Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.26 KB, 35 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế quan trọng, quyết định đến sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia cũng như mỗi địa phương. Đây chính là chìa
khóa để tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa tạo thế và lực thúc đẩy phát triển đồng thời hội nhập kinh tế quốc
tế. Chính vì vậy, đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là một giải pháp
chủ yếu để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội theo hướng tăng trưởng cao, ổn định
và bền vững. Bất kỳ quốc gia, địa phương nào muốn có tốc độ tăng trưởng cao, đời
sống nhân dân được cải thiện đều phải quan tâm đến đầu tư phát triển. Nhận thấy
được tầm quan trọng đó, trong những năm vừa qua tỉnh Thanh Hóa đã biết tận dụng
những lợi thế của mình và thực hiện nhiều biện pháp nhằm huy động nhiều nguồn lực
cho đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh xây dựng kết cấu hạ tầng.
Chính vì vậy, giai đoạn 2005-2009 kết cấu hạ tầng cơ sở của tỉnh Thanh Hóa đã cải
thiện đáng kể, tăng trưởng kinh tế của tỉnh liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa các vấn
đề y tế, giáo dục và một số vấn đề khác cũng có những tiến đáng kể. Tuy nhiên, so
với tiềm năng phát triển của tỉnh Thanh Hóa cũng như số lượng vốn bỏ ra thì những
kết quả đấy chưa tương xứng. Hoạt động đầu tư diễn ra sôi nổi, song hiệu quả đầu tư
chưa cao, còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Do đó, việc tìm ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trong thời gian tới đây là vấn
đề bức xúc của tỉnh.
Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020” làm đề tài nghiên cứu trong
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp là đưa ra những giải pháp chủ
yếu thích hợp nhất nằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn
tỉnh.
Để thực hiện được mục đích đó, chuyên đề sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ
trong phạm vi nghiêm cứu như sau: trình bày những lý luận cơ bản về đầu tư phát
triển và hiểu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu


tư phát triển địa bàn về phương pháp nghiên cứu, dựa trên phương pháp duy vật biện
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chứng, tác giả sử dụng các phương pháp thông kê, tổng hợp và đánh giá, phương
pháp so sánh, khái quát hóa và phân tích hóa vấn đề.
Về kết cấu của chuyên đề: ngoài phần mở đầu và phần kết luận chuyên đề
gồm 3 phần chương.
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư phát triển.
Chương 2: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển địa bàn tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2005-2009.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.1 Khái niệm, vai trò và đặc trưng của đầu tư phát triển
1.1.1 Khái niệm về đầu tư phát triển:
“Đầu tư” là thuật ngữ được dùng rất phổ biến trong nghiên cứu cũng
như thực tiễn đời sống. Tùy từng góc độ tiếp cận và phạm vi nghiên cứu, đã có
nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế đều cho
rằng: “Đầu tư là sự hi sinh của các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó”.
Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Còn các kết quả có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn

