource Locator) dùng để chỉ tài nguyên trên Internet. Sức mạnh của
web là khả năng tạo ra những liên kết siêu văn bản đến các thông tin liên quan. Những
thông tin này có thì là những trang web khác, những hình ảnh, âm thanh Những liên kết
này thường được biểu diễn bầng những chữ màu xanh có gạch dưới được gọi là
anchor.Các URL có thể được truy xuất thông qua một trình duyệt (Browser) như IE hay
Netscape.
Trong đó: http: là giao thức
index.html là tên đường dẫn trên máy chứa tài nguyên.
Nhờ địa chỉ url mà ta có thể từ bất kỳ một máy nào trong mạng Internet truy nhập tới các
trang web ở các website khác nhau.

4. Tìm hiểu Webmail
4.1. Giới thiệu
Thuật ngữ Email trên nền web và Webmail ám chỉ việc hiện thực một chương trình
xem e-mail dưới dạng một ứng dụng web cho phép người dùng truy cập e-mail của họ
thông qua một trình duyệt web, thay vì sử dụng chương trình xem email nên nền máy tính
để bàn như Microsoft Outlook, Mozilla Thunderbird hay Eudora. (Cần chú ý thuật ngữ
"Web" là nói gọn của thuật ngữ "World Wide Web" (mạng toàn cầu), và đôi khi có thể
viết ở dạng chữ thường.) Một webmail khách thường được cung cấp bởi dịch vụ email,
Hệ thống webmail client


Trần Phan phong Phú Trang 10/80
cho phép khách hàng của nó truy cập thư được lưu trữ trên máy chủ của dịch vụ, nhưng
cũng có những ngoại lệ.
Từ Webmail còn được dùng chung với các danh từ khác như dịch vụ webmail hay
nhà cung cấp webmail để chỉ đến một dịch vụ email được cung cấp thông qua một
website (khác với dịch vụ email, thường phải gắn liền với việc kết nối internet). Mặc dù
không nhất thiết phải sử dụng một chương trình webmail, việc sử dụng một chương trình
webmail thường là phần quan trọng khi đưa ra dịch vụ webmail, đôi khi như là cách duy
nhất để người dùng có thể tiếp cận email của họ, và đôi khi những phương pháp khác
cũng được thêm vào như giao thức POP3 hoặc IMAP4 và chuyển tiếp email. Dịch vụ
Webmail đầu tiên là Hotmail. Những nhà cung cấp Webmail phổ biến nhất hiện nay là
Yahoo! Mail, Windows Live Hotmail and Gmail.[1] Những nhà cung cấp Webmail khác
bao gồm Inbox.com, AIM Mail, Mail.com, Fastmail.FM, Lycos Mail, BlueTie,
Everyone.net, and LuxSci. Người dùng cũng có thể chạy một phần mềm Webmail trên
máy chủ Web của chính mình. Những phần mềm Webmail thương mại bao gồm Outlook
Web Access (OWA), Laszlo Mail, Atmail and SmarterMail. Phần mềm Webmail mã
nguồn mở bao gồm Horde IMP, OpenWebmail (dựa trên NeoMail), RoundCube, Zimbra,
và SquirrelMail. Nhiều trường Đại học và phổ thông sử dụng những phần mềm đó để
giúp sinh viên và giảng viên của trường có thể xem email qua trang Web. Nhiều nhà cung
cấp dịch vụ Internet cũng đưa ra Webmail cho khách hàng của mình. Có một vài ứng
dụng quản lý webmail, mà bạn có thể dùng nó để kiểm tra tất cả những email từ bất kỳ
nhà cung cấp nào. Mail2Web.com và Email4Web.com là những ứng dụng phổ biến.
Phần lớn các dịch vụ Webmail có các tính năng sau:
• Thư mục
• Bộ lọc email (thư đến sẽ được sắp xếp vào thư mục thích hợp)
• Thư mục thùng rác
• Sổ địa chỉ
Một vài dịch vụ Webmail đưa thêm những tính năng khác cho chương trình webmail:
• Từ điển khi soạn thư

• Kiểm tra chính tả
• Nhiều định danh người gửi
• Khả năng tìm kiếm thư
• Đăng nhập an toàn
Những tính năng không phải webmail:
• Truy cập email thông qua những giao thức khác như POP3 hay IMAP4
• Chuyển tiếp email
• Tích hợp tài khoản email (lấy email từ các tài khoản khác)
• Phát hiện E-mail spam
• Kiểm tra virus trong thư đính kèm
• Hỗ trợ Unicode (UTF-8)

4.2. Ưu điểm Webmail
• E-mail được lưu trữ từ máy chủ ở xa, có nghĩa là nó có thể được truy cập từ bất
cứ nơi nào có kết nối Internet và một trình duyệt Web.
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 11/80
• Phần lớn những nhà cung cấp Webmail là dịch vụ miễn phí.
• Bảo trì tập trung email của khách hàng; sao lưu, nâng cấp và sửa lỗi bảo mật
được thực hiện bởi người quản trị. Không cần phải cài đặt, nâng cấp hoặc hoặc
vá những chương trình e-mail tại mỗi máy.
• Một vài nhà cung cấp Webmail đưa ra những địa chỉ e-mail vô dụng (spam), ví
dụ như Sneakemail, TrashMail và Mailinator. Cũng có những nhà cung cấp
webmail an toàn như Hushmail không lưu trữ bất cứ thông tin cá nhân nào và
luôn cố gắng gửi tất cả những email với giải thuật mã hóa PGP.
• Một vài ứng dụng webmail như Fastmail.FM đưa ra những tính năng không bao
giờ có ở những chương trình email trên nền máy để bàn.
4.3. Khuyết điểm Webmail
• Người dùng phải luôn online để đọc và viết nhiều e-mail. Họ không thể dễ dàng

sửa chữa thư khi họ đang làm việc offline (trừ khi phải chép và dán nội dung
thư).
• Những dịch vụ Webmail thương mại thường cung cấp không gian lưu trữ e-mail
giới hạn và hoặc là hiện quảng cáo khi sử dụng hoặc gắn quảng cáo email được
gửi. Không giống như phần mềm ở máy, người dùng không mặc định được giữ
các tin nhắn vào máy tính của mình, mặc dù họ cũng có quyền lựa chọn để tải
về và lưu trữ những email quan trọng vào máy tính, có thể làm bằng tay hoặc
bằng phần mềm pop-mail.
• Phần lớn e-mail là những thông điệp ngắn, ở dạng thuần ký tự, nhỏ hơn 2 kB,
nhưng khi sử dụng Webmail, e-mail gốc được lồng vào những mã HTML của
Web site nên có thể lên đến 40 kB hoặc hơn nữa. Điều này có thể làm chậm
đáng kể tốc độ sử dụng, đặc biệt là với đường truyền chậm.
• Những tài khoản Webmail thường là mục tiêu của spam.
• Những tài khoản Webmail bị cho là không an toàn.
• Những tài khoản Webmail miễn phí thường không dùng được cho những người
dùng khiếm thị, do sử dụng giao diện trực quan.
• Webmail thường bị giới hạn về tốc độ và tính năng so với những chương trình
xem email khác, một phần do sự hạn chế của HTML (trang web). Ví dụ như, khi
những thư được đánh dấu xóa trong chỉ mục, những thẻ này thường mất đi khi
có người đọc thư. Điều đó có nghĩa là bạn không thể đọc thư mà bạn cho là có
thể phải xóa (để kiểm tra lại có nên xóa hay không) nếu bạn không xóa thẻ đã
đánh dấu đi hoặc phải đánh dấu lại. Do đó sẽ càng bất tiện hơn khi muốn xóa
nhiều thư một lúc.

