Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.44 KB, 75 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
MỤC LỤC
CHƯƠNG II 29
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC HẢI DƯƠNG 29
CHƯƠNG III 59
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN
HẠN TẠI BIDV CHI NHÁNH BẮC HẢI DƯƠNG 59
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát trển Việt Nam
NHNN Ngân hàng nhà nước
NQH Nợ quá hạn
VNĐ Việt Nam đồng
KKH Không kỳ hạn
ĐT&PT Đầu tư và Phát triển
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NH Ngắn hạn
TDH Trung dài hạn
TCKT Tổ chức kinh tế
DPRR Dự phòng rủi ro
NHTW Ngân hàng trung ương
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
TDN Tổng dư nợ
DSCV Doanh số cho vay
TNV Tổng nguồn vốn


SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
BẢNG
CHƯƠNG II 29
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC HẢI DƯƠNG 29
CHƯƠNG III 59
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN
HẠN TẠI BIDV CHI NHÁNH BẮC HẢI DƯƠNG 59
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động cơ bản nhất và mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các
NHTM. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, NHTM và các cá nhân
,doanh nghiệp có quan hệ ngày càng chặt chẽ với nhau. Hệ thống NHTM cung
cấp một lượng vốn vô cùng lớn cho cá nhân và doanh nghiệp trong quá trình
hoạt động kinh doanh. Đồng thời thông qua hoạt động cho vay, NHTM đã đóng
góp một vai trò lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển bền vững và hiệu quả. Do vai trò quan trọng của hoạt động tín
dụng, nâng cao chất lượng tín dụng là yêu cầu nhất thiết đối với mọi NHTM,
đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của hệ thống trung
gian tài chính của Việt Nam hiện nay.
BIDV chi nhánh Bắc Hải Dương trong những năm qua đã không ngừng
mở rộng hoạt động cho vay và đã thu được những thành tựu đáng kể. Đóng trên
địa bàn Sao Đỏ , Chí Linh, Hải Dương – đây là nơi đang phát triển với khá
nhiều doanh nghiệp, công ty có tiềm năng phát triển, cùng với lượng dân cư có

tri thức,co nhu cầu vay vốn kinh doanh các ngành nghề. Đây là điều kiện thuận
lợi để BIDV chi nhánh Bắc Hải Dương mở rộng cho vay, nâng cao lợi nhuận.
Tuy nhiên trong quá trình cho vay ngắn hạn của chi nhánh còn gặp một số khó
khăn. Yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là phải tìm ra biện pháp khắc phục những hạn
chế đó để có thể mở rộng việc cho vay của mình. Do tầm quan trọng của vấn đề
và qua thực tế tìm hiểu, nghiên cứu trong thời gian thực tập tại BIDV chi nhánh
Bắc Hải Dương, đặc biệt là được sự giúp đỡ tận tình của Thầy – TS. Lương
Văn Hải , Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ ngân hàng BIDV chi nhánh Bắc
Hải Dương đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp: “ Giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh Bắc Hải Dương.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
1
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
NGẮN HẠN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển
của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự
phát triển của ngân hàng; đến lượt mình sự phát triển của ngân hàng trở thành
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trước thế kỷXV, người ta không thấy có cơ quan nào được xem như là một
ngân hàng thực sự; mãi đến nửa thế kỷ XVI ở Châu Âu mới ra đời ngân hàng
đầu tiên. Trong thời gian đó, ngân hàng phát triển với tốc độ rất chậm, hoạt động
ngân hàng rất hạn chế, chỉ bao gồm gửi và cho vay. Sau đó ngân hàng dần dần
từng bước phát triển, nhất là nửa sau thế kỷ XIX- song song với sự phát triển
kinh tế, thương mại.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng cũng được

cải thiện và nâng cao, chuyển hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay
cũng chưa có một khái niệm thống nhất nào về ngân hàng thương mại. Lý do là
có rất nhiều nhà kinh tế có những quan điểm khác nhau, đứng trên giác độ khác
nhau nên mỗi người lại có định nghĩa không giống nhau. Mặt khác , các ngân
hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng
thực hiện trong nền kinh tế. Cách tiếp cận thận trọng nhất có thể xem xét ngân
hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “ Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”. Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
2
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
12/12/1997 thì : “ Ngân hàng là loại tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo
tính chất hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình ngân hàng khác”.
1.1.2. Vai trò của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện rõ nét nhất qua vai trò và chức
năng của nó. Các chuyên gia kinh tế đã tượng trưng cho ngân hàng là trái tim
của nền kinh tế. Ngân hàng đã làm cho những nguồn vốn nhàn rỗi được khơi
thông, đưa tiền từ người thừa tiền đến người cần tiền, từ nơi thừa đến nơi thiếu
giúp cho xã hội lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả hơn. NHTM trong nền
kinh tế có vai trò và chức năng như sau:
1.1.2.1.Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với các nhân và tổ chức trong