nhân lực.
Đầu tư có thể được chia thành: đầu tư tài chính (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu, cổ
phiếu…), đầu tư thương mại (mua hàng hóa với giá cao hơn) và đầu tư phát triển.
Trong đó: “Đầu tư phát triển là việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để duy trì
tiềm lực của những cơ sở đang hoạt động và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội”
Cụ thể, ĐTPT bao gồm các hoạt động xây dựng, sửa chữa nhà cửa, vật kiến
trúc, mua sắm, lắp đặt thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực đồng thời thực hiện
các công việc gắn liền với sự phát huy tác dụng của các tài sản do ĐTPT tạo ra.
ĐTPT có những đặc điểm khác biệt so với đầu tư thương mại, đầu tư tài chính.
1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của đầu tư phát triển
Xuất phát từ khái niệm về ĐTPT và yêu cầu nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn ĐTPT, cần thiết phải nghiên cưú bản chất của ĐTPT thông qua việc
phân tích những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thời gian đầu tư và thu hồi tùy thuộc vào từng đối tượng và lĩnh vực
đầu tư nhưng thường diễn ra trong thời gian dài.
Theo quy định của trình tự đầu tư và xây dựng (ĐTXD), thời gian đầu tư được
chia thành ba gian đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành khai thác. Do
vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh trình
tự ĐTXH, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển. Quy hoạch
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải đi trước một bước làm cơ sở để quản lý chặt chẽ các hoạt động ĐTPT. Cần tập
trung đầu tư dứt điểm và có trọng điểm, nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian thực
hiện các công việc: lập, thẩm định dự án đầu tư, thiết kế dự toán, hồ sơ giao nhận
thầu và thời gian xây dựng công trình, nhanh chóng đưa dự án vào khai thác sử dụng
làm tăng năng lực sản xuất, tăng lực phục vụ cho nền kinh tế. Khi đánh giá hiệu quả
đầu tư, cần phải quan tâm tới toàn bộ quá trình đầu tư, tránh tình trạng chỉ tập trung
vào giai đoạn thực hiện dự án mà không chú ý đến thời gian khai thác sử dụng vì đó
là giai đoạn các kết quả đầu tư phát huy tác dụng để đạt tới mục tiêu cuối cùng đã

được xác định trong dự án.
Quá trình hoạt động đầu tư diễn ra càng dài thì việc bỏ vốn càng gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, thời gian thu hồi vốn đầu tư được các nhà đầu tư quan tâm. Để
hoàn thành vốn nhanh khi tiến hành đầu tư cần thiết phải lựa chọn hình thức, trình tự
bỏ vốn thích hợp nhằm giảm thiểu thiệt hại do ứ động vốn đầu tư bởi khối lượng xây
dựng dở dang.
Thứ hai, hoạt động ĐTPT đòi hỏi một khối lượng lớn. Lượng vốn này sẽ đáp
ứng yêu cầu của quá trình ĐTXD cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, vật kiến trúc, mua sắm
máy móc, thiết bị…và quá trình khai thác sử dụng sau này.Muốn có đủ vốn cho quá
trình đầu tư phải có tích lũy từ nền kinh tế. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển,
tiết kiệm trong nước thường không đáp ứng được nhu cầu. Chính vì vậy, cần tích cực
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó cần khắc phục tình trạng sử dụng vốn
đầu tư lãng phí, kém hiệu quả.
Thứ ba, kết quả đạt được sau quá trình thực hiện đầu tư là những cơ sở vật
chất kỹ thuật hoàn chỉnh phục vụ cho các hoạt động khác nhau trong nền kinh tế. Đó
thường là các công trình xây dựng có quy mô lớn, phức tạp về mặt kỹ thuật, có giá trị
sử dụng lâu dài và sẽ được hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó
các điều kiện về địa lý, địa hình tại địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến quá trình
thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Chính vì thế,
trước khi tiến hành công cuộc đầu tư cần phải điều tra và nghiên cứu kỹ càng tác
động các nhân tố liên quan. Không làm tốt công tác đó thì không những kết quả đầu
tư không thể phát huy hết tác dụng mà nếu phải di rời hoặc phá hủy thì sẽ rất tốn
kém, đồng thời còn ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động khác.
Thứ tư, tính rủi ro của hoạt động đầu tư là rất lớn do chịu ảnh hưởng rất nhiều
của các yếu tố không ổn định. Ngoài những rủi ro thường gặp về thị trường, thu
nhập, thanh toán, các nhà đầu tư còn phải đối mặt với những rủi ro về những bất ổn
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chính trị, xã hội (chiến tranh, xung đột, biểu tình, tham nhũng…), các chính sách kinh