5. Mô hình client/server
5.1. Giới thiệu
Thuật ngữ server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch vụ trên
toàn mạng. Các chương trình server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ đến từ mọi
nơi trên mạng, sau đó nó thi hành dịch vụ và trả kết quả về máy yêu cầu. Một chương
trình được coi là client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương trình server và chờ đợi

câu trả lời từ server. Chương trình server và client nói chuyện với nhau bằng các thông
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 12/80
điệp (messages) thông qua một cổng truyền thông liên tác IPC (Interprocess
Communication). Để một chương trình server và một chương trình client có thể giao tiếp
được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn để nói chuyện, chuẩn này được gọi là
giao thức. Nếu một chương trình client nào đó muốn yêu cầu lấy thông tin từ server thì nó
phải tuân theo giao thức mà server đó đưa ra. Bản thân chúng ta khi cần xây dựng một mô
hình client/server cụ thể thì ta cũng có thể tự tạo ra một giao thức riêng nhưng thường
chúng ta chỉ làm được điều này ở tầng ứng dụng của mạng. Với sự phát triển mạng như
hiện này thì có rất nhiều giao thức chuẩn trên mạng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển này. Các giao thức chuẩn (ở tầng mạng và vận chuyển) được sử dụng rộng rãi nhất
hiện nay như: giao thức TCP/IP, giao thức SNA của IBM, OSI, ISDN, X.25 hoặc giao
thức LAN-to-LAN NetBIOS. Một máy tính chứa chương trình server được coi là một
máy chủ hay máy phục vụ (server) và máy chứa chương trình client được coi là máy tớ
(client). Mô hình mạng trên đó có các máy chủ và máy tớ giao tiếp với nhau theo 1 hoặc
nhiều dịch vụ được gọi là mô hình client/server. Thực tế thì mô hình client/server là sự
mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho việc truyền thông liên tiến trình trên các máy tính cá
nhân. Mô hình này cho phép xây dựng các chương trình client/server một cách dễ dàng và
sử dụng chúng để liên tác với nhau để đạt hiệu quả hơn.
Mô hình client/server như sau: Client/Server là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế
thì một server có thể được nối tới nhiều server khác nhằm làm việc hiệu quả và nhanh
hơn. Khi nhận được 1 yêu cầu từ client, server này có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận được
cho server khác ví dụ như database server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này
được. Máy server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạp. Ví dụ như một
máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày, khi một máy client yêu cầu lấy thông tin về
thời gian nó sẽ phải gửi một yêu cầu theo một tiêu chuẩn do server định ra, nếu yêu cầu
được chấp nhận thì máy server sẽ trả về thông tin mà client yêu cầu. Có rất nhiều các dịch
vụ server trên mạng nhưng nó đều hoạt động theo nguyên lý là nhận các yêu cầu từ client

sau đó xử lý và trả kết quả cho client yêu cầu. Thông thường chương trình server và client
được thi hành trên hai máy khác nhau. Cho dù lúc nào server cũng ở trạng thái sẵn sàng
chờ nhận yêu cầu từ client nhưng trên thực tế một tiến trình liên tác qua lại (interaction)
giữa client và server lại bắt đầu ở phía client, khi mà client gửi tín hiệu yêu cầu tới server.
Các chương trình server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng của mạng).
Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một mạng máy tính
nào có hỗ trợ giao thức truyền thông chuẩn cụ thể ở đây là giao thức TCP/IP. Với các giao
thức chuẩn này cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác nhau
của họ lên mạng mà không gặp phải khó khăn gì. Với các chuẩn này thì các chương trình
server cho một dịch vụ nào đấy có thể thi hành trên một hệ thống chia sẻ thời gian
(timesharing system) với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có thể chạy trên
chính một máy tính các nhân bình thường. Có thể có nhiều chương server cùng làm một
dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính. Với mô hình trên
chúng ta nhận thấy rằng mô hình client/server chỉ mang đặc điểm của phần mềm không
liên quan gì đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy server là cao hơn
nhiều so với máy client. Lý do là bởi vì máy server phải quản lý rất nhiều các yêu cầu từ
các clients khác nhau trên mạng. Ưu và nhược điểm chính Có thể nói rằng với mô hình
client/server thì mọi thứ dường như đều nằm trên bàn của người sử dụng, nó có thể truy
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 13/80
cập dữ liệu từ xa (bao gồm các công việc như gửi và nhận file, tìm kiếm thông tin, ) với
nhiều dịch vụ đa dạng mà mô hình cũ không thể làm được. Mô hình client/server cung
cấp một nền tảng lý tưởng cho phép tích hợp các kỹ thuật hiện đại như mô hình thiết kế
hướng đối tượng, hệ chuyên gia, hệ thông tin địa lý (GIS) Một trong những vấn đề nảy
sinh trong mô hình này đó là tính an toàn và bảo mật thông tin trên mạng. Do phải trao
đổi dữ liệu giữa 2 máy ở 2 khu vực khác nhau cho nên dễ dàng xảy ra hiện tượng thông
tin truyền trên mạng bị lộ.

5.2. Client

Trong mô hình client/server, người ta còn định nghĩa cụ thể cho một máy client là
một máy trạm mà chỉ được sử dụng bởi 1 người dùng với để muốn thể hiện tính độc lập
cho nó. Máy client có thể sử dụng các hệ điều hành bình thường như Win9x, DOS,
OS/2 Bản thân mỗi một client cũng đã được tích hợp nhiều chức năng trên hệ điều hành
mà nó chạy, nhưng khi được nối vào một mạng LAN, WAN theo mô hình client/server thì
nó còn có thể sử dụng thêm các chức năng do hệ điều hành mạng (NOS) cung cấp với
nhiều dịch vụ khác nhau (cụ thể là các dịch vụ do các server trên mạng này cung cấp), ví
dụ như nó có thể yêu cầu lấy dữ liệu từ một server hay gửi dữ liệu lên server đó Thực tế
trong các ứng dụng của mô hình client/server, các chức năng hoạt động chính là sự kết
hợp giữa client và server với sự chia sẻ tài nguyên, dữ liệu trên cả 2 máy Vai trò của
client Trong mô hình client/server, client được coi như là người sử dụng các dịch vụ trên
mạng do một hoặc nhiều máy chủ cung cấp và server được coi như là người cung cấp dịch
vụ để trả lời các yêu cầu của các clients. Điều quan trọng là phải hiểu được vai trò hoạt
động của nó trong một mô hình cụ thể, một máy client trong mô hình này lại có thể là
server trong một mô hình khác. Ví dụ cụ thể như một máy trạm làm việc như một client
bình thường trong mạng LAN nhưng đồng thời nó có thể đóng vai trò như một máy in
chủ (printer server) cung cấp dịch vụ in ấn từ xa cho nhiều người khác (clients) sử dụng.
Client được hiểu như là bề nổi của các dịch vụ trên mạng, nếu có thông tin vào hoặc ra thì
chúng sẽ được hiển thị trên máy client.