nền kinh tế. Nhóm một là các các nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức
là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn. Nhóm hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi
tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa,
dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại giữa cá nhân và tổ chức là hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều
này tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả 2 cùng
có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa
hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng
lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu
không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Những chủ thể tạm thời thừa vốn sẽ là những người cho vay đầu tiên và
ngược lại là những chủ thể thiếu vốn cũng sẽ là người đi vay cuối cùng của hệ
thống tài chính. Trong nền kinh tế có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu vốn
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
3
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
vào các thời điểm khác nhau gây hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời. Ngân
hàng là tổ chức trung gian có vai trò huy động và tập trung các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho
vay, đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng,… đảm bảo sự vận
động liên tục của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy trung
gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích
tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư ( tăng thu nhập cho
người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho
vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.
Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa
mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa khiến cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng

thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đồng đều thông tin và năng lực phân tích
thông tin gọi là tình trạng “ thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả
của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên
môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn
những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
1.1.2.2.Tạo phương tiện thanh toán( tiền).
Ngoài chức năng trung gian tài chính, NHTM còn có chức năng tạo tiền,tức
là tạo ra khối lượng tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển kinh
tế. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm: tiền
giấy, tiền kim loại, tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng.
Tiền- vàng có một vai trò quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân
hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng tạo phương tiện thanh toán
khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành
với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều
người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán
thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
4
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu
thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền
quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành(in)
tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là Ngân hàng trung ương
(NHTW). Từ đó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận
thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để
có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại
lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ
hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các ngân hàng,

thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng
việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì
sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng khác tại ngân hàng khác từ đó tạo ra
các khoản cho vay mới. Trong khi một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay
lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền
gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra
chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ
vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không
phải là tiền gửi thanh toán…
1.1.2.3.Trung gian thanh toán
Bên cạnh vai trò trung gian tài chính và tạo phương tiện thanh toán, các
ngân hàng thương mại còn thực hiện một chức năng quan trọng khác nữa là
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
5
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
trung gian thanh toán giữa các cá nhân, tổ chức hoặc đơn vị kinh tế trong xã hội.
Việc làm trung gian thanh toán của NHTM đã phát triển đến tầm mức đa dạng
và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy ngân hàng là trung tâm thanh
toán lớn nhất hiện nay. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán
giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện
và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán
như thanh toán bằng Séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua NHTW

hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng
đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ được mở rộng. Vì vậy, công
nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách
áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia
mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế
được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán quan ngân hàng, biến ngân
hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực
cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM.
Theo luật các tổ chức tín dụng, các hoạt động của NHTM bao gồm:
- Hoạt động huy động vốn;
- Hoạt động cấp tín dụng;
- Hoạt động dịch vụ thanh toán;
- Hoạt động ngân quỹ;
- Các hoạt động khác.
1.1.3.1.Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy
động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động
tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – hoạt động này đóng vai trò rất quan
trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng
thương mại đã tìm đủ mọi cách để huy động được tiền bởi nguồn tiền huy động
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
6
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
này là điều kiện cần thiết để có thể thực hiện các hoạt động sử dụng vốn cho
ngân hàng. Một trong những nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại
là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở
dịch vụ nhận tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Để gia tăng

nguồn tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất
lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy
động khác nhau.
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, các nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các
tổ chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN.
- Các hình thức huy động vốn theo quy định của NHNN.
1.1.3.2.Hoạt động cấp tín dụng.
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các
hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh,
cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN như bao
thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo
hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự phòng. Trong các hoạt động cấp tín
dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Với nguồn vốn huy động được, ngân hàng sử dụng vốn này vào nhiều mục
đích khác nhau nhằm mục đích sinh lời hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.
1.1.3.3.Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông
qua ngân hàng, NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước.
Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua NHNN, NHTM
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
7
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính
và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra chi nhánh

của ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và
ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
- Thưc hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
1.1.3.4.Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng
và cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể
thực hiện một số hoạt động khác bao gồm : góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị
trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản,
kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm,nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và
các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
1.2. Những vấn đề cơ bản về cho vay ngắn hạn của NHTM.
1.2.1. Khái niệm cho vay ngắn hạn của NHTM.
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay mà thời hạn của khoản vay nhỏ hơn
12 tháng.
1.2.2. Đặc điểm của cho vay ngắn hạn.
+ Vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kỳ sản xuất kinh doanh của
khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm thời
vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. việc cho
vay và thu nợ luôn diễn ra lúc bắt đầu và kết thúc của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Ngân hàng thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua
vật tư, nguyên vật liệu hoặc trang trải các chi phí sản xuất, mua hàng hóa. Khi

hàng hóa được tiêu thụ, khách hàng có doanh thu, cũng là lúc ngân hàng thu hồi
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
8
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
nợ. xuất phát từ đặc điểm này, các ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay
trên cơ sở chu kỳ sản xuất- kinh doanh của người vay. Do vậy, thời gian thu hồi
vốn trong cho vay ngắn hạn nhanh.
+ Thời hạn thu hồi vốn nhanh nên rủi ro của khoản vay ngắn hạn thấp hơn
các khoản vay trung và dài hạn, mức lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn mức lãi
suất cho vay trung và dài hạn.
+ Hình thức cho vay phong phú: ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng
các phương thức vay ngắn hạn như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức,
cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển… điều này vừa để đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng phân tán rủi ro, tránh rủi ro phi
hệ thống.
+ Cho vay ngắn hạn là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Điều này xuất
phát từ các lý do: hoạt động nhận tiền gửi ngắn hạn là hoạt động huy động vốn
chủ yếu của NHTM, thêm vào đó là các quy định của NHTW về tỷ lệ vốn tối đa
của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn. cho nên, với
sự phù hợp về lãi suất, thời hạn và các quy định của NHTW, hoạt động cho vay
ngắn hạn là một trong các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.2.3. Vai trò của cho vay ngắn hạn.
1.2.3.1.Cho vay ngắn hạn bổ sung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một trong
những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi sau đó cho ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho
vay của mình ngân hàng đã đảm bảo cho các doanh nghiệp nói chung, doanh
nghiệp nhà nước nói riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh doanh mà còn tái sản
xuất mở rộng.

Đối với các doanh nghiệp hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn
nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các
doanh nghiệp là phổ biến và nghiêm trọng. Cho vay ngắn hạn là hình thức tốt
nhất để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động hoặc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi của các doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. Cho vay ngắn hạn không chỉ
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
9
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
là nguồn vốn bổ sung mà trở thành nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cho vay ngắn hạn giúp cho các
doanh nghiệp không bỏ lỡ thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
liên tục, quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong toàn xã hội.
Mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường để thực
hiện được các khoản đầu tư. Doanh nghiệp không chỉ cần vốn lưu động tạm thời
mà còn phải có một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Quy mô vốn đầu tư
cho các yêu cầu trên đôi khi vượt quá khả năng vốn của doanh nghiệp. Cho vay
ngắn hạn có thể giúp cho các doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu vốn phục vụ cho
các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đó.
1.2.3.2. Cho vay ngắn hạn giúp các doanh nghiệp tăng cường quản lý và
sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả.
Bản chất của cho vay ngắn hạn không phải là hình thức cung ứng vốn mà là
hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn quy định. Do đó, các doanh nghiệp sau
khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ
mà còn phải tìm ra biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh
vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì
doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và lãi.
Về phía ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Vì vậy, trước khi cho

doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thường phải xem xét đánh giá rất kỹ lưỡng
phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngân hàng chỉ cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp có phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ
ngân hàng. Ngoài ra , doanh nghiệp muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải
hoàn thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh
có hiệu quả. Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân
hàng sẽ thực hiện quy trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
10
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của
doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng những điều khoản
như đã thỏa thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu
quả cao nhất. Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn chặt với
quyền lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sang hợp tác với doanh nghiệp
để tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho doanh nghiệp về
các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp donah nghiệp tiến hành sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
1.2.3.3.Cho vay ngắn hạn tác động tích cực đến nhịp độ phát triển, thúc
đẩy cạnh tranh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu
cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện, không những
thoả mãn về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá
mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Hoạt động của
các nhà doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo qui định chung
của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh. Để có thể đáp ứng
tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao
chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch

toán kế toán, mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền
công nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới, mở rộng qui mô sản xuất một cách
thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều
khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này,
doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư
của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối doanh
nghiệp với thị trường, nguồn vốn tín dụng ngắn hạn cấp cho các doanh nghiệp
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình
sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, theo kịp với
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
11
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc
trong cạnh tranh.
1.2.4. Các hình thức cho vay ngắn hạn của NHTM.
1.2.4.1.Cho vay thấu chi.
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và trong
một khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi, trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập ủy
nhiệm chi, mua thẻ, vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng
phải trả:
Số lãi phải trả = lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán
ngân quỹ song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện

thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: nhanh, chủ động, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có bảo đảm, có thể cấp cho doanh nghiệp trong vài ngày trong
tháng hoặc vài tháng trong năm để chi các khoản phải trả, mua hàng dự trữ,…
hình thức này thường chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao,
thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
a. Đặc điểm của loại hình cho vay thấu chi là
+ giữa ngân hàng và khách hàng thỏa thuận một hạn mức tín dụng để
khách hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời gian
nhất định.
+ Khách hàng sử dụng vốn bằng phát hành Séc hoặc đăng ký tiền gửi trên
tài khoản vãng lai.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
12
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
+ Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức thấu chi.
+ Hạn mức thấu chi mà ngân hàng và khách hàng thỏa thuận, chỉ khi khách
hàng có số dư nợ trên tài khoản khách hàng mới sử dụng.
+ Lãi khách hàng phải trả tính trên số dư nợ, số dư nợ thường xuyên biến
động.
b. Ưu điểm của cho vay thấu chi:
+ Khách hàng chủ động, thuận lợi, dễ dàng cân đối ngân quỹ tránh đi vay
nhiều lần phức tạp.
+ Đáp ứng được nhu cầu của khách hàng muốn quản lý vốn một cách có
hiệu quả.
c. Nhược điểm của cho vay thấu chi:
+ Rủi ro do không rõ mục đích vay vốn của khách hàng dẫn đến khó kiểm
soát. Thường áp dụng với khách hàng quen, tín nhiệm.
+ Ngân hàng luôn phải dự trữ một lượng vốn nhất định, chỉ được tính lãi
trên cơ sở dư nợ của tài khoản đó.

1.2.4.2.Cho vay trực tiếp từng lần.
Đặc điểm của thức cho vay từng lần là mỗi lần khách hàng vay món vay
nào thì phải làm hồ sơ vay món đó. Do vậy, đôi khi phương thức cho vay này
còn được gọi là cho vay theo món. Như vậy, nếu một khách hàng có bao nhiêu
món vay thì phải làm bấy nhiêu bộ hồ sơ xin vay. Bộ phận tín dụng tiến hành
phân tích hồ sơ xin vay và xem xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ thể. Cách thức
phát tiền vay , thu nợ và thu lãi được thực hiện như sau:
a. Phát tiền vay.
Dựa vào hợp đồng tín dụng, ngân hàng phát dần tiền vay theo yêu cầu của
khách hàng. Quá trình phát tiền vay còn được gọi là giải ngân. Về mặt hạch
toán, khi giải ngân, khoản tiền vay được chuyển trả thẳng cho nhà cung cấp hoặc
ghi Có vào tài khoản tiền gửi của khách hàng nếu khách hàng có yêu cầu chính
đáng và ghi Nợ số tiền vay vào tài khoản cho vay của ngân hàng.
b. Thu nợ và lãi.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
13
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Theo phương thức cho vay từng lần, nợ gốc và lãi thu cùng một thời điểm.
Khi đến ngày trả nợ ghi trên hợp đồng tín dụng, khách hàng phải chủ động lập
giấy trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ trích tiền gửi của khách hàng để thu nợ
bằng cách ghi Nợ vào tài khoản tiền gửi của khách hàng và ghi Có vào tài khoản
cho vay của ngân hàng.
Ngân hàng thu lãi vay bằng cách ghi Nợ vào tài khoản tiền gửi của khách
hàng và ghi Có vào tài khoản thu nhập của ngân hàng. Trong trường hợp tài
khoản tiền gửi của khách hàng không đủ số dư để ngân hàng có thể thu nợ và lãi
vay, ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ cho khách hàng. Nếu khách hàng
không được gia hạn nợ, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ gốc và lãi sang nợ quá
hạn và áp dụng hình thức chế tài bằng lãi suất nợ quá hạn để thúc giục khách
hàng trả nợ.
c. Phạm vi áp dụng.

