Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Giải pháp tăng cường bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sông Cầu – Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.04 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
&
ư
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài: Giải pháp tăng cường bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn Sông Cầu – Thái Nguyên
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Phan Thị Hạnh
Sinh viên thực hiện: Nông Văn Tâm
Lớp: Tài chính – Ngân hàng; Khoá: 40

Thái Nguyên Tháng 5/2011
1
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTM Ngân hàng thương mại
CBTD Cán bộ tín dụng
DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
HTX Hợp tác xã
KH Kì hạn
KKH Không kì hạn
TCKT Tổ chức kinh tế
TCTD Tổ chức tín dụng
TG Tiền gửi
TPKT Thành phần kinh tế
TSBL Tài sản bảo lãnh
TSBĐ Tài sản bảo đảm
TSCC Tài sản cẩm cố
TSTC Tài sản thế chấp


UBND Ủy ban nhân dân
VHĐ Vốn huy động
BĐTD Bảo đảm tín dụng
BĐTV Bảo đảm tiền vay
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận luôn luôn
là cái đích của các doanh nghiệp, nó chi phối đến mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Minh chứng cho nhận định trên là một ngành kinh doanh trên lĩnh vực rất nhạy
cảm: “Lĩnh vực tiền tệ” và đại diện cho ngành kinh doanh ấy là ngành Ngân hàng.
Hoạt động của ngành Ngân hàng được coi là mạch máu của nền kinh tế, do đó đảm
bảo cho quá trình luân chuyển vốn giữa các thành phần kinh tế được diễn ra trôi
chảy, thuận lợi hơn. Sự lành mạnh của hoạt động Ngân hàng là cơ sở để ổn định
tình hình kinh tế chính trị và cũng là điều kiện để khai thác tốt những tài nguyên,
tiềm lực của nguồn kinh tế.
Ngân hàng thương mại ( NHTM ) là tổ chức tín dụng được thành lập theo
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh
doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi,sử dụng tiền gửi
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trong các nghiệp vụ kinh doanh
ngân hàng thì tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho Ngân hàng
nhưng mặt trái của nó cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro đối với bản thân Ngân hàng, đó
chính là rủi ro tín dụng. Đặc biệt, rủi ro của Ngân hàng dễ dẫn đến rủi ro hệ thống
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó, để hạn chế
những rủi ro thì các Ngân hàng đã tiến hành áp dụng hàng loạt các biện pháp đảm
bảo nghiã vụ trả nợ của khách hàng. Một trong những biện pháp quan trọng nhất
đó là bảo đảm tín dụng. Lấy tài sản bảo đảm là một trong những căn cứ quan trọng
để Ngân hàng xác định hạn mức cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng coi " Bảo
đảm tín dụng" là nguồn trả nợ thứ hai sau nguồn trả nợ từ "thu nhập từ hoạt động
kinh doanh của khách hàng".

Cùng với sự gia nhập của tổ chức thương mại thế giới, thị trường tiền tệ Việt
Nam cũng đón nhận sự gia nhập của nhiều tổ chức tín dụng quốc tế, đặc biệt là chi
nhánh, phòng giao dịch của các Ngân hàng lớn trên thế giới.
Điều này đặt ra nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức cho Ngân hàng Việt
Nam. Dưới áp lực cạnh tranh, các Ngân hàng thương mại Việt Nam thường coi lãi
suất là công cụ cạnh tranh đắc lực và tương đối hiệu quả. Bên cạnh đó, một số
3
Ngân hàng đã bắt đầu nới lỏng các điều kiện cho vay nhằm thu hút các khách hàng
mới. Một trong những điều kiện đó là điều kiện về tài sản bảo đảm. Hiện nay đã có
những Ngân hàng cho vay không cần tài sản bảo đảm đối với một số đối tượng
khách hàng cụ thể. Hình thức cho vay không cần đảm bảo bằng tài sản thu hút được
một số lượng khách hàng đáng kể, song nó cũng đem đến cho Ngân hàng những rủi
ro tiềm ẩn. Vì vậy, điều minh chứng rõ nhất là khi uy tín của khách hàng giảm sút
thì tài sản bảo đảm là căn cứ duy nhất đảm bảo việc thu hồi lại nguồn gốc cho Ngân
hàng. Cho nên, tài sản bảo đảm có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định về tài sản bảo
đảm còn nhiều khó khăn, không những từ phía khách hàng, Ngân hàng mà cả từ
phía Chính phủ và các bộ ngành có liên quan. Xuất phát từ tình hình thực tế của thị
trường tiền tệ Việt Nam và cụ thể là tại NHNo&PTNT Sông Cầu, tỉnh Thái
Nguyên. Trên cơ sở các vấn đề lý thuyết về bảo đảm tín dụng, cùng với các kiến
thức do thầy cô truyền thụ trên lớp và thêm nữa là sự quan tâm giúp đỡ của ban
lãnh đạo và cán bộ nhân viên của NHNo & PTNT Sông Cầu, tỉnh Thái Nguyên, em
đã chọn đề tài “Giải pháp tăng cường bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Sông Cầu – Thái Nguyên” để làm chuyên đề báo
cáo thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài trình bày hai nội dung chính sau:
- Thực trạng bảo đảm tín dụng tại NHNo&PTNT Sông Cầu.
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của công
tác bảo đảm tín dụng tại NHNo&PTNT Sông Cầu.