5.3. Server
Server còn được định nghĩa như là một máy tính nhiều người sử dụng (multiuser
computer). Vì một server phải quản lý nhiều yêu cầu từ các client trên mạng cho nên nó
hoạt động sẽ tốt hơn nếu hệ điều hành của nó là đa nhiệm với các tính năng hoạt động độc
lập song song với nhau như hệ điều hành UNIX, WINDOWS Server cung cấp và điều
khiển các tiến trình truy cập vào tài nguyên của hệ thống. Các ứng dụng chạy trên server
phải được tách rời nhau để một lỗi của ứng dụng này không làm hỏng ứng dụng khác.
Tính đa nhiệm đảm bảo một tiến trình không sử dụng toàn bộ tài nguyên hệ thống. Vai trò
của server. Như chúng ta đã bàn ở trên, server như là một nhà cung cấp dịch vụ cho các
clients yêu cầu tới khi cần, các dịch vụ như cơ sở dữ liệu, in ấn, truyền file, hệ thống

Các ứng dụng server cung cấp các dịch vụ mang tính chức năng để hỗ trợ cho các hoạt
động trên các máy clients có hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ của các dịch vụ này có thể là toàn bộ
hoặc chỉ một phần thông qua IPC. Để đảm bảo tính an toàn trên mạng cho nên server này
còn có vai trò như là một nhà quản lý toàn bộ quyền truy cập dữ liệu của các máy clients,
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 14/80
nói cách khác đó là vai trò quản trị mạng. Có rất nhiều cách thức hiện nay nhằm quản trị
có hiệu quả, một trong những cách đang được sử dụng đó là dùng tên Login và mật khẩu.

5.4. Web Server/mail Server và hoạt động của browser WWW
Hoạt động truy xuất WWW giữa máy khách và web server theo cơ chế sau:
Server ứng dụng cung cấp dữ liệu mà người sử dụng cần đến hoặc trao đổi. Chỉ những
người sử dụng đã đăng ký account mới được cấp web site chứa dữ liệu riêng của mình
trên server này, mọi người sử dụng đều có thể truy xuất các URL được phép dùng chung
trong server này.
Trước tiên trình duyệt thực hiện kết nối để nhận được program/server. Browser dùng
địa chỉ miền tên như số điện thoại hay địa chỉ để đạt tới server.
Sau đó browser sẽ gửi request header sau tới miền xác định:
• Một request header xác định file hay dịch vụ đang được request.
• Các fields request header, xác định browser.
• Thông tin đặc biệt thêm vào request.
• Bất kỳ dữ liệu nào đi cùng với request.
Tất cả những thông tin đó được gọi là request header HTTP. Chúng xác định đối với
server thông tin căn bản mà client đang request và loại đáp ứng có thể được client chấp
nhận. Scrver cũng lấy tất cả các header do client gửi tới thông qua biến môi trường
(environments variables) để chương trình server xử lý. Server đáp ứng với response
header. Header đáp ứng đầu tiên là dòng trạng thái cho client biết kết quả của việc tìm
kiếm request url. Nếu trạng thái là thành công (Success) thì nội dung của request url được
gửi trả lại client/browser và hiển thị trên màn hình máy tính của client.


6. Dịch vụ thư điện tử
6.1. Giới thiệu
Bạn phụ thuộc vào email và không thể làm việc mà
không có nó. Tuy nhiên hầu như đa số người dùng
(trừ các chuyên gia CNTT) vẫn cảm nhận về email
như một điều gì khó hiểu và đôi khi có phần kỳ diệu.
Bạn chỉ cần viết một thông điệp trên máy tính, kích
Send và sau đó ít phút, nó xuất hiện trong hộp thư của
người nhận bất kể họ ở đâu. Thật tuyệt!
Email có vẻ như vô hình. Bề ngoài bạn không thể
biết được rằng sự phân phối email quả thực là một hệ
thống phức tạp với rất nhiều thao tác cần phải thực hiện. Đó thưc sự là một câu chuyện
thú vị? Tuy nhiên nếu bạn phải đứng ra chịu trách nhiệm về vấn đề phân phối email hoặc
quản lý công việc nặng nhọc như các quản trị viên email thì bạn cần phải biết được những
vấn đề tối thiểu về công nghệ này.

6.2. Khái niệm
Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail), đôi khi được dịch không chính xác là
điện thư, là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính.
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 15/80
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được
gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính đặc
biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất
nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền được
các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần mềm thư điện
tử kiểu mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương thích với kiểu tệp HTML.

Đặc điểm của thư điện tử khi so sánh với bưu chính thông thường
• Thay vì viết thư bằng giấy mực và bút thì người gửi chỉ cần gõ chữ từ bàn phím
của máy tính và biết dùng một phần mềm thư điện tử (email program).
• Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy nhận hay
máy gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín hiệu điện mã hoá nội
dung bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận. Do đó, chỉ có nội dung hay
cách trình bày lá thư điện tử là được bảo toàn. Trong khi đó, dùng đường bưu
điện người ta có thể gửi đi các vật liệu hàm chứa thêm nội dung hay ý nghĩa
khác. Điều này có thể rất quan trọng đối với nhiều người.
• Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không
đáng kể so với gửi qua đường bưu điện.
• Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư điện tử ra đọc
nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư. Đồng thời, vì mỗi người
dùng thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư điện tử sẽ khó bị người ở
chung đọc lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng ngược lại, các tay tin tặc xa lạ có
thể xâm nhập vào hệ thống thư điện tử của cá nhân nếu như các mật mã hay các
hệ thống an toàn phần mềm bị bẻ gãy.
• Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện rất nhiều lần.
Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có thể lên đến hàng Gbyte
như dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn. Số thư có thể dự trữ trong
dung lượng này tương đương với vài bộ tự điển bách khoa.
• Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có bột antrax,
thư bom, ) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong. Ngược lại, hệ thống thư
điện tử, không thể gây thương tích mà thường rất phải đương đầu với nhiều vấn
nạn như virus máy tính, các thư nhũng lạm (spam mail), các thư quảng cáo
(advertisement mail) và các thư khiêu dụ tình dục (pornography mail), đặc biệt
là cho trẻ em, thì lại rất nhiều. Đối với các loại thư độc hại (malicious mail) này
người dùng cần phải cài đặt thêm các tiện ích hay chức năng lọc (sẵn có trong
phần mềm hay phải mua thêm) để giảm trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là
không có công cụ phần mềm nào là tuyệt hảo.

• Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi nội dung
lá thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến trong cả hai hệ
thống bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về thông tin của hai loại
này là tương đương mặc dù thư điện tử chuyển tiếp có nhiều xác suất gây nhiễm
virus máy tính.
• Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự, trong hệ thống
thư điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ liệu chứa nội dung các
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 16/80
email cộng vói điạ chỉ của người chủ thư điện tử. Điểm khác biệt ở đây là hộp
thư điện tử sẽ có nhiều chức năng hơn là việc xoá bỏ các thư cũ.
Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng ký qua một
hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt không bao giờ trùng
với địa chỉ email khác. Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng
danh từ hộp thư điện tử hay hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần
mềm email đã được đăng kí dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.

6.3. Kiến trúc và dịch vụ
Các hệ thống thư điện tử thường bao gồm hai hệ thống con: các tác nhân người sử
dụng (the user agents - gọi tắt là UA), nó cho phép chúng ta đọc và gửi thư, và các tác
nhân truyền thông điệp (the message transfer agents - gọi tắt là MTA), nó làm nhiệm vụ
chuyển các thông điệp từ nguồn đến đích. Các UAs là các chương trình cục bộ hỗ trợ dựa
trên điều khiển bằng lệnh, trình đơn menu hay dùng phương pháp đồ hoạ để tương tác với
hệ thống thư điện tử. Các MTAs là các trình tiện ích hoạt động ở chế độ nền (background)
thực hiện các nhiệm vụ cần thiết như tiếp nhận thư điện tử và chuyễn thư qua các hệ
thống.
Đặc biệt, các hệ thống thư điện tử hỗ trợ năm chức năng cơ bản, được mô tả dưới
đây:
1. Composition: Xử lý việc tạo các thông điệp và trả lời. Cho phép bất cứ trình

soạn thảo nào có thể được sử dụng cho phần thân của thông điệp, các hệ thống
có thể tự nó đảm trách việc đánh địa chỉ và chỉ số các trường tiêu đề (header
fields) được kèm theo cùng với mỗi thông điệp. Ví dụ như, khi trả lời một
thông điệp , hệ thống thư điện tử có thể tách địa chỉ của người gửi từ các thư
được gửi đến và tự động chèn nó vào các trường thích hợp trong phần hồi âm
(reply).
2. Transfer: Làm nhiệm vụ chuyển các thông điệp từ người gửi đến nơi người
nhận. Trong phần này, việc chuyển các thông điệp yêu cầu phải thiết lập một
kết nối đến đích (người nhận) hay một số thao tác của thiết bị như xuất thông
điệp và kết thúc việc kết nối. Hệ thống thư điện tử làm việc này một cách tự
động mà không cần có một sự can thiệp nào của người sử dụng.
3. Reporting: Buộc phải thực hiện để báo cho người gửi những gì xảy ra đối với
thông điệp vừa gửi là ở tình huấn đã gửi đến đích chưa? hoặc việc gửi đã bị huỷ
bỏ? hoặc thư đã bị lạc?.
4. Displaying: Những thông điệp gửi đến được yêu cầu làm sao để mọi người có
thể đọc được thư của họ. Đôi khi người ta yêu cầu quá trình chuyển đổi hay
một trình hiển thị đặc biệt để hỗ trợ, ví dụ như, nếu thông điệp có dạng một tệp
PostScript hay tiếng nói được số hóa kèm theo trong thông điệp gửi đến.
5. Disposition: Là bước cuối cùng liên quan đến những gì người nhận thực hiện
đối với thông điệp sau khi đã nhận nó. Những khả năng có thể là ném nó đi
trước khi đọc, ném nó đi sau khi đọc, lưu nó, v v. Nó cũng sẽ có thể thu nhận
để đọc lại với các thông điệp đã được lưu lại, chuyển tiếp chúng hoặc xử lý
chúng bằng những phương pháp khác nhau khi được yêu cầu của người sử
dụng.
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 17/80
Thêm vào đó các dịch vụ này, hầu hết các hệ thống thư điện tử cung cấp nhiều đặc
tính nâng cao khác nhau. Một số đặc tính tiêu biểu như, khi người ta muốn chuyển thư
hay khi họ nghĩ xa hơn về các chi tiết về thời gian , có lẽ họ muốn thư của họ được

chuyển tiếp, chính vì thế mà hệ thống thực hiện điều này một cách tự động.
Hầu hết các hệ thống cho phép người sử dụng tạo các hộp thư (mailboxes) để lưu
trữ các thư chuyển đến (incoming email). Các lệnh được người ta yêu cầu tạo và hủy bỏ
các hộp thư, kiểm tra các nội dung hộp thư, chèn và xóa các thông điệp khỏi hộp thư, v v.
Những người giám đốc công ty thường cần gửi một thông điệp đến mỗi người
trong số những người cấp dưới, những khách hàng, hay đến các nhà cung cấp. Thì điều
này đưa ra một ý tưởng về danh sách thư (mailing list), nó là một danh sách các địa chỉ
thư điện tử. Khi một thông điệp được gửi đến mailing list, các bản sao giống hệt được
phát đến mọi người có địa chỉ trên danh sách.
Một ý tưởng quan trọng khác là thư điện tử được đăng ký, để cho phép người gửi
(sender or originator) biết thư của họ đã đến. Việc thông báo tự động của các thư không
được phát đi một cách luân phiên để người ta có thể biết. Trong bất kỳ trường hợp nào,
người gửi nên có một số điều khiển thông qua thông báo những gì xảy ra.


Các đặc tính nâng cao khác là đồng gửi (carbon copies), thư có mức ưu tiên cao
(high-priority email), bảo mật thư (secret email) có nghĩa là thông điệp được mã hóa
trước khi gửi đi, thay đổi người nhận thư (alternative recipients) nếu người đầu tiên
(
a
)

(
b
)
Envelope
Message
Body



Mr. Daniel Dumkopf
18 Willow Lane
White Plains, NY 10604

United Gizmo
180 Main St
Boston, MA
02120
April, 5, 2001

Subject: Invoice 1081

Dear Mr. Dumkopf,
Our computer records
show that you still have not
paid the above invoice of $0.00.
Please send us a check for
$0.00 promptly.

Yous truly
idGi
ϒ
Name: Mr. Daniel Dumkopf
Street: 18 Willow Lane
State: NY
Zip code: 10604
Priority: Urgent
Encryption: None

From: United Gizmo

Address: 180 Main St
Location: Boston, MA 02120
Date: April, 5, 2001
Subject: Invoice 1081
Dear Mr. Dumkopf,
Our computer records
show that you still have not
paid the above invoice of $0.00.
Please send us a check for
$0.00 promptly.