Cho vay từng lần theo món được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Khách hàng vay không thường xuyên.
+ Khách hàng vay thường xuyên nhưng chưa được ngân hàng tín nhiệm
cho áp dụng hạn mức tín dụng.
+ Thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo.
Nhìn chung cho vay từng lần theo món có những ưu điểm sau: ngân hàng
có thể chủ động sử dụng vốn và thu lãi nhiều đối với từng khoản vay, nhưng
nhược điểm của nó là thủ tục vay phức tạp, tốn chi phí, thời gian, khách hàng
không chủ động được nguồn vốn, hiệu quả sử dụng vốn vay không cao do có thể
phát sinh, vào một thời điểm nào đó, khách hàng vừa có số nợ trên tài khoản cho
vay vừa có số dư có trên tài khoản tiền gửi.
1.2.4.3.Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Đặc điểm cơ bản của cho vay theo hạn mức tín dụng là khách hàng chỉ cần
lập một bộ hồ sơ vay vào đầu kỳ kế hoạch có thể sử dụng cho nhiều món vay.
Cụ thể, khách hàng lập hồ sơ vay vốn một lần vào đầu quý, dù khách hàng có
nhiều món vay nhưng cũng chỉ cần một bộ hồ sơ duy nhất. Ngân hàng tiến hành
phân tích tín dụng và nếu đồng ý cho vay, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng tín
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
14
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
dụng, trong hợp đồng tín dụng ngân hàng sẽ xác định hạn mức tín dụng cho
khách hàng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một thời hạn
nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Khác với loại vay từng lần, ngân hàng không xác định kỳ hạn nợ cho từng
món vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín dụng có nghĩa là vào một thời điểm
nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép, thì khi đó
ngân hàng sẽ không phát tiền vay cho khách hàng.
Đối với phương thức cho vay này, một hợp đồng tín dụng được sử dụng
cho cả quý. Đến cuối quý hợp đồng tín dụng sẽ được thanh lý và sang đầu quý

sau, khách hàng muốn vay phải nộp một bộ hồ sơ vay vốn mới.
a. Phát tiền vay.
Ngân hàng sẽ căn cứ vào bảng kê chứng từ xin vay của khách hàng để giải
ngân bằng cách ghi Nợ vào tài khoản cho vay luân chuyển và trả thẳng cho nhà cung
cấp hoặc ghi Có vào tài khoản tiền gửi theo yêu cầu hợp pháp của khách hàng
b. Thu nợ và thu lãi.
Việc thu nợ theo tài khoản cho vay luân chuyển, nghĩa là toàn bộ tiền thu
bán hàng, tiền thu dịch vụ của khách hàng được dùng ưu tiên để trả nợ vay, ngân
hàng ghi Có vào tài khoản cho vay luân chuyển và dư nợ của khách hàng sẽ
giảm nếu tài khoản cho vay luân chuyển có số dư nợ bằng không tức là khách
hàng đã trả hết nợ ngân hàng. Khi đó nếu có tiền thu bán hàng, dịch vụ thì ngân
hàng sẽ chuyển vào bên Có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Cuối mỗi tháng ngân hàng sẽ tính lãi theo phương pháp tích số . Nếu hạn
mức tín dụng vẫn còn ngân hàng sẽ thu lãi bằng cách ghi Nợ tài khoản cho vay
luân chuyển. Nếu hạn mức tín dụng đã hết thì ngân hàng sẽ trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của khách hàng để thu lãi.
c. Phạm vi áp dụng.
Áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và được ngân
hàng tín nhiệm. Thường khi cho vay loại này, ngân hàng không yêu cầu đảm
bảo tín dụng.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
15
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Nhìn chung cho vay theo hạn mức tín dung có những ưu điểm sau:
+ Thủ tục đơn giản.
+ Khách hàng chủ động được nguồn vốn vay.
+ Lãi vay trả cho ngân hàng thấp.
Tuy nhiên loại cho vay này có nhược điểm: Ngân hàng dễ bị đọng vốn kinh
doanh, thu nhập lãi cho vay thấp.
1.3. Hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn.