3. Phương pháp sử dụng.
Đề tài sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
4. Kết cấu của đề tài.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, báo cáo gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo đảm tín dụng trong hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng thương mại.
4
Chương II: Thực trạng bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Sông Cầu, tỉnh Thái Nguyên.
Chương III: Giải pháp tăng cường bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Sông Cầu tỉnh Thái Nguyên.
5
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1- Sự cần thiết thực hiện bảo đảm tín dụng tại các NHTM:
1.1.1- Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ tín dụng mà nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền gửi này
để cho vay và thực hiện các dịch vụ khác của Ngân hàng.
1.1.2- Khái niệm Bảo đảm tín dụng:
Bảo đảm tín dụng là việc thiết lập các cơ sở kinh tế và pháp lý, tạo điều kiện
cho Ngân hàng thỏa mãn nhu cầu thu hồi tín dụng đã cấp trong trường hợp người
vay không thực hiện trả nợ theo quy định.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, “cấp tín dụng là việc tổ chức tín
dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khỏan tiền với nguyên tắc hoàn trả

bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ khác”. Như vậy có thể thấy hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng
nhất khi thực hiện mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng. Để thu hồi được nợ, Ngân
hàng phải xem xét một cách thận trọng uy tín và năng lực của Khách hàng để xác
định các hình thức cho vay thích hợp. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, rủi
ro tín dụng là rủi ro dễ dẫn đến tổn thất lớn nhất cho Ngân hàng. Quan trọng hơn
nữa, rủi ro của một Ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro toàn hệ thống, điều này tác
động rất xấu đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải thực hiện các biện pháp
bảo đảm tín dụng nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đi vay.
Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi
của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền sở hữu của
người đi vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba.
6
Tóm lại, bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao dịch mà có khả
năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy nhiên, nhìn từ góc
độ của người cho vay, tài sản bảo đảm phải có 3 đặc trưng sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm.
- Tài sản phải có sẵn trên thị trường tiêu thụ.
- Có đầy đủ cơ sở pháp lý để cho người vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản.
1.1.3- Sự cần thiết thực hiện đảm bảo tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại:
* Đối với Ngân hàng:
- Bảo đảm tín dụng giúp cho Ngân hàng bảo đảm an toàn trong cấp tín
dụng.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính không cho vay tiền của bản
thân mình mà Ngân hàng huy động vốn từ khách hàng để cấp tín dụng nên trách
nhiệm hàng đầu là bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Mặc dù phần lớn các Ngân
hàng đều dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra nhưng những rủi ro này vẫn phải
được kiểm soát chặt chẽ để bảo vệ số tiền mà Ngân hàng đã huy động được. Tài
sản bảo đảm góp phần kiểm soát hạn chế của các rủi ro trên.
Thực chất, bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm

nguồn trả nợ thứ hai. Trong cho vay kinh doanh, nguồn trả nợ thứ nhất là từ doanh
thu thực tế đối với vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung
dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất là thu nhập cá nhân như
tiền công, tiền lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức) và
các khoản thu nhập khác. Các nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức
lưu chuyển tiền tệ của người đi vay. Trong hoạt động kinh doanh có muôn ngàn lý
do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu không có một
nguồn bổ sung thứ hai thì tất yếu Ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Vì vậy để bảovệ lợi ích
của mình Ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải có bảo đảm tín dụng, ngoại
trừ những khách hàng thật sự hoạt động tốt và có mối quan hệ tín dụng thường
xuyên với Ngân hàng.
7
- Bảo đảm tín dụng giúp Ngân hàng tạo lập quan hệ tín dụng với khách
hàng.
Khi quyết định cho vay Ngân hàng phải phân tích đánh giá khách hàng dưới
nhiều góc độ khác nhau, trong đó bảo đảm tín dụng được coi là một trong những
tiêu chuẩn xét duyệt cho vay và giới hạn cho vay đối với khách hàng.
Tuy nhiên, đây không phải là tiêu chuẩn mang tính bắt buộc khi cấp tín dụng
cho khách hàng, nó chỉ là một trong những điều kiện cấp vốn. TSBĐ giúp cho
khách hàng củng cố thêm lòng tin đối với Ngân hàng. Lòng tin là một trong những
đặc trưng quan trọng của hoạt động tín dụng, do vậy lòng tin chính là một trong
những căn cứ để Ngân hàng quyết định cho vay.
- Bảo đảm tín dụng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người vay vốn
trong việc quản lý và sử dụng tiền vay (Gắn trách nhiệm vật chất của người đi vay
trong quá trình sử dụng vốn)
Trong nền kinh tế, chủ thể kinh doanh (người vay vốn) khó có thể tránh hết
được các rủi ro. Do vậy, khi đem tài sản của mình ra làm bảo đảm cho khoản vay
họ sẽ có trách nhiệm hơn trong việc quản lý và sử dụng vốn vay, vì khi không trả
được khoản vay họ sẽ bị mất TSBĐ đó. TSBĐ thường có giá trị lớn hơn khoản vay.
Mặt khác, BĐTD giúp Ngân hàng giảm thiểu những rủi ro đạo đức có thể xảy ra.