tế, tài chính (chính sách thuế, tiền tệ…) đồng thời còn những bất ổn thiên tai, do điều
kiện địa lý không gian. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cần có những biện pháp thích
hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Về phía các nhà quản lý,
cần có những chính sách rõ rang, hấp dẫn tạo điều kiện để các hoạt động đầu tư diễn
ra thuận lợi và hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do các yếu tố rủi ro, từ đó kích
thích các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh
tế.
1.1.3 Vai trò đầu tư phát triển trong nền kinh tế xã hội:
1.1.3.1 Vai trò của đầu tư phát triển tới tăng trưởng kinh tế.
Vai trò này của đầu tư thể hiện qua mô hình tổng cung và tổng cầu.
Với tổng cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng
24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Trong ngắn hạn, sự
gia tăng của đầu tư thực chất là gia tăng nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nói chung của
NKT. Chúng ta biết rằng tổng sản lượng NKT (Y) chính bằng tổng tiêu dung của dân
cư (C), chi tiêu chính phủ, đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX):
Y=C+ G + I +NX
Do đó, khi gia tăng đầu tư sẽ thúc đẩy gia tăng sản lượng.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
ASо
AS
AD
ADо
Q
2
QQо

P
2
P

1
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhìn đồ thị ta thấy, ở trạng thái cân bằng ban đầu, sản lượng của NKT là Qо
mức giá chung là Pо. Khi đầu tư tăng lên, đường cầu ADо dịch sang AD, sản lượng
cân bằng hiện thời tăng lên từ Qо lên Q và ,mức giá tăng từ Pо lên P.
Về tổng cung: đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là nó thêm các nhà
máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất làm tăng thêm khả năng
sản xuất của NKT. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung làm tổng cung tăng
lên( đường ASо dịch chuyển sang AS). Sản lượng tiềm năng tăng từ Q lên Q2 và
giá cả giảm xuống từ P xuống P2. Sản lượng tăng và giá cả giảm cho phép tăng tiêu
dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa.
Từ năm 1991, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc với tốc độ tăng trưởng
8,7% và đạt mức cao nhất vào năm 1995 với tốc độ tăng trưởng 9,5%. Sáu năm liên
tục (1991-1996), Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 8%. Do sự ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực năm 1997 vì thế tốc độ tăng trưởng của
Việt Nam là 5,8% năm 1998 còn 4,8% năm 1999. Từ năm 2003 thì có sự phục hồi,
tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003-2007 là 8,04% năm 2008 là 8,48% năm
2009 có sự khủng hoảng thế giới nên tốc độ tăng trưởng đã bị giảm xuống còn
6,23%. Nếu so sánh các nước khu vực trong khu vực thì tốc độ tăng trưởng của Việt
Nam đứng thứ 2 sau Trung Quốc cao hơn các nước ASEAN như Malaysia, Philipin,
Indonesia và Thái Lan.
Mặc dù giai đoạn từ 1990-2008 tăng trưởng khá cao những vẫn theo chiều
rộng. Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện dựa trên sự cải thiện của yếu tố TPF
trong tăng trưởng GDP hàng năm từ 14,22% giai đoạn 1992-1997 lên 22,6% thời kỳ
1998-2002 và 28,2% giai đoạn 2003 đến nay tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao
động gấp trên 3 lần so với tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP. Tỷ lệ đóng góp khoảng
20% vào tăng trưởng của nhân tổ TFP hiện thấp hơn rất nhiều so với các nước trong
khu vực, ví dụ như: Hàn quốc là 32,2%; Đài Loan 35%; Indonesia 28%; Thái Lan
36%. Các nước phát triển tỷ lệ đóng góp của TFP vào kết quả tăng trưởng thường