Yous truly
United Gizmo
Envelope Header
Phong th- vµ th«ng ®iÖp (a) Th- b-u ®iÖn. (b)
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 18/80
không có khả năng nhận được, và các khả năng cho các cô thư ký vận dụng thư của các
ông chủ của mình.
Hiện nay thư điện tử được sử dụng rộng rãi trong việc kinh doanh cho việc truyền
thông tin trong công ty. Nó cho phép các công nhân ở xa hợp tác về các dự án phức tạp,
ngay cả những nơi phải mất nhiều thời gian mới đến được. Một số công ty đã đánh giá
rằng thư điện tử đã làm tăng năng suất sản xuất của họ lên 30 phần trăm (Perry and Adam
1992).
Một khái niệm quan trọng trong tất cả các hệ thống thư điện tử hiện đại là sự phân
biệt giữa phong bì (envelope) và các nội dung bên trong của nó. Phong bì bao bọc
(encapsulate) cả thông điệp. Nó chứa tất cả các thông tin cần thiết cho việc truyền tải
thông điệp, như là địa chỉ đích, độ ưu tiên, và mức độ bảo mật , tất cả những cái đó đều
khác biệt với thông điệp bên trong nó. Các MTAs sử dụng phong bì cho việc định tuyến

đường truyền, điều này cũng giống như công việc của bưu điện làm.
Thông điệp ở bên trong phong bì chứa hai phần: phần đầu thư (header) và phần thân
thư (body). Phần header chứa các thông tin điều khiển cho các UAs. Phần thân là phần
hoàn toàn dành cho người nhận thư. Các phong bì và các thông điệp được mô tả trong
hình bên dưới.
Tác nhân người sử dụng (The User Agent)

Các hệ thống thư điện tử có hai phần cơ bản, như chúng ta đã thấy gồm: phần UA và
phần MTA. Trong phần này chúng ta sẽ xét đến phần UA. Một UA thường là một chương
trình (đôi khi được gọi là bộ phận đọc thư) nó nhận một trong những lệnh khác nhau như
là cho mục đích soạn thư, nhận thư, và hồi đáp các thông điệp, cũng như việc thao tác trên
các hộp thư (mailboxes). Một số UA (User Agent) có giao diện trình đơn (menu) hay biểu
tượng (icon) khá hấp dẫn mà nó yêu cầu sử dụng chuột hoặc chấp nhận các lệnh 1 ký tự
từ bàn phím có cùng chức năng với menu và các icon.
Gửi thử (Sending Email)
Để gửi đi một thông điệp, người sử dụng phải cung cấp thông điệp, địa chỉ đích và
một số tham số khác nếu có (ví dụ như là mức ưu tiên hay bảo mật). Người sử dụng có
thể tạo thông điệp với một trình soạn thảo văn bản khác nhau, một chương trình sử lý từ
hay với bộ soạn thảo được xây dựng trên UA. Địa chỉ đích phải có một định dạng mà làm
sao cho UA có thể hiểu được. Nhiều UA tiếp nhận các địa chỉ DNS (Domain Name
System) có dạng mailbox@location.
Đọc thử (Reading Email)
Khi UA được khởi động nó kiểm tra xem trong hộp thư của người sử dụng có thư
gửi đến không trước khi hiển thị các thứ khác lên màn hình. Khi đó có lẽ nó sẽ thông báo
một số các thông điệp trong hộp thư hay hiển thị một dòng vắn tắt của mỗi thông điệp và
chờ nhận lệnh để xử lý. Một ví dụ ở hình bên dưới cho thấy một viễn cảnh sau khi UA
khởi động hiển thị những yêu cầu vắn tắt của các thông điệp. Trong ví dụ này hộp thư
(mailbox) gồm có tám thông điệp.
Mỗi dòng hiển thị chứa một số trường được trích ra từ phong thư hay phần đầu
(header) của từng thông điệp được định vị trong hộp thư. Trong một hệ thống thư điện tử

đơn giản, sự lựa chọn của các trường hiển thị được người ta xây dựng thành một chương
trình. Trong các hệ thống phức tạp hơn, người sử dụng có thể xác định cho các trường nào
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 19/80
được hiển thị bằng cách cung cấp một hiện trạng người sử dụng (User Profile), hay một
tệp mô tả định dạng hiển thị. Trong ví dụ này, trường đầu tiên là số thông điệp có trong
hộp thư. Trường thứ hai, là các cờ có thể chứa một kí tự K, có nghĩa là thông điệp cũ đã
được đọc kỳ trước rồi và được lưu lại trong hộp thư; kí tự A có nghĩa là thư này đã được
hồi âm rồi; ký tự F (có thể có), có nghĩa là thư này được chuyển tiếp đến người khác. Các
cờ khác nữa cũng có thể được đưa vào ngoài những cờ này.

# Flags Bytes Sender Subject
1 K 1030 Asw Changes to MINIX
2 KA 6348 Radia Comments on material you sent me
3 KF 4519 Amy N. Wong Request for information
4 1236 Bal Deadline for grant proposal
5 103610 Kaashoek Text of DCS paper
6 1223 Emily E. Pointer to WWW page
7 3110 Saniya Referee reports for the page
8 1204 Dmr Re: My student’s visit

Hiển thị các nội dung của hộp thư.

Trường thứ ba cho biết chiều dài của thông điệp và trường thứ tư cho biết ai là
người gửi thông điệp. Vì trường này được trích ra từ các thông điệp rất đơn giản nên
trường này có thể chứa các tên, họ tên đầy đủ, các tên viết tắt, các tên đăng nhập, hay bất
cứ thứ gì mà người gửi có thể đặt vào trong trường này. Cuối cùng là trường chủ đề thư
(Subject) cho biết một câu vắn tắt về những gì trong nội dung thông điệp. Những người
nào quên điền vào trường này thì thường được cho là những câu trả lời cho thư của họ là

không chú ý đến mức ưu tiên cao nhất.
Sau khi các phần đầu đã được hiển thị, người sử dụng có thể thực hiện bất cứ lệnh
nào có thể. Một chọn lựa tiêu biểu được liệt kê ở bảng bên dưới (hình bên dưới) là một ví
dụ khi một người sử dụng bằng hệ thống Mmdf của hệ điều hành UNIX. Có một số lệnh
yêu cầu có tham số. Ký hiệu # có nghĩa là chỉ số của một thông điệp (hay có thể có nhiều
thông điệp) được chấp nhận. Tương tự, mẫu tự a có thể được sử dụng có nghĩa cho tất cả
các thông điệp.
Chúng ta bây giờ hãy quay đến từ giao diện người sử dụng đến định dạng của các
thông điệp thư điện tử. Trước tiên chúng ta xét thư điện tử dựa trên bản mã ASCII sử
dụng chuẩn RFC 822 (Request for Comments). Sau đó xét đến các mở rộng đa phương
tiện cho chuẩn RFC 822.
Chuẩn RFC 822
Các thông điệp bao gồm một phong bì gốc (được mô tả trong chuẩn RFC 821), một
số các trường cho phần đầu (header), một dòng để trống và sau đó là phần thân (body).
Mỗi trường header bao gồm các dòng văn bản ASCII chứa tên trường, dấu hai chấm, và
cho hầu hết các trường đều có một giá trị. RFC 822 là một chuẩn cũ và giữa các trường
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 20/80
header của phong bì (envelope) không phân biệt rõ ràng như một chuẩn mới khác. Khi sử
dụng, thông thường UA xây dựng một thông điệp và đưa nó qua bộ phận tác nhân truyền
thông điệp (message transfer agents - MTA), ở đây nó dùng một số các trường header để
xây dựng một envelope thực sự, thông điệp được thay đổi bởi cái cũ đi một chút cùng với
envelope.