Đây được coi là ý nghĩa quan trọng nhất của BĐTD.
- BĐTD là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng
cũng như phòng tránh những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh
doanh.
Nâng cao năng lực thẩm định của cán bộ nhân viên Ngân hàng khi thực hiện
bảo đảm tiền vay. Để phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để bảo đảm cho
nguồn trả nợ thứ hai có thể bù đắp được các tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra thì
việc định giá tài sản bảo đảm là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, việc định giá TSBĐ thường có ý nghĩa hơn trong trường hợp cho vay
đối với khách hàng tư nhân, ít uy tín hoặc những doanh nghiệp nhỏ mới thành lập,
làm ăn không ổn định. Đối với những doanh nghiệp lớn có chính sách quản lý hiệu
quả, có sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn
định và có tình hình tài chính tốt, lành mạnh, uy tín thanh toán nợ cũ thì đó là
những khách hàng tiềm năng. Trong trường hợp này, Ngân hàng sẵn sàng cho vay
8
không cần có TSBĐ hoặc TSBĐ có giá trị nhỏ hơn giá trị khỏan vay. Do vậy, cán
bộ tín dụng cần vận dụng bảo đảm tiền vay một cách linh hoạt trong từng điều kiện
cụ thể nhằm đảm bảo an toàn cho Ngân hàng đồng thời thu hút các khách hàng tốt.
* Đối với khách hàng:
- Người gửi tiền: Bảo đảm tín dụng cho người vay gửi tiền tăng thêm niềm
tin vào Ngân hàng, yên tâm hơn về khoản tiết kiệm của mình.
- Người vay vốn: Khách hàng vay vốn phải sử dụng tài sản của mình để bảo
đảm cho khoản vay, do đó họ sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý, sử dụng vốn
vay. Vì vậy, bảo đảm tín dụng là động lực thúc đẩy khách hàng vay vốn sử dụng
vốn vay có hiệu quả, đúng mục đích để có khả năng trả nợ và nhận lại tài sản của
mình.
* Đối với nền kinh tế: Bảo đảm tiền vay được thực hiện tốt sẽ có vai trò hạn
chế nợ quá hạn, nợ khó đòi, hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng là một tổ chức tín
dụng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Do vậy, bảo đảm tín dụng
góp phần giữ cho nền kinh tế hoạt động lành mạnh, hạn chế những tổn thất. Mặt

khác, BĐTD giúp cho Ngân hàng tăng thêm uy tín thu hút được người gửi tiền để
cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.2- Những nội dung cơ bản về bảo đảm tín dụng:
1.2.1- Các hình thức bảo đảm tín dụng:
Bộ luật dân sự năm 2005 xác định “Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự bao gồm: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín
chấp”. Tuy nhiên, hiện nay các Ngân hàng thương mại chủ yếu áp
dụng 2 hình đảm tín dụng cơ bản là bảo đảm đối vật (trong đó có 3 phương thức
chính là cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay vốn và bảo đảm bằng tài sản
hình thành từ vốn vay) và bảo đảm đối nhân (hay còn gọi là bảo lãnh).
1.2.1.1- Bảo đảm đối vật:
a) Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vốn vay:
* Khái niệm:
Theo Luật dân sự năm2005 - Điều 326, “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau
đây gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.”
9
* Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch cầm cố tài sản:
Bên cầm cố tài sản:
- Quyền của bên cầm cố tài sản (Theo điều 331 - Luật dân sự năm 2005)
1. Yêu cầu bên nhận cầm cố đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố trong
trường hợp quy định tại khỏan 3 điều 333 của Bộ luật này, nếu do sử dụng mà tài
sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;
2. Được bán tài sản cầm cố nếu được bên nhận cầm cố đồng ý;
3. Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thỏa thuận;
4. Yêu cầu bên nhận cầm cố giữ TSCC trả lại TSCC khi nghĩa vụ được bảo
đảm bằng cầm cố chấm dứt;
5. Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với TSCC.
- Nghĩa vụ của bên cầm cố tài sản (Theo điều 330 - Luật dân sự 2005).
1. Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thỏa thuận;

2. Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với TSCC (nếu
có) trong trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền hủy Hợp đồng
cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận
quyền của người thứ ba đối với TSCC;
3. Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo đảm, giữ gìn tài
sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Bên nhận cầm cố:
- Quyền của bên nhận cầm cố tài sản (Theo điều 333 - Luật dân sự 2005)
1. Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật TSCC trả lại tài sản đó;
2. Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo
quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ.
3. Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản cầm cố, nếu thỏa thuận;
4. Được thanh toán chi phí hợp lý bảo đảm tài sản cầm cố khi trả lại tài sản
cho bên cầm cố.
- Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố (Theo điều 332 - Luật dân sự)
1. Bảo đảm, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm cố
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố;
10
2. Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố;
không được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác;
3. Không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố
nếu không được bên cầm cố đồng ý;
4. Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt
hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;
* Những loại tài sản cầm cố thông dụng để đảm bảo tiền vay:
Cầm cố hàng hóa: Cho vay cầm cố hàng hóa là nghiệp vụ cho vay có bảo
đảm áp dụng phổ biến tại các NHTM hiện nay vì hình thức này có nhiều ưu thế hơn
bảo đảm bằng bất động sản:
- Khi khách hàng không thanh toán được nợ đúng hạn, Ngân hàng có thể bán được