chiếm cao hơn nhiều, từ 60-75%. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế của yếu tố
TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu quả tăng trưởng
kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao động, hiệu quả đầu tư,
và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng kinh tế trong dài hạn cũng như
khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước. Sự đóng góp của yếu tố TFP
thấp còn cho thấy: công nghệ sử dụng trong nền kinh tế của VN chủ yếu là ở trình độ
công nghệ thấp (60%), chỉ có 20% công nghệ trình độ cao.Yếu tố đó đã làm cho năng
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực cạnh tranh toàn cầu của VN đang ở điểm số rất thấp. Trong bảng xếp hạng năng
lực cạnh tranh toàn cầu, thứ hạng của VN luôn bị tụt, năm 2007 tụt đi so với 2006 4
hạng, đến năm 2008, lại tụt đi 3 hạng. Hiện nay chúng ta chỉ đạt 3,89 điểm và đứng
thứ 77/125 nước.
Trong số 2 nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng là vốn và lao động thì yếu tố
vốn đóng vai trò quyết định nhất. Hiện nay tăng trưởng GDP của VN vẫn chịu ảnh
hưởng lớn (đến 60%) là do yếu tố vốn. Mô hình tăng trưởng của VN còn được gọi là
mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, trong khi vốn lại được sử dụng chưa có hiệu quả,
mà quan trọng hơn chúng ta lại là nước không có lợi thế vốn. Nếu trong những năm
tới, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư nước ngoài giảm
tốc độ đầu tư vốn vào Việt Nam, dòng vốn ODA, vay thương mại bị gián đoạn, điều
đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao của
Việt nam.
Xem xét tốc độ tăng trưởng GDP và sự biến động của tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ
đầu tư cho thấy nền kinh tế Việt Nam từ đầu thập niên 1990 tốc độ tăng trưởng cao
gắn liền gia tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP. Nếu trong giai
đoạn 1986-1990 tỷ lệ tiết kiệm thấp và đầu tư trong GDP thấp chỉ là 2,4% và 12,6%
thì tốc độ tăng trưởng chỉ là 4,3%. Trong giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ tiêt kiệm và tỷ lệ
đầu tư là 14,7% và 22,3% thì tỷ lệ tăng trưởng là tăng lên mạnh mẽ là 8,2%. Trong
giai đoạn 1996-2000 thì tỷ lệ đầu tư là 33,2% tốc độ tăng trưởng GDP giảm nhẹ

xuống còn 7%. Đặc biệt giai đoạn 2001-2009 tỷ lệ đầu tư là 38,8% thì tỷ lệ tăng
trưởng trung bình là 7,62%, sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1998-
2003 bị sụt giảm một phần là do khủng hoảng kinh tế một phần là do cơ chế chính
sách ngày càng không theo kịp tình hình mới làm cho hiệu quả đầu tư giảm sút
nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư tăng nhanh trong khi tốc độ tăng trưởng GDP vẫn chưa
phục hồi so với thời kỳ trước khủng hoảng.
1.1.3.2 ĐTPT tác động đến chuyển dịch kinh tế.
Có hai nhân tố quan trọng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
vốn đầu tư và lao động. Trong đó, vốn đầu tư giữ vai trò quyết định. Kinh nghiệm
của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh là
tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp, khu vực dịch
vụ. Đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp, do những hạn chế về đất đai, về khả năng
sinh học nên để đạt được tốc độ tăng trưởng trên 6% là tương đối khó khăn. Như
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ NKT.
Cơ cấu đầu tư theo ngành là cơ cấu đầu tư theo từng ngành kinh tế quốc dân
cũng như từng tiểu ngành, thể hiện thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách
đầu tư đối với từng ngành theo mục tiêu nhất định. Nghiên cứu đầu tư theo 3 nhóm
ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, mục đích là phân tích đánh giá tình hình
đầu tư, thực hiện đường lối CNH-HĐH của Đảng trong đó, ưu tiên phát triển công
nghiệp và dịch vụ, chú ý phát triển nông nghiệp vì nước ta vẫn là nước chiếm tỷ lệ
lớn về nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển.
Ngoài ra, ĐTPT còn tác dụng chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ. Cơ cấu đầu tư hợp
lý sẽ giải quyết nhũng mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãng thổ.
Vai trò của cơ cấu đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-
HĐH ở Việt Nam. Đầu tư có tác dụng đến chuyển dịch kinh tế. Đầu tư góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước

ta trong từng thời kỳ, tạo sự phát huy nội lực kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố
ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng
ngành nhiều hay ít, việc sự dụng hiệu quả cao hay thấp…đều ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất từng ngành tạo tiền đề vật chất
cơ sở để phát triển các ngành mới…do dó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Đối
với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng
lãnh thổ, đưa những vùng thoát ra khỏi vùng yếu kém, phát huy tối đa về lợi thế tài
nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn
làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển.
Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế Việt Nam chủ yếu tập trung vào kĩnh vực
dịch vụ và công nghiệp- xây dựng, tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư vào 2 ngành này
khá cao và duy trì ở mức 40-50 %, tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực nông- lâm, ngư
nghiệp vẫn còn thấp chỉ ở mức trên dưới 10% những năm gần đây lại có xu hướng
sụt giảm. Để thấy rõ hơn tác động của yếu tố vốn đến tăng trưởng kinh tế chúng ta đi
vào tìm hiểu vai trò của vốn đối với từng lĩnh vực kinh tế cụ thể.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biểu 1.1 Biểu cơ cấu vốn đầu tư Việt Nam 2000-2007
Nguồn: Thời báo kinh tế việt nam
Do có sự thay đổi tích cực trong cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành, nên cơ
cấu ngành kinh tế nước ta năm 2007 tiếp tục có dấu hiệu chuyển dịch theo xu thế tích
cực. Có thể theo dõi xu hướng này qua bảng sau:
Bảng 1.1: Cơ cấu đầu tư và cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2000 – 2007(%)
Năm Cơ cấu GDP
NN CN DV
Cơ cấu vốn đầu tư
NN CN DV
2000 24,53 36,73 38,73 13,8 39,3 46,9
2001 23,24 38,13 38,63 9,6 42,2 48,0

2002 23,03 38,49 38,48 8,8 42,3 48,9
2003 22,54 39,47 37,99 8,5 41,3 50,3
2004 21,81 40,21 37,98 7,9 42,7 49,4
2005 20,97 41,02 38,01 7,5 42,6 49,9
2006 20,4 41,52 38,08 7,5 41,1 51,4
2007 20,0 41,8 38,5 6,5 43,5 50,0
Nguồn: tính toán của tác giả từ số liệu của Tổng cục thống kế VN
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo xu hứớng tăng tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp cả theo GDP và lao động. Tỷ
trọng khu vực công nghiệp trong GDP liên tục tăng lên; nếu như năm 2000 khu vực
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 36,7% thì đến năm 2006 đã tăng lên là 41,5% và
năm 2007 lại tiếp tục tăng lên 41,8%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ sau nhiều năm giảm
sút đã tăng trở lại từ năm 2005, đến năm 2007 đã chiếm 38,5%. Ngược lại, tỷ trọng
khu vực nông nghiệp đã giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,4% năm 2006 và
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năm 2007 chỉ còn 20%. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp tục thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động và phân bố lại dân cư.
Có được sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo đúng xu thế nói trên là do từng khu
vực, từng ngành kinh tế đều có xu hướng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
tăng cường các mối liên kết kinh tế trực tiếp giữa các ngành kinh tế với nhau; gắn kết
sản xuất với thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, thích ứng ngày càng nhiều
với các đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện nền
kinh tế. Cụ thể:
(i) Trong ngành công nghiệp: Cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm đều có
những bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế
tạo và tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng lên. Số sản phẩm cạnh tranh được
trên thị trường ngày càng nhiều. Năng suất lao động ngành công nghiệp tăng lên khá
nhanh.