Command Parameter Description
H # Display header(s) on the screen
C Display current header only
T # Type message(s) on the screen
S Address Send a message

F # Forward message(s)
A # Answer message(s)
D # Delete message(s)
U # Undelete previously deleted message(s)
M # Move message(s) to another mailbox
K # Keep message(s) after exiting
R Mailbox Read a new mailbox
N Go to the next message and display it
B Backup to the previous message and display it
G # Go to a specific message but do not display it
E Exit the mail system and update the mailbox

Các lệnh điều khiển thư đặc biệt
Các trường header chủ yếu liên quan đến việc chuyển giao thông điệp được liệt kê
dưới bảng sau. Trường To: trường này cho biết địa chỉ DNS của người nhận đầu tiên.
Trường hợp nhiều người nhận cũng có thể cho phép. Trường Cc: cho biết địa chỉ của
những người nhận kế tiếp (còn gọi là địa chỉ đồng gửi). Trong các thuật ngữ của việc phát
thư, không có sự phân biệt giữa những người nhận thứ nhất và người nhận thứ hai. Thuật
ngữ Cc (Carbon copy) là một mẫu đã được xác định, vì máy tính không sử dụng các trang
giấy bản sao. Trường Bcc: (Blind carbon copy) giống như trường Cc: chỉ trừ là dòng này
được xóa khỏi tất cả các bản sao được gửi đến những người nhận đầu tiên và người nhận
thứ hai. Đặc tính này cho phép người ta gửi các bản sao đến những người trong nhóm thứ
ba mà trong đó không có người thứ nhất và người thứ hai biết.

Header Meaning
To: Email address(es) of primary recipient(s)
Cc: Email address(es) of secondary recipient(s)
Bcc: Email address(es) for blind carbon copies
From: Person or people who created the message
Sender: Email address of the actual sender

Received: Line added by each transfer agent along the route
Return-Path: Can be used to identify a path back to the sender

Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 21/80
Các trường header RFC 822 liên quan trong việc truyền thông điệp

Hai trường kế tiếp, From: và Sender: cho biết để phân biệt người viết và người gửi
thông điệp. Hai trường này hoàn toàn không giống nhau. Ví dụ một nhà quản trị doanh
nghiệp có thể viết một thông điệp nhưng cô thư ký là người thật sự truyền nó đi. Trong
trường hợp này, người quản trị phải được liệt kê vào trong trường From: và cô thư ký
trong trường Sender:.

Header Meaning
Date: The date and time the message was sent
Reply-To: Email address to which replies should be sent
Message-Id: Unique number for referencing this message latter
In-Reply-To: Message-Id of the message to which this is a reply
References: Other relevant Message-Ids
Keywords: User chosen keywords
Subject: Short summary of the message for the one-line display

Một số trường được sử dụng trong header thông điệp RFC 822.

Trường From: yêu cầu phải có còn trường Sender: có thể được bỏ qua nếu việc viết
và gửi cùng một người. Các trường này cần thiết khi trong trường hợp thông điệp không
được phát đi và phải được trả lại cho người gửi.
Dòng chứa trường Received: được đưa vào bởi các MTAs dọc theo đường truyền.
Dòng này chứa định danh của agent, ngày tháng và thời gian thông điệp được nhận, và

các thông tin khác có thể được sử dụng cho việc tìm kiếm các lỗi trong hệ thống định
tuyến.
Trường Return-Path: được đưa vào bởi MTAs cuối cùng và được dùng cho việc gửi
trở lại người gửi. Theo lý thuyết, thông tin này có thể được tập hợp lại từ các header
Received: (loại trừ tên của hộp thư người gửi), nhưng nó ít khi được điền đầy đủ như thế
và chỉ đặc biệt chứa địa chỉ của người gửi.
Thêm vào các trường của hình bên dưới các thông điệp RFC 822 cũng có thể chứa
một trong số các trường khác được sử dụng bởi các UA hay những người nhận thư.
Những trường thông thường nhất được liệt kê trong hình bên dưới. Hầu hết những trường
này có tính cách giải thích, vì thế chúng ta không đi sâu vào từng chi tiết.

7. Phương thức hoạt động
7.1. Email đến được hộp thư của người nhận như thế nào?
Có lẽ nền tảng đầu tiên là email không được quản lý bởi một loại máy chủ hay công
nghệ nào. Nó là một gói giao thức được phục vụ bởi các tiến trình riêng biệt. Chúng ta sẽ
xem xét đến các tiến trình này sau khi hiểu qua về vấn đề tổng quan.
Bạn đã từng viết thư trong máy khách email của bạn – các ứng dụng phần mềm có thể sử
dụng trên desktop để giúp soạn thảo và tổ chức thư tín, như chương trình Microsoft
Outlook, Apple Mail hoặc Thunderbird. Các chuyên gia Email gọi các ứng dụng máy
khách đó là mail user agent (MUA). MUA có thể không phải là một ứng dụng desktop; nó
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 22/80
có thể là một ứng dụng "Web mail" chạy trên máy chủ Web và máy chủ này cho phép bạn
điều khiển bằng cách sử dụng trình duyệt. Web mail client, dù thông qua Gmail, Yahoo
hay front end công ty đến hệ thống khác, đều được xử lý theo cùng một cách với tư cách
MUA của desktop client trong phần còn lại của tiến trình truyền tải email. Khi bạn kích
vào nút Send, thư tín sẽ không suất hiện trên màn hình và thiết lập một chuỗi các sự kiện
chuyển mail. Sau khi kích vào nút Send, thư được truyền tải đến outgoing mail server
(máy chủ mail gửi) của bạn, máy chủ mail này có thể được đặt tên dạng như