hàng hóa một cách dễ dàng hơn so với bất động sản;
- Giúp cho các doanh nghiệp thực hiện dự trữ vật tư hàng hóa theo chu kỳ và
thời vụ nhằm ổn định sản xuất và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Để phát huy ưu thế trên đây Ngân hàng thường chấp nhận các hàng hóa có
đủ các điều kiện sau đây được dùng làm thế chấp để vay vốn:
+ Hàng hóa có giá cả ổn định.
+ Hàng hóa dễ tiêu thụ trong hiện tại và tương lai.
+ Hàng hóa được phép lưu thông và khách hàng được phép kinh doanh loại
hàng hóa đó.
Trên thực tế, hàng hóa cầm cố thông dụng bao gồm:
- Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất.
- Hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu.
- Thiết bị máy móc, xe cộ thông dụng.
Các Ngân hàng thường cầm cố các loại hàng hóa mới (chưa sử dụng) và chỉ
chấp nhận các loại hàng hóa đã sử dụng với điều kiện thị trường chấp nhận một
cách rộng rãi, ví dụ như phương tiện vận chuyển phổ cập.
Việc quản lý hàng hóa cầm cố được thực hiện theo các cách sau:
- Quản lý tại kho Ngân hàng.
- Quản lý kho của khách hàng cầm cố.
- Quản lý tại kho của bên thứ ba.
11
Chiết khấu ký hóa thương phiếu: Là hình thức cho vay có bảo đảm bằng
quyền về tài sản xuất phát từ hợp đồng ký thác bằng hàng hóa. Các công ty kinh
doanh kho được pháp luật cho phép ký gửi hàng hóa của các doanh nghiệp.
Khi người ký thác hàng hóa có nhu cầu vốn ngắn hạn, họ có thể đến Ngân
hàng xin vay nợ trên cơ sở bảo đảm bằng hàng hóa đã ký thác tại công ty kinh
doanh kho. Ngân hàng căn cứ vào biên lai ký hóa phiếu - hai chứng từ của công ty
kinh doanh kho giao cho người khác ký thác, để quyết định cho vay bằng một tỷ lệ
nhất định của giá trị hàng hóa.
Chiết khấu ký hóa phiếu tương đối an toàn và có nhiều thuận lợi vì các lý do

sau:
- Ký hóa phiếu đại diện cho một lượng hàng hóa có được lưu trữ tại các kho
an toàn, mặt khác các hàng hóa thường xuyên được bảo hiểm đầy đủ.
- Ngân hàng ít bị rủi ro về hư hỏng và mất mát hàng hóa, vì tại đây việc quản
lý đã có một đội ngũ nhân sự có năng lực về kiểm soát và bảo quản hàng hóa.
- Chiết khấu ký hóa phiếu sẽ tạo điều kiện cho NHTM có thêm nguồn vốn
thông qua tái chiết khấu ở Ngân hàng trung ương.
Cầm cố các chứng khoán: Cho vay cầm cố chứng khoán là một nghiệp vụ
cho vay đơn giản, khách hàng chuyển giao chứng khoán cho Ngân hàng để nhận
tiền vay. Khi đáo hạn khách hàng trả nợ cho Ngân hàng và nhận lại các chứng
khoán đã cầm cố. Hình thức cầm cố này rất phổ biến ở các nước trên thế giới.
Riêng ở nước ta do thị trường chứng khóan mới phát triển nên hình thức này mới
trong quá trình hình thành, tuy nhiên trong vài năm tới hình thức này hứa hẹn sẽ
phát triển rất nhanh.
Các loại chứng khoán cầm cố: Công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu đô thị,
cổ phiếu, trái phiếu công ty, các loại giấy nợ khác.
Về phía Ngân hàng, khi nhận hồ sơ xin vay cầm cố bằng chứng khoán, Ngân
hàng phải nghiên cứu mức độ rủi ro của từng loại chứng khoán, đặc biệt đối với các
chứng khoán công ty. Giá trị của các chứng khoán phần lớn được xác định theo giá
thị trường chứng không phải theo mệnh giá của chúng và đây là một vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi phải có các chuyên gia chứng khoán mới có khả năng định giá
được.
12
Thông thường đối với các chứng khóan Nhà nước, tỷ lệ cho vay so với giá trị
định giá cao hơn so với các chứng khóan công ty, vì chứng khóan công ty thường
có mức độ rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất cao hơn, hay nói cách khác các chứng
khóan công ty có khả năng hòan trả thấp và có giá trị biến động với biên độ cao.
Đảm bảo bằng tiền gửi: Tiền gửi dùng làm bảo đảm cho khỏan ứng trước
của Ngân hàng thường là tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, còn đối với tiền gửi thanh
toán khi dùng làm bảo đảm cho Ngân hàng phải được chuyển sang một tài khỏan