(ii) Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng
hiệu quả và nâng cao trình độ công nghệ thông qua ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất, bảo quản và chế biến, đặc biệt là trong lĩnh vực thủy sản. Liên kết công,
nông nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn, cho phép nâng cao đáng kể giá trị nông sản
hàng hóa, nhất là nông sản hàng hóa xuất khẩu. Các ngành nghề phi nông nghiệp ở
nông thôn tiếp tục phát triển đa dạng, tập trung vào những ngành nghề có giá trị gia
tăng cao. Ngành Thủy sản năm 2007 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm
khá cao (9,9%)
(iii) Khu vực dịch vụ đã tiếp tục tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có tiềm
năng để phát huy ưu thế và khả năng cạnh tranh như du lịch, vận tải biển, tài chính,
ngân hàng, chứng khoán. Phát triển mạnh mẽ thương mại, bảo đảm hàng hóa lưu
thông thông suốt trong thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Tổng mức lưu chuyển
hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hôi tăng trưởng khoảng 22,5% so với năm 2006.
Mở rộng mạnh mẽ các loại thị trường, cả thị trường thành thị và thị trường nông
thôn, thị trường miền núi. Phát triển du lịch Việt Nam trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hóa lịch sử. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam namư 2007 tăng
khoảng 25% so với 2006 (4,3 – 4,5 lượt người).
Do đó, cần đầu tư vào những vùng kém phát triển để đưa những vùng đó thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời ĐTPT phải phát huy những lợi thế so sánh về tài
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên thiên nhiên, kinh tế chính trị xã hội của những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.1.3.3 Vai trò của ĐTPT đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội.
Mục tiêu cuối cùng của đầu tư phát triển cũng như mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế là cải thiện các chỉ tiêu xã hội, đầu tư làm tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng
mức sống của nhân dân, GDP trên người tăng lên. Các đầu tư phát triển xã hội như cở sở
hạ tầng, đường xá trường học, bể nước sạch ở các vùng khó khăn, dự án đầu tư phát triển

nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói. Đầu tư nâng cao vật chất và dân trí của nhân dân, vì thế đầu
tư phát triển có ý nghĩ rất lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội.
Ngoài ra ĐPPT nắm giữ vai trò không thể thiếu trong việc hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô của các chính phủ. Giữa biến số đầu tư và các mục tiêu kinh tế vĩ
mô có mối quan hệ chặt chẽ. Quy mô tốc độ đầu tư thay đổi sẽ tác động trực tiếp đến
sản lượng kinh tế quóc dân, thất nghiệp lạm phát... Chính sách kinh tế vĩ mô của
chính phủ cần kiểm soát mối quan hệ này để ổn định NKT.
Dưới tác động trực tiếp của các chính sách tài chính tiền tệ, việc tăng hay
giảm khối lượng đầu tư đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến NKT. Một mặt,
tăng khối lượng đầu tư sẽ khích thích sản xuất phát triển, tăng năng lực sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác, do
tăng cầu về các yếu tố cơ bản cảu sản xuất nên giá tăng. Giá tăng đến một chừng mực
nào đó sẽ dẫn đến lạm phát. Ngược lại, giảm khối lượng đầu tư làm cho sản xuất
chững lại, tình trạng thất nghiệp gia tăng, có thể kéo theo giảm phát. Điều này làm
cho đời sống nhân dân giảm, tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng. Do vậy Nhà nước cần có
các biện pháp, cơ chế và những chính sách phù hợp để phát huy tối đa mặt tích cực,
hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực do việc tăng giảm đầu tư mang lại.
1.2 Khái niệm và nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển:
1.2.1 Khái niệm vốn đầu tư phát triển:
Vốn ĐTPT là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định, tài sản lưu
động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư, mặt bằng dân trí và
bảo vệ môi trường sinh thái trong thời giai nhất định.
Vốn đầu tư phát triển gồm: Vốn đầu tư cơ bản; vốn lưu động bổ sung và vốn
đầu tư phát triển khác.
Nội dung của 3 bộ phận cấu thành nên vốn đầu tư phát triển toàn xã hội:
a. Vốn đầu tư cơ bản là số vốn đầu tư để tạo ra tài sản cố định. Nó bao gồm
vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ. Vốn đầu tư xây
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