mail.tencongty.com. Máy chủ mail – trước đây được gọi là một tác nhân truyền tải mail
(MTA) – chấp thuận thư, vì bạn đang ở trong một mạng tin cậy hoặc vì bạn đã cung cấp
username và password (thông thường được lưu trong các file cấu hình của MUA). Tiến
trình mạng này được hoàn thành bằng sử dụng giao thức truyền tải mail đơn giản - Simple
Mail Transfer Protocol (SMTP), và tiến trình bảo đảm người gửi là tin cậy được gọi là
SMTP chứng thực.
Khi thư của bạn trong hàng đợi, máy chủ mail cần gửi nó đi. Máy chủ mail lên lạc với
máy chủ mail của người nhận và tuyền tải thư bằng giao thức SMTP. Nhưng với hàng
triệu máy chủ mail, thì đâu là máy chủ mail mà nó cần phải liên lạc? Máy chủ mail của
bạn sẽ tìm kiếm trên máy chủ DNS (máy chủ tên miền), các máy chủ này được hiểu như
một kiểu danh mục thẻ thư viện của Internet, để tìm ra ai đã ký để chấp nhận mail cho
miền của người nhận. DNS cho máy chủ mail của bạn các bản ghi trao đổi mail (MX) đã
được đăng ký cho miền đó. Từ đó trao cho máy chủ mail của bạn một máy chủ để liên lạc
và nó bắt đầu truyền tải trên đó.
Thư tín được gửi trên Internet thông qua TCP/IP (Transmission Control
Protocol/Internet Protocol). Quá trình truyền thông giữa máy chủ tới máy chủ có phần
khác đôi chút so với những gì nó thực hiện khi trao đổi với client MUA, mặc dù cả hai
đều sử dụng SMTP. Một điểm khác nữa đó là giữa các thiết lập của quản trị viên và
chương trình mã đã thiết lập từ trước, mỗi máy chủ mail sẽ thừa nhận rằng thư tín đã bị
định dạng sai (giống như việc từ chối của bưu điện đối với một lá thư thiếu địa chỉ phố
đầy đủ), vì nó không đúng với nguyên tắc trong hành động gửi spam hoặc virus.
Chủ yếu là để chống spam nên hầu hết các máy chủ mail đều xử lý thư qua một tiến
trình gồm nhiều bước nhỏ trước khi chúng chấp nhận dữ liệu, lại càng không lưu nó và
chuyển tiếp đến người dùng. Các bước này sẽ được chúng tôi giới thiệu sơ qua bên dưới.
Lưu ý rằng, chúng tôi đang đơn giản hóa hết mức quá trình truyền thông ở đây.
Hãy biết rằng có rất nhiều bước trong một quá trình và mỗi một bước lại được quản lý bởi
các chuẩn. Ví dụ RFC 2821 đưa ra chuẩn SMTP, chuẩn này gồm có cách gửi mail trên
mạng. RFC 2822 đưa ra định dạng cơ bản cho thông báo email, gồm có các header (To:,
Cc:, Subject: …). Các quản trị viên email của bạn có thể sẽ hiểu được rất kỹ về các vấn đề
này.

Khi thư tín đến được máy chủ mail đích thì máy chủ này sẽ chịu trách nhiệm cho việc
phân phối đến người nhận (như mail.tencongtykhachhang.com), nó chuẩn bị để phân
phối đến từng cá nhân đang đợi thư của bạn. Ở đây cũng có nhiều lựa chọn cho quản trị
viên mail, trong cách mail sẽ được lưu như thế nào và được chuyển tiếp ra sao đến người
dùng. Mỗi tổ chức (hoặc các quản trị viên email của nó) quyết định xem phương pháp nào
là tốt nhất với những nhu cầu của họ. Hầu hết, giao thức chính đã sử dụng trong tổ chức
của chúng tôi là Internet Message Access Protocol (IMAP), giao thức này cho phép giữ
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 23/80
tất cả các thư trên máy chủ mail đến, được phân loại một cách gọn gàng thành các thư
mục của người dùng. Ngày nay các công ty thường sử dụng Post Office Protocol (POP3).
Sử dụng POP3 e-mail, lệnh “Tải thư mới” trong MUA của bạn cho phép ứng dụng có thể
download tất cả các thư tín về máy tính. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, các thư tín email sử
dụng POP3 sau đó đều được xóa trên máy chủ mail.
Người nhận chuyển qua một lệnh “Tải thư mới” trên MUA của chính họ… và có được
thư mà bạn đã gửi. Điều kỳ diệu là thư tín của bạn có thể du lịch vòng quanh thế giới
thông qua 5 hoặc 6 máy tính đơn lẻ. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, thư của bạn đến
được máy tính của người nhận trong vòng một hoặc hai phút. Tất cả những công việc đó
được thực hiện rất nhanh khi hệ thống làm việc. Vậy điều gì sẽ xảy ra khi hệ thống gặp
vấn đề?

7.2. Email có thể bị giữ chậm hoặc bị mất liên lạc ra sao?
Sự cường điệu hóa trước kia nói rằng Inernet như một “xa lộ điện tử”. Mặc dù vậy
trong trường hợp này, một mạng các xa lộ cũng tương tự như các đường xa lộ khác nhau
trong thực tế. Nếu bạn không bắt gặp một phương tiện nào đó trên đường đến văn phòng
làm việc của mình thì có thể chỉ mất khoảng 20 phút để đến được văn phòng làm việc.
Nhưng nếu đường có quá nhiều xe ca, bạn có thể mất đến 5 phút để có thể vượt qua mỗi
một ngã ba hay ngã tư nào đó. Cấu trúc động cơ tốt cũng không thể giúp ích được bạn
trong trường hợp này. Khi đó thời gian bạn tốn cho việc đến văn phòng sẽ mất hơn 20

phút là điều chắc chắn.
Hiểu tương tự như vậy đối với “xa lộ email”. Máy chủ email nhanh, nhưng các thư tín
lại rất nhiều và đang đầy ắp ở hàng đợi. Lưu lượng Internet có thể yêu cầu các thư được
định tuyến lại thông qua những đường dẫn không rành mạch. Đôi khi vấn đề có thể do các
máy chủ mất kết nối với Internet, giắc cáp mạng bị rút, thay đổi các thiết lập MUA, hay
gửi một file PowerPoint lên đến 10MB. Đây là vấn đề chung đối với máy chủ mail của
bạn. Giống như đối với dịch vụ bưu chính, các thư từ có thể chuyển từ một địa điểm này
sang một địa điểm khác trước khi chúng được phân phối. Các thư điện tử này được quản
lý từ máy đến máy dưới mô hình “lưu và chuyển tiếp” liên quan đến nhiều máy tính, vì
vậy tốc độ phân phối có thể thay đổi rất nhanh.
Điều này cũng có nghĩa rằng các thư tín “được đi du lịch” qua các máy tính có thể biết
hoặc không biết người nhận và người gửi. Mô hình lưu và chuyển tiếp là một mô hình
quan trọng trong phương pháp truyền tải email, vì nó cho phép các tuyến thứ cấp có thể
thay đổi đường dẫn và tạo lại các kết nối khi có vấn đề nào đó xuất hiện.
Đó hoàn toàn là những thứ chưa đụng chạm gì đến các vấn đề gây khó chịu như spam
và virus. Thêm vào đó là việc tiêu tốn một số lượng lớn về băng thông; virus, spam và
Trojan horses có thể gây ra tốn rất nhiều thời gian và mọi nỗ lựu của các nhà quản trị
mạng trong việc xây dựng bẫy để ngăn chặn những rủi ro không mong muốn lọt vào trong
hộp thư của người dùng. Mọi gateway đều cần đến thời gian, giống như một cao tốc
nhưng tốc độ lại chậm. Trước kia, các mail Server không được quan tâm nhiều về mặt kỹ
thuật. Nhưng trong thế giới hiện tại, khả năng phân phối mail có thể bị tổn hại bởi các vấn
đề kỹ thuật khác như các máy chủ tên miền (DNS) không đúng, việc điều chỉnh thiếu thận
trọng các tham số timeout và định dạng mail khác thường.
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 24/80
Sau đó gánh nặng chuyển sang giải quyết các vấn đề spam, tấn công giả mạo và virus.
Sẽ không có thứ như vậy khi thực hiện bảo vệ bằng bộ lọc spam. Tuy các bộ lọc này sẽ
ngày càng được cải thiện nhưng bạn vẫn có thể phải lưu ý vì không ít thư thực sự lại bị
đưa vào thư mục spam, và trong tình huống như vậy nếu không kiểm tra thư mục spam