phong tỏa. Tiền gửi là tài sản bảo đảm an toàn và ít tốn kém vì lý do sau:
- Không cần định giá;
- Chi phí phát sinh trong việc quản lý tiền gửi bảo đảm không đáng kể;
- Việc xử lý tài sản để thu hồi nợ khi khách hàng không có khả năng trả nợ
tương đối đơn giản.
Với hình thức bảo đảm này thì tỷ trọng cho vay của Ngân hàng tương đối
cao và mức cho vay được tính dựa vào công thức:
T
v
=
T
G
(1+r
1
)
1+r
2
Trong đó: T
v
: Số tiền cho vay tối đa
T
G
: Mệnh giá của tiền gửi
r
1
: Lãi suất tiền gửi
r
2
: Lãi suất cho vay
Lãi suất tiền gửi được sử dụng trong công thức trên là lãi suất Ngân hàng

chấp nhận thanh toán khi phải thanh lý tiền gửi để trả nợ. Thông thường mức lãi
suất này nhỏ hơn mức lãi suất tiền gửi theo hợp đồng và thậm chí bằng 0. Mức lãi
suất cụ thể được quy định phụ thuộc vào từng Ngân hàng.
Trong trường hợp tiền vay và tiền gửi bảo đảm là hai loại tiền khác nhau thì
phải có một mức dự phòng về thay đổi tỷ giá hối đoái.
Trong trường hợp tiền gửi được ký thác ở một Ngân hàng khác hoặc chi
nhánh khác thì Ngân hàng cho vay phải thẩm tra tính hiện thực của tiền gửi đó,
đồng thời phải có sự xác nhận của Ngân hàng nhận ký thác chấp nhận cho phép
Ngân hàng cho vay được phép thu nợ từ khoản tiền gửi của khách hàng trong
trường hợp khách hàng không thanh toán tiền vay đúng hạn.
13
Bảo đảm bằng vàng: Là hình thức bảo đảm trong cho vay cá nhân. Vàng
dùng bảo đảm được ký gửi và bảo quản tại Ngân hàng. Phần lớn các NHTM Việt
Nam đều có nghiệp vụ kinh doanh vàng, đây là một điều kiện thuận lợi cho việc
phân kim và định giá vàng làm cơ sở để xác định mức cho vay. Đối với các Ngân
hàng hoặc chi nhánh không có nhân viên kỹ thuật về vàng nhất thiết phải nhờ đến
dịch vụ phân kim và định giá của các công ty kinh doanh vàng.
Bảo đảm bằng chuyển nhượng các khoản phải thu: Các khoản nợ của
người thứ ba đối với khách hàng vay vốn được coi là tài sản bảo đảm cho các
khoản vay ngắn hạn. Việc bảo đảm bằng chuyển nhượng các khoản phải thu được
thực hiện theo hai cách:
- Bảo đảm không thông báo (chuyển nhượng nợ kín): Các khoản phải thu
dùng làm bảo đảm chỉ có sự thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn chủ
nợ của khoản phải thu, mà không thông báo cho con nợ biết về sự cầm cố này.
Theo cách này, khách hàng vay vốn cam kết sẽ chuyển giao cho Ngân hàng khi con
nợ thanh toán.
- Bảo đảm có thông báo (chuyển nhượng nợ mở): Theo cách này, việc cầm
cố khỏan phải thu phải thông báo cho con nợ biết và người này phải thanh toán trực
tiếp cho Ngân hàng thay vì thanh toán cho chủ nợ - người vay vốn.
Bảo đảm bằng chuyển nhượng các khoản phải thu không phải là hình thức

bảo đảm có độ an toàn cao. Vì vậy, khi thực hiện việc cho vay theo hình thức này
Ngân hàng phải nghiên cứu và đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn sau:
- Tính liêm khiết của khách hàng vay vốn;
- Bản chất và đặc tính của các khoản phải thu;
- Xác định mức độ rủi ro của khoản phải thu để định tỷ trọng cho vay. Nếu rủi ro
thấp thì tỷ trọng cho vay cao và ngược lại.
Đối với các nước phát triển, cho vay có bảo đảm bằng chuyển nhượng các
khoản phải thu tương đối phát triển, điều này tạo điều kiện để mở rộng tín dụng.
Riêng ở Việt Nam hình thức này chưa phổ biến do việc thanh toán qua Ngân hàng
còn rất hạn chế, do đó Ngân hàng không thể kiểm soát được các khoản chi trả của
con nợ với khách hàng vay vốn.
Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu: Các công ty xây dựng hoặc các công ty
thiết bị vật tư có hợp đồng về xây dựng hoặc hợp đồng về cung cấp, nếu thiếu vốn
14
để thực hiện hợp đồng có thể nhượng lại hợp đồng đó cho Ngân hàng để được tài
trợ vốn ngắn hạn. Cho vay bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu đôi lúc cũng có rủi ro
cho Ngân hàng, rủi ro này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Người nhận thầu không đủ khả năng thực hiện hợp đồng.
- Chủ đầu tư hay người nhận thầu chính không sẵn lòng thanh toán khi bên
nhận thầu đã thực hiện theo hợp đồng.
Các hợp đồng nhận thầu xây dựng hoặc cung cấp hàng hóa cho các tổ chức
Nhà nước được coi là an toàn hơn so với các hợp đồng tư nhân, tuy nhiên trong một
số trường hợp cũng có thể gặp rủi ro thanh toán chậm.
b) Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn:
* Khái niệm:
Theo Luật dân sự năm 2005: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi
là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên thế chấp) và không chuyển giao tài sản
đó cho bên thế chấp.”
* Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thế chấp tài sản:

Bên thế chấp tài sản:
- Quyền của bên thế chấp tài sản (Theo điều 349 - Luật dân sự 2005).
1. Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường
hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thỏa thuận;
2. Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp;
3. Được bán,thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng
hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua
thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở
thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán.
4. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân
chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý.
5. Được cho thuê, mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo với bên thuê,
bên mượn biết về tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải
thông báo cho bên nhận thế chấp biết;
15
6. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ, khi nghĩa vụ được bảo đảm
bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
- Nghĩa vụ của bên thế chấp (Theo điều 348 - Luật dân sự 2005)
1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp;
2. Áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc khai
thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có
nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;
3. Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với
tài sản thế chấp, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp
có quyền hủy hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì
hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp;
4. Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp từ trường hợp quy định tài
khỏan 3 và khỏan 4 điều 349 của Bộ luật này.
Bên nhận thế chấp:

- Quyền của bên nhận thế chấp (Theo điều 351 - Luật dân sự 2005)
1. Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp trong trường hợp quy định
tại khỏan 5 điều 349 của Bộ luật này phải chấm dứt việc sử dụng tài sản thế chấp,
nếu việc sử dụng làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó;
2. Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không được cản
trở hoặc gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản thế chấp.
3. Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng TSTC.
4. Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản,
giá trị tài sản trong trường hợp có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của
tài sản do việc khai thác, sử dụng;
5. Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản
đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa
vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;
6. Giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản trong trường hợp nhận thế
chấp tài sản hình thành trong tương lai;
7. Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo quy định tại điều 355 hoặc khoản 3
điều 324 của Bộ luật này và được ưu tiên thanh toán.
16
- Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp (Theo điều 350 - Luật dân sự 2005)
1. Trong trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài
sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài
sản thế chấp.
2. Yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xóa
đăng ký trong các trường hợp quy định tại các 355,356 và 357 của Bộ luật này.
Bên thứ ba giữ tài sản thế chấp:
- Quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp (theo điều 353 - Luật dân sự
2005)
1. Được khai thác công dụng của tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận;
2. Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế

chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp (theo điều 352 - Luật dân
sự 2005)
1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất
giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp thì phải bồi thường;
2. Không được khai thác công dụng của tài sản thế chấp, trong trường hợp
quy định tại khỏan 1 điều 353 của Bộ luật này, nếu việc tiếp tục khai thác có nguy
cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp;
3. Giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp hoặc bên thế chấp theo
thỏa thuận.
*Các loại thế chấp:
Căn cứ vào Luật Dân sự: Có 2 loại thế chấp sau:
Thế chấp pháp lý: Là hình thức thế chấp trong đó người đi vay (người thế
chấp) thỏa thuận chuyển quyền sở hữu cho Ngân hàng khi không thực hiện được
nghĩa vụ trả nợ. Theo hình thức này, khi người đi vay không thanh toán được nợ
Ngân hàng được quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữu
mà không cần thực hiện các thủ tục tố tụng để nhờ sự can thiệp của Tòa án.
+Ưu điểm: - Đảm bảo cho Ngân hàng thu hồi nợ bằng cách bán tài sản thế
chấp.
- Không bị các chủ nợ khác tham gia chia phần đối với số tiền bán TS.
17
+ Nhược điểm: - Tốn kém chi phí đăng ký và công chứng
- Mỗi hợp đồng vay gắn với một hợp dồng thế chấp riêng biệt vì vậy khi cấp tín
dụng theo hợp đồng vay mới lại phải lập lại hợp đồng thế chấp.
Thế chấp công bằng (thế chấp thông thường): Là hình thức thế chấp trong đó
Ngân hàng chỉ nắm giữ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoặc giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho món vay. Khi người đi vay không thực
hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên sự thỏa thuận
của người đi vay và người cho vay hoặc phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án nếu
có tranh chấp.

+ Ưu điểm:
- Thủ tục đơn giản, chi phí cho thủ tục thế chấp thấp.
- Khi thay đổi điều kiện vay theo hợp đồng mới không cần lập lại hợp đồng
thế chấp.
+ Nhược điểm:
- Tốn kém thời gian và chi phí liên quan đến Tòa án để có thể bán TS.
- Có thể bị các chủ nợ khác tham gia chia phần trên số tiền bán TSTC.
Căn cứ vào thứ tự thế chấp:
- Thế chấp thứ nhất: Là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món thứ thứ
nhất. Cần lưu ý rằng, thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản
đi thế chấp cho một khoản vay, mà thế chấp thứ nhất được xác định trong mối
tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng một tài sản làm bảo
đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên đang tồn tại gọi là thế
chấp thứ nhất.
- Thế chấp thứ hai: Là hình thức thế chấp trong đó người đi vay sử dụng
phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tài sản thế chấp với khoản nợ thứ nhất được bảo
đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khỏan nợ thứ hai.
Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ (thế chấp thứ nhất và thế chấp
thứ hai ) có một số điểm cần lưu ý sau:
- Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn,
thì các khỏan nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn.
- Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế chấp.
18
Căn cứ vào phạm vi thế chấp:
- Thế chấp toàn bộ bất động sản: Là hình thức thế chấp bất động sản trong
đó nếu bất động sản có vật phụ thì vật phụ cũng thuộc tài sản thế chấp.
- Thế chấp một phần bất động sản: Với hình thức thế chấp này, nếu bất động
sản có vật phụ thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận.
Riêng đối với thế chấp quyền sử dụng đất thì nhà ở, công trình xây dựng
khác, rừng trồng vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất

chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận.
c) Cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai:
Cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai có thể được hiểu là
việc khách hàng vay dùng chính tài sản hình thành trong tương lai làm tài sản bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng.
Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm thì: “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được
giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành
tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch
bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm.”
1.2.1.2- Bảo đảm đối nhân (bảo lãnh)
* Khái niệm: Theo điều 361 - Bộ luật dân sự “Bảo lãnh là việc người thứ ba
(sau đây gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận
bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay thế cho bên có nghĩa vụ(sau đây gọi là bên
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Người bảo lãnh là người thực hiện nghĩa vụ thay cho người đi vay đối với
người cho vay ( Ngân hàng). Người bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.
Một bảo lãnh có thể có nhiều người cùng tham gia bảo lãnh. Trong trường hợp này,
những người tham gia bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm và Ngân hàng cho
vay có quyền yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh phải thực hiện toàn
bộ nghĩa vụ trả nợ.
Người nhận bảo lãnh là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh, trong quan
hệ tín dụng thì đó là các Ngân hàng cho vay.
19
Người được bảo lãnh là người đi vay, người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ
cho Ngân hàng cho vay.
(3) (1)
(2)

(1) Trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và người đi vay được thể hiện
trên hợp đồng tín dụng, Ngân hàng là người có quyền yêu cầu người đi vay thanh
toán nợ khi đáo hạn.
(2) Ngưởi bảo lãnh và người đi vay thỏa thuận về việc bảo lãnh, việc thực
hiện nghĩa vụ thay khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ.
(3) Người bảo lãnh cam kết với Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
người đi vay khi khoản nợ đáo hạn mà người đi vay không thực hiện được.
* Phân loại bảo lãnh
Căn cứ vào hình thức bảo lãnh:
- Bảo lãnh bằng tài sản: Là hình thức bảo lãnh trong đó bên bảo lãnh phải có tài
sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện
pháp thế chấp hoặc cầm cố tài sản để thực hiện nghĩa vụ.
-Bảo lãnh bằng uy tín: Là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của người
bảo lãnh. Theo quy định hiện hành bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng chỉ
được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Còn các tổ chức tín dụng có thể
bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
Căn cứ vào phạm vi bảo lãnh:
- Bảo lãnh toàn bộ: Là hình thức bảo lãnh trong đó người bảo lãnh cam kết
thực hiện thay toàn bộ nghĩa vụ của người được bảo lãnh nếu người đó không thực
hiện được nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
- Bảo lãnh một phần: Là hình thức bảo lãnh trong đó người bảo lãnh chỉ
cam kết thực hiện thay một phần nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp này phải ghi rõ số tiền bảo lãnh.
20
Người bảo lãnh
Người nhận bảo lãnh
(Ngân hàng)
Người được bảo lãnh
(khách hàng vay vốn)
Căn cứ vào nghĩa vụ phải bảo lãnh:

- Bảo lãnh riêng biệt: Là hình thức bảo lãnh được áp dụng cho một số tiền
vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay.
- Bảo lãnh duy trì: Là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức
bảo lãnh theo hạn mức tối đa.
1.2.2- Quy trình thực hiện bảo đảm tín dụng:

Sơ đồ: Quy trình thực hiện bảo đảm tín dụng
1.2.2.1. Nhận và kiểm tra hồ sơ bảo đảm: Quy trình tín dụng bắt đầu từ khâu lập
hồ sơ tín dụng. Trong giai đoạn này CBTD yêu cầu khách hàng vay vốn lập các tài
liệu liên quan đến khách hàng, phương án kinh doanh và tài sản bảo đảm. Việc
nhận và kiểm tra hồ sơ TSBĐ là một phần trong khâu lập hồ sơ tín dụng. Với bước
này nhiệm vụ chủ yếu của CBTD là kiểm tra về tính đầy đủ của hồ sơ bảo đảm so
với hồ sơ tín dụng.
1.2.2.2. Thẩm định tài sản bảo đảm:
Ngân hàng sẽ phải thẩm định đánh giá tài sản khi áp dụng phương pháp cho
vay có TSBĐ đối với khách hàng. Việc thẩm định đánh giá tài sản có ý nghĩa rất
quan trọng nhằm xác định tính hợp pháp của giao dịch bảo đảm, bảo vệ quyền lợi
của cả khách hàng và Ngân hàng, làm cơ sở để định giá tài sản.
*Việc thẩm định các điều kiện của tài sản bảo đảm phải thực hiện trên các khía
cạnh sau:
- Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm.
- Được phép giao dịch và không có tranh chấp.
21
Nhận và
kiểm tra hồ
sơ bảo đảm
Thẩm định
TSBĐ
Định giá
TSBĐ