dựng cơ bản là một thuật ngữ đã được sử dụng khá quen thuộc ở nước ta với nội
dung bao hàm những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc
khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế.
Về thực chất vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ bao gồm những chi phí làm tăng
thêm giá trị tài sản cố định. Như vậy, vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm 2 bộ phận
hợp thành: vốn đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới TSCĐ mà ta quen gọi là vốn
đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn TSCĐ.
Về nội dung chỉ tiêu: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn
TSCĐ bao gồm:
- Chi phí cho việc thăm dò, khảo sát và quy hoạch xây dựng chuẩn bị cho đầu tư.
- Chi phí thiết kế công trình, chi phí xây dựng
- Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc nguồn
vốn đầu tư XDCB;
- Chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết bị, sửa
chữa lớn các TSCĐ khác.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của vốn đầu tư cơ bản được sử
dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như đã nêu trên.
b. Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản
lưu động trong kỳ nghiên cứu của toàn xã hội. Đây là một nội dung phức tạp rất khó
khăn trong việc thu thập thông tin. Bởi lẽ, đối với khu vực kinh tế tư nhân người ta
thường không ghi chép những khoản đầu tư bổ sung cho vốn lưu động. Vì thế việc
đánh giá mức độ đầu tư phát triển hàng năm của từng địa phương và toàn quốc gặp
rất nhiều khó khăn và tất nhiên không thể tránh khỏi sai sót. Ngành Thống kê đã
tiến hành điều tra mẫu để suy rộng cho từng thành phần kinh tế. Song việc thu thập
thông tin rất phức tạp, độ chính xác còn hạn chế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân mà
đặc biệt là kinh tế hộ gia đình.
c. Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm
tăng năng lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội ngoài yếu tố làm tăng
TSCĐ, TSLĐ còn phải làm tăng nguồn lực khác như: nâng cao dân trí; hoàn thiện
môi trường xã hội; cải thiện môi trường sinh thái; hỗ trợ cho các chương trình phòng

chống tệ nạn xã hội và các chương trình phát triển khác. Như vậy, nội dung của "vốn
đầu tư phát triển khác" rất phong phú. Nó bao gồm tất cả các khoản đầu tư tăng
thêm cho:
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chi phí cho công việc thăm dò; khảo sát, thiết kế quy hoạch ngành, quy hoạch
vùng lãnh thổ;
- Chi phí cho việc triển khai thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia
nhằm nâng cao sức khoẻ cộng đồng như: chương trình tiêm chủng mở rộng; chương
trình nước sạch nông thôn; chương trình phòng chống và thanh toán bệnh phong,
bệnh lao; chương trình sử dụng muối iốt,...;
- Chi phí cho việc thực hiện chương trình bảo vệ môi trường: chương trình phủ
xanh đất trống đồi núi trọc; chương trình trồng 5 triệu ha rừng; chưng trình bảo vệ
rừng đầu nguồn; chương trình bảo vệ động thực vật quý hiếm, Chi phí cho việc thực
hiện các chương trình phòng chống tệ nạn xã hội.
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình phổ cập giáo dục;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai, đào tạo và
bồi dưỡng nguồn nhân lực;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình kế hoạch hoá gia đình;
- Chi phí cho việc thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo
Việc đặt tên cho các chỉ tiêu một cách khoa học là điều cần thiết song việc
xác định chuẩn xác nội dung của từng chỉ tiêu lại là điều cần thiết hơn. Theo
chúng tôi vốn đầu tư để tăng TSCĐ và TSLĐ nên gọi là vốn đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư phát triển cộng với các loại vốn khác nên gọi là tổng vốn đầu tư -
hoặc tổng vốn đầu tư xã hội hoặc vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Việc xác định vốn đầu tư còn phụ thuộc vào phạm vi nghiên cứu. Trên giác
độ doanh nghiệp hoặc các đơn vị sản xuất kinh doanh thì các khoản đầu tư nào đó
của doanh nghiệp nhằm đem lại kết quả trong tương lai (lợi nhuận), chẳng hạn
như việc đầu tư vào mua sắm tài sản đã qua sử dụng; đầu tư vào bất động sản;