bạn sẽ cho rằng thư đó bị thất lạc.
Các rào cản khác đến từ việc thất bại máy khách và chủ email không được cấu hình (có
thể như chính bạn) theo các nguyên tắc; thường chung hơn, mail này bị loại ra bởi các
máy chủ mail của người nhận. Nếu điều đó xảy ra, thư sẽ bị giữ chậm hoặc bị mất. Điều
đó có nghĩa rằng các công ty phải ép buộc công nghệ mail dựa trên các chuẩn (như khi
bảo đảm rằng các địa chỉ mail bám chặt với RFC), và rằng người dùng phải có các hành
vi thực hiện với email một cách đúng đắn.Một số lý do khác bao gồm việc không tương
thích giữa các máy chủ mail của người nhận và người gửi. Trong trường hợp này thư sẽ bị
giữ chậm lại hoặc bị mất. Do đó các công ty thường phải ép công nghệ mail dựa trên các
chuẩn chung và người dùng lưu ý trong việc sử dụng địa chỉ email một cách đúng đắn và
cần thiết.

8. Cấu trúc một thư điện tử
Về cơ bản, một bức Mail bao gồm 3 phần chính:
• Phần phong bì: Mô tả thông tin về người gởi và người nhận. Do hệ thống tạo ra.
• Phần tiêu đề (header): chứa đựng các thông tin về người gởi, người nhận, chủ đề
bức Mail, địa chỉ hồi âm .v.v Các thông tin này, một số được người sử dụng cung cấp
khi gởi Mail, một số khác được chương trình Mail thêm vào, và số còn lại do Hệ thống
điền thêm.
• Phần nội dung (body): chứa đựng nội dung của bức Mail, là nội dung được tạo ra
bởi trình soạn thảo Editor của chương trình Mail. Sau đây là chi tiết của từng phần:
a. Phần phong bì (Envelope):
Phần này do các MTA tạo ra và sử dụng, nó chứa các thông tin để chuyển nhận
email như địa chỉ của nơi nhận, địa chỉ của nơi gửi. Hay nói cách khác, giao thức SMTP
sẽ quy định thông tin của phong bì, các hệ thống Email cần những thông tin này để
chuyển dữ liệu từ một máy tính này sang một máy tính khác.

b. Phần tiêu đề (header):
- Phần này cung cấp những thông tin tổng quát về Email như người nhận, người
gửi, ngày giờ nhận

- Cấu tạo gồm nhiều trường (field) cấu trúc mỗi trường là một dòng văn bản ASCII
chuẩn 7 bit như sau: <tên trường >: <nội dung của trường>.
- Sau đây là một số trường thông dụng và ý nghĩa của nó :
9 Date: chỉ ngày giờ nhận mail.
9 From: chỉ người gởi.
9 To: chỉ người nhận.
9 Cc: chỉ người những nhận bản copy của mail.
9 Bcc: chỉ ra những người nhận bản copy của bức mail, nhưng từng người
không biết những người nào sẽ nhận bức thư này
Hệ thống webmail client

Trần Phan phong Phú Trang 25/80
9 Return-path: chứa các thông tin để người nhận có thể trả lời lại (thường
nó chính là địa chỉ người gởi).
9 Subject: chủ đề của nội dung Email.
Các trường trên là các trường chuẩn do giao thức SMTP quy định, ngoài ra trong
phần header cũng có thể có thêm một số trường khác do chương trình Email tạo ra nhằm
quản lý các email mà chúng tạo. Các trường này được bắt đầu bằng ký tự X- và thông tin
theo sau là cũng giống như ta thấy trên một trường chuẩn.

c. Phần nội dung (body):
Để phân biệt phần tiêu đề và phần nội dung của bức Mail, người ta qui ước đặt
ranh giới là một dòng trắng (chuỗi ký tự "\r\n"). Kết thúc của phần nội dung là chuỗi ký tự
kết thúc Mail: "\r\n.\r\n". Như vậy nội dung bức Mail nằm trong khoảng giữa dòng trắng
đầu tiên và ký tự kết thúc Mail, và trong phần nội dung của bức Mail không được phép
tồn tại chuỗi ký tự kết thúc Mail. Mặt khác do môi trường truyền thông là mạng Internet
nên các ký tự cấu thành phần body của bức Mail cũng phải là các ký tự ASCII chuẩn.

9. Các giao thức gửi nhận mail
9.1. SMTP (Simple Mail Transfer Protocol)

9.1.1. Giới thiệu chung
Mục đích của giao thức SMTP (Simple Mail Transfer Protocol) là để truyền thư
đáng tin cậy và có hiệu quả.
SMTP đọc lập về hệ thống con truyền thông đặc biệt và các yêu cầu chỉ tin cậy
theo kênh luồng dữ liệu tuần tự.
Đặc tính quan trọng của SMTP là khả năng chuyển tiếp thư tín qua các môi trường
dịch vụ truyền thông (transport service). Dịch vụ truyền thông cung cấp một môi trường
truyền thông liên quá trình (interprocess communication environment - IPCE). IPCE có
thể là một mạng, nhiều mạng hay một tập hợp con của một mạng. Điều quan trọng để
nhận thấy rằng các hệ thống truyền thông (IPCEs) không phải là việc truyền thông tương
ứng một tới một (one-to-one) với các mạng. Một tiến trình có thể truyền thông qua lại
trực tiếp với một tiến trình khác thông qua bất kỳ một IPCE đã được biết. Thư tín là một
ứng dụng hay là việc sử dụng truyền thông liên tiến trình. Thư tín có thể được truyền qua
giữa các tiến trình theo các IPCEs khác nhau bắng cách chuyển tiếp qua một tiến tiến
trình được kết nối tới hai hay nhiều IPCEs. Đặc biệt hơn nữa, thư tín có thể được chuyển
tiếp giữa các máy chủ (hosts) trên các hệ thống truyền thông khác nhau bởi một máy chủ
trên cả hai hệ thống truyền thông.
Giao thức SMTP định nghĩa cách để chuyển giao thư tín trực tiếp giữa các máy tính
trên mạng. Nó có hai vai trò là gửi (sender-SMTP) và nhận (receiver-SMTP) thư. Thông
thường, bên gửi thiết lập một liên kết TCP với bên nhận, và bên nhận sử dụng cổng
truyền thông số 25 để cung cấp dịch vụ thư tín điện tử.
Trong một phiên giao dịch thư tín, bên gửi và bên nhận trao đổi tuần tự các lệnh và
các thông tin phản hồi.

9.1.2. Mô hình hoạt động phiên giao dịch
SMTP được thiết kế dựa trên mô hình truyền thông sau: khi người sử dụng (user) gửi một
yêu cầu dịch vụ thư tín, trước tiên Sender-SMTP thành lập một kênh truyền thông hai

×