1.3.1. Khái niệm hiệu quả cho vay ngắn hạn.
Trong quan hệ cho vay, những chủ thể tham gia phải gồm hai bên: một bên
là bản than ngân hàng- phía cấp vốn, bên còn lại là khách hàng- phía có nhu cầu
vay vốn. ngoài ra có thể có một số chủ thể tham gia khác như: bên bảo lãnh vay
vốn ngân hàng, các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên đứng trên giác độ ngân
hàng thương mại thì hiệu quả cho vay chỉ được xem xét dưới các chỉ tiêu về
mức độ an toàn và khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Hiệu quả cho vay được hiểu là khả năng đáp ứng một cách phù hợp nhất nhu
cầu về vốn của khách hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn và sinh lời cho ngân hàng.
Như vậy, một hoạt động cho vay được coi là có hiệu quả khi nó đáp ứng
được các tiêu chí trên.
Hiệu quả cho vay là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng. có thể sử
dụng một số công thức và chỉ số để cụ thể hóa hiệu quả cho vay, tuy nhiên đối
với những mặt không thể lượng hóa được thì sẽ sử dụng các chỉ tiêu định tính.
Do giới hạn của đề tài chỉ tập trung vào phía ngân hàng nên khái niệm hiệu
quả cho vay được hiểu từ cài nhìn của ngân hàng và được cụ thể bằng các chỉ
tiêu định tính và định lượng chính.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay ngắn hạn của NHTM.
1.3.2.1.Các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn.
a. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ.
Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng, đồng thời phản
ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu
hồi nợ của ngân hàng đối với khoản vay.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
16
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro
tín dụng tại ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng

kém và ngược lại.
b. Vòng quay vốn tín dụng (vòng)
Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ / Dư nợ bình quân
Dư nợ bình quân = ( dư nợ đầu kỳ + dư nợ cuối kỳ) /2
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng, thời
gian thu hồi nợ của ngân hàng là nhanh hay chậm. Vòng quay vốn càng nhanh
thì được coi là tốt và việc đầu tư càng được an toàn.
c. Tỷ lệ dư nợ /Tổng nguồn vốn(%).
Dựa vào chỉ tiêu này, so sánh qua các năm để đánh giá mức độ tập trung vốn
tín dụng của Ngân hàng, đánh khả năng sử dụng vốn cho vay của ngân hàng.
Chỉ tiêu càng cao thì khả năng sử dụng vốn càng cao, ngược lại càng thấp
thì ngân hàng đang bị trì trệ vốn, sử dụng vốn bị lãng phí, có thể gây ảnh hưởng
đến doanh thu cũng như tỷ lệ thu lãi của ngân hàng.
d. Tỷ lệ dư nợ / Vốn huy động (%).
Chỉ tiêu này phản ánh ngân hàng cho vay được bao nhiêu so với nguồn vốn
huy động, nó còn nói lên hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng, thể
hiện ngân hàng đã chủ động trong việc tích cực tạo lợi nhuận từ nguồn vốn huy
động hay chưa.
Chỉ tiêu này lớn thể hiện khả năng tranh thủ vốn huy động, nếu chỉ tiêu này
lớn hơn 1 thì ngân hàng chưa thực hiện tốt việc huy động vốn, vốn huy động
tham gia vào cho vay ít., khả năng huy động vốn của ngân hàng chưa tốt, nếu
chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì ngân hàng chưa sử dụng hiệu quả toàn bộ nguồn vốn
huy động, gây lãng phí.
e. Hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ = Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của ngân hàng.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
17
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì

ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn.
Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
f. Tỷ lệ thu nợ đến hạn
Tỷ lệ thu nợ đến hạn= doanh số thu nợ đến hạn / tổng dư nợ đến hạn
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của ngân hàng.
Nó đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, đánh giá khả năng thu hồi nợ của
các khoản tín dụng đã cho vay,đồng thời đánh giá hiệu quả việc thực hiện kế hoạch
tín dụng của ngân hàng, kế hoạch cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hang.
Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
1.3.2.2.Các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu = Tổng nợ xấu / Tổng dư nợ.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của ngân hàng nhà
nước, các khoản dư nợ tín dụng khách hàng của ngân hàng được phân loại từ
nhóm 1 đến nhóm 5, tương ứng với các loại Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1), Nợ cần
chú ý (Nhóm 2), Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3), Nợ nghi ngờ( Nhóm 4), Nợ có
khả năng mất vốn ( Nhóm 5). Các khoản nợ phân loại từ nhóm 3 đến nhóm 5
được xem là nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân
hàng, bao nhiêu đồnh đang được phân loại vào nợ xấu trong 100 đồng chovay.
Tỷ lệ này cao so với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là
dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng
các khoản cho vay.
Ngược lại, tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng khoản
vay được cải thiện. Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ
xấu hay thay đổi các phân loại nợ.
1.3.2.3.Các chỉ tiêu sinh lời từ hoạt động cho vay.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
18
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Các chỉ tiêu quan trọng nhất đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng

được sử dụng hiện nay gồm: tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ thu
nhập trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM),
1.3.2.4.Các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn.
Dư nợ năm nay- dư nợ năm trước
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ = x 100
Dư nợ năm trước
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ cho vay qua các năm để
đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động của ngân hàng càng ổn định và
có hiệu quả, ngược lại ngân hàng đang gặp khó khăn, nhất là trong việc tìm kiếm
khách hàng và thể hiện việc thực hiện kế hoạch tín dụng chưa hiệu quả.
DSCV năm nay – DSCV năm trước
Tỷ lệ tăng trưởng DSCV = x100
DSCV năm trước
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng tín dụng qua các năm để đánh
giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch tín dụng của ngân hàng. ( tương tự chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ, nhưng bao
gồm toàn bộ dư nợ cho vay trong năm đến thời điểm hiện tại và dư nợ cho vay
trong năm đã thu hồi).
Chỉ tiêu càng cao thì mức độ hoạt động của NH càng ổn định và có hiệu
quả, ngược lại NH đang gặp khó khăn, nhất là trong tìm kiếm khách hàng, thê
hiện việc thực hiện kế hoạch tín dụng chưa hiệu quả.
1.3.2.5.Các chỉ tiêu trích lập dự phòng và bù đắp rủi ro cho vay.
Dự phòng cho vay ngắn hạn
Tỷ lệ trích lập dự phòng(%) = x 100
Tổng dư nợ
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
19
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội

Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của ngân hàng
nhà nước, các khoản nợ được phân loại từ Nhóm 1 đến Nhóm 5 có mức trích lập
dự phòng cụ thể từ 0% đến 100% của Giá trị khoản nợ trừ đi(- )giá trị khấu trừ
của TSĐB.
Ngoài ra các ngân hàng được yêu cầu trích dự phòng chung ở mức 0.75%
tổng giá trị các khoản nợ ở nhóm 1 đến nhóm 4.
Kể từ năm 2010, các ngân hàng phải trích đủ số dự phòng chung này.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích dự phòng cụ thể và trong
các trường hợp khó khăn về tài chính khi chất lượng các khoản suy nợ giảm.
Chỉ số này cho biết bao nhiêu % dư nợ được trích lập dự phòng. Chỉ số này
càng cao cho thấy chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng đang tiêu cực và
khả năng thu hồi nợ thấp. Nếu chỉ số này thấp thì có thể phản ánh chất lượng cải
thiện của các khoản nợ, hoặc có thể do các khoản dự phòng chưa được trích lập
đủ theo quy định.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn của
NHTM.
Cho vay ngắn hạn là một trong các hoạt động quan trọng nhất của NHTM,
là hoạt động đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng, nó cũng đồng thời có các
tác động không nhỏ đến các mặt hoạt động khác của ngân hàng.
Bên cạnh đó, hoạt động cho vay ngắn hạn của NHTM không chỉ có ảnh
hưởng đến bản than ngân hàng, mà còn có ảnh hưởng đến nhiều chủ thể khác
của nền kinh tế. giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của cá nhân,
doanh nghiệp được diễn ra liền mạch, không bị đứt quãng. Như vậy hoạt động
cho vay ngắn hạn của NHTM có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. việc
nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn không chỉ giúp ngân hàng kinh doanh có
lãi, đảm bảo an toàn mà còn đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế, giúp cho
nền kinh tế phát triển thuận lợi.
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
20

Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Ngoài ra thông qua việc nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn của ngân
hàng, sẽ giúp ngân hàng tồn tại một cách bền vững, củng cố mối quan hệ với các
đối tác và tăng năng lực cạnh tranh. Đối với nền kinh tế,việc nâng cao hiệu quả
cho vay ngắn hạn của ngân hàng sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền
kinh tế, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Như vậy , việc nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn là cần thiết khách quan,
trước hết vì sự tồn tại và phát triển của NHTM, đồng thời vì sự phát triển của
kinh tế.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay ngắn hạn của
NHTM.
Hoạt động cho vay ngắn hạn diễn ra giữa hai chủ thể là NHTM và khách
hàng. Bên cạnh đó hoạt động cho vay nằm trong môi trường được điều tiết bởi
pháp luật, các chính sách kinh tế vĩ mô là những điều kiện của nền kinh tế. do
vậy để có được một khoản vay có hiệu quả cao thì cần phải có các điều kiện
thuận lợi từ các bên có liên quan.
1.3.4.1.Các nhân tố từ phía Ngân hàng.
+ Khả năng thẩm định cho vay:
Trong quy trình tín dụng của các ngân hàng, thẩm định cho vay là khâu đầu
tiên và quan trọng. Thẩm định là việc đánh giá, thẩm tra, dự đoán về độ chính
xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Kết quả của quá trình thẩm
định sẽ dùng để xem có thực hiện món vay hay không. Mặc dù không thể tránh
được tất cả các sai sót, nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi đủ
cả vốn và lãi một cách đầy đủ, đúng hạn. quá trình thẩm định không chỉ đòi hỏi
việc tuân hủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin mà còn yêu cầu trình độ
chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt của cán bộ. Đối với cho vay ngắn hạn, do
tính đặc thù là thường xuyên, kịp thời nên khâu thẩm định cũng đòi hỏi phải
nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đồng thời phải đảm bảo
chính xác và an toàn.
+ Chính sách tín dụng:

SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
21
Khoá luận tốt nghiệp Viện ĐH Mở Hà Nội
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các văn bản nhằm pahnr
ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, nhằm hướng dẫn chung cho cán bộ tín
dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín
dụng, tại ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro
và nâng cao khả năng sinh lời.
Một chính sách tín dụng phù hợp giúp cho hoạt động cho vay của ngân
hàng giảm thiểu được rủi ro, nâng cao chất lượng và do đó hiệu quả của các món
vay được nâng cao; ngược lại một chính sách tín dụng thiếu chính xác và hợp lý
có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng thua lỗ hay nặng hơn là phá sản.
Một chính sách tín dụng được đánh giá là hoàn thiện nếu nó được xây dựng
phù hợp với mục tiêu tổng thể của ngân hàng tỏng từng thời kỳ, thực hiện được
vai trò định hướng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng, đáp ứng được nhu cầu
vốn cho nền kinh tế.
+ Trình độ cán bộ ngân hàng:
Trong hoạt động kinh doanh của NHTM nói riêng cũng như tất cả các
ngành và lĩnh vực khác của nền kinh tế, con người luôn đóng vai trò quan trọng
nhất. chính vì thế để nâng cao hiệu quả cho vay ngắn hạn, cần phải lấy yếu tố
con người là trung tâm. Trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển, các ngành
và lĩnh vực do đó sẽ ngày càng phức tập và yếu tố chất xám ngày càng tăng.
Thêm vào đó, ngành ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt của nền kinh tế,
nơi mà các công nghệ hiện đại nhất được sử dụng cùng với tính phức tập và tinh
vi trong việc sử lý các nghiệp vụ luôn đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có đủ
trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Trình độ cán bộ tín dụng
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động cho vay, trước hết là trong công
tác thẩm định, phân tích tín dụng, quản lý tín dụng. Mặt khác, khách hàng của
ngân hàng ngày càng phong phú, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do
đó, cán bộ tín dụng cũng phải có trình độ, hiểu biết nhiều lĩnh vực để có thể

đánh giá được khách hàng và phương án kinh doanh.
+ Thông tin tín dụng:
Vấn đề thông tin là một vấn đề nhạy cảm và có tính quyết định đến thành
công hay thất bại của công việc kinh doanh. Điều đó ngày càng được chứng
SV: Lưu Thị Tân Lớp: K2NH3
22

×