đầu tư vào cầm cố, thế chấp hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán thuộc về
vốn đầu tư nhưng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì nó lại không
thuộc về vốn đầu tư phát triển. Bởi vì, xét trên phạm vi toàn xã hội thì những hoạt
động này không làm tăng tổng vốn của quốc gia. Nó chỉ là sự chuyển dịch từ đơn
vị này sang đơn vị khác.
Tùy theo mục đích nghiên cứu, vốn ĐTPT có thể phân theo thành phần kinh
tế, ngành kinh tế, nguồn vốn, cấp quản lý và phân theo khoản mục đầu tư.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư phát triển
Vốn ĐTPT của một địa phương hay một quốc gia được hình thành từ
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hai nguồn: trong nước và nước ngoài. Trong đó, nguồn vốn trong nước giữ vai trò
quyết định. Vốn nước ngoài đóng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của
địa phương hay NKT của quốc gia. Trước thực trạng: tốc độ tăng trưởng chưa cao,
thu nhập bình quân đầu người thấp và nguồn tiếp kiệm so với GDP còn hạn hẹp mà
nhu cầu về vốn ĐTPT ngày càng tăng, việc nghiên cứu đầy đủ các nguồn vốn ĐTPT
sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng những giải pháp huy động sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn vốn cho ĐTPT.
1.2.2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Bao gồm vốn đầu tư thuộc sở hữu nhà nước và vốn đầu tư của khu
vực ngoài quốc doanh.
a.Nguồn vốn thuộc sở hữu nhà nước:
Nguồn vốn này bao gồm: vốn ĐTPT thuộc ngân sách nhà nước (NSNN), tín
dụng ĐTPT của nhà nước và vốn ĐTPT của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
-Vốn ĐTPT thuộc NSNN: là một trong những nguồn vốn quan trọng trong
chiến lược phát triển KTXH của mỗi địa phương và của quốc gia. NSNN được hình
thành từ các khoản như: thu thuế và lệ phí, phát hành trái phiếu chính phủ, cho thuê
hoặc nhượng bán tài sản quốc gia, thu lợi tức cổ phần, thu về hợp tác lao động và các
khoản thu khác. Trong đó khoản thu từ thuế chiếm tỷ trọng cao nhất. Nguồn vốn này

thường được sử dụng cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội( KTXH);
quốc phòng an ninh; hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước, nguồn vốn này còn được dùng để chi cho công tác lập và
thẩm định và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển KTXH vùng lãnh thổ;
quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nước ta không
ngừng gia tăng nên chi cho ĐTPT từ ngân sách cũng tăng lên đáng kể. Trong giai
đoạn 2001-2005 chi NSNN cho ĐTPT của cả nước là 274,4 nghìn tỷ đồng chiếm
khoảng 28% tổng chi NSNN.
- Tín dụng ĐTPT: đây là nguồn vốn có tác dụng tích cực trong quá
trình xóa bỏ bao cấp thực tiếp về vốn của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị
sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tác hoàn trả cả gốc lẫn lãi vay. Do đó,
chủ đầu tư phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, tìm các phương án sử dụng vốn một cách
hiệu quả nhất. Tín dụng ĐTPT của nhà nước còn được xem như công cụ quản lý và
điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư. Nhà nước khuyến khích
phát triển vùng, địa phương ngành và lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình.
Phạm Thị Dung Kinh tế phát triển 48B
14

×