Giải chấp
(Xử lý
TSBĐ khi
đáo hạn)
Tái định giá
TS và xử lý
sau tái định
giá
Lập hợp
đồng bảo
đảm
Xác định
mức cho
vay
- Được mua bảo hiểm đối với những tài sản Nhà nước quy định phải mua
bảo hiểm.
- Xem xét, đánh giá tính thị trường của tài sản bảo đảm.
- Đánh giá xu hướng biến động giá trị tài sản.
- Đánh giá giá trị tài sản.
* Việc thẩm định tài sản bảo đảm thực hiện dựa vào 3 nguồn thông tin:
- Hồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp: Đây là nguồn thông tin
chủ yếu để xem xét đánh giá tình trạng và giá trị của tài sản bảo đảm, vì vậy cần cố
gắng thu thập càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, cùng cần chú ý, nguồn thông tin của
khách hàng luôn có ý muốn chủ quan để làm tốt hồ sơ tín dụng do đó cũng cần chú
ý đánh giá mức độ chính xác của nguồn thông tin này.
- Khảo sát thực tế: Khảo sát thực tế nhằm khẳng định lại các thông tin mà khách
hàng cung cấp và phát hiện những vấn đề mới cần thẩm định tiếp. Kết quả khảo sát
thực tế phải được lập thành biên bản làm việc và có ít nhất hai chữ ký nhằm đảm
bảo tính khách quan của việc thẩm định.
Các nguồn khác (Chính quyền địa phương, công an, tòa án, cơ quan đăng ký

giao dịch bảo đảm…): Thực tế cho thấy những thông tin lấy từ nguồn này thường
mang tính chất khách quan và chính xác cao. Kết quả buổi làm việc với cơ quan
hữu quan cũng phải ghi chép lại, có chữ ký của ít nhất hai người và được lưu giữ
cùng các hồ sơ khác.
Lưu ý: Việc xác định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền
sử dụng đất thực ra không quá phức tạp nhưng ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn và
xảy ra nhiều rủi ro liên quan đến thủ tục pháp lý do những nguyên nhân sau:
- Nhiều loại tài sản chưa thực hiện đăng ký tài sản và cấp giấy chứng nhận về
quyền sở hữu tài sản như nhà ở vùng nông thôn, các cơ sở kinh doanh. Riêng đối
với doanh nghiệp Nhà nước việc thế chấp chỉ dựa trên cơ sở giấy xác nhận của cơ
quan quản lý vốn Nhà nước.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa quản lý hết tài sản có đăng ký hoặc
quản lý phân tán ở nhiều đơn vị. Từ đó không xác định được một cách chắc chắn
các giấy tờ hợp pháp về sở hữu tài sản. Như trường hợp có cá nhân có 2 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và sử dụng nó để thế chấp cho hai Ngân hàng.
22
- Đất đã giao cho cá nhân và tổ chức sử dụng nhưng chưa cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Sự thiếu đồng bộ này sẽ dẫn đến tranh chấp về quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong các hợp đồng thế chấp.
1.2.2.3- Định giá tài sản bảo đảm:
Về nguyên tắc, việc định giá tài sản bảo đảm phải thực hiện theo giá thị
trường. Nếu định giá cao hơn giá thị trường có thể sẽ dẫn đến khi phát mại tài sản
thế chấp (hoặc chuyển quyền sở hữu cho Ngân hàng) trong trường hợp khách hàng
không trả được nợ không thu hồi đủ gốc, lãi và các khoản chi phí khác. Nếu định
giá thấp hơn giá thị trường thì an toàn cho Ngân hàng nhưng sẽ ảnh hưởng đến việc
đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh trong việc thu
hút khách hàng. Định giá tài sản là một công việc phức tạp đòi hỏi phải có cán bộ
có chuyên môn và nhiều kinh nghiệm. Đối với tài sản có giá trị lớn, phức tạp cần
thiết phải thuê các tổ chức tư vấn để thực hiện việc định giá tài sản thế chấp.
1.2.2.4- Xác định mức cho vay tối đa theo giá trị tài sản bảo đảm:

Có 3 căn cứ để Ngân hàng xác định mức cho vay đối với một khách hàng đó
là: Nhu cầu vốn của khách hàng, khả năng đáp ứng nhu cầu của Ngân hàng và giá
trị của tài sản bảo đảm. TSBĐ là nguồn thu nợ thứ hai vì vậy thông thường giá trị
tài sản thế chấp khi thanh lý dưới hình thức chuyển nhượng để thu hồi nợ (phát mại
hoặc chuyển quyền sở hữu cho Ngân hàng) phải lớn hơn số tiền vay ban đầu cộng
với lãi và các chi phí liên quan khác. Như vậy, giá trị tài sản TSTC dùng để tính
toán ở đây là giá trị dự kiến cho tương lai, tuy nhiên để đơn giản hóa việc tính toán
các NH thường điều chỉnh tỷ lệ cho vay so với giá của TSTC. Đối với tài sản có giá
trị ổn định thì áp dụng tỷ lệ cho vay cao, còn đối với các TSTC có xu hướng giảm
giá hoặc giá cả biến động thất thường thì áp dụng tỷ lệ cho vay thấp. Các Ngân
hàng được quyền quyết định tỷ lệ cho vay thích hợp so với giá trị TSBĐ, trừ trường
hợp thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai (theo quy định của Thông tư
số 06/2000/TT-NHNN ngày 4/4/2000).
* Nguyên tắc khi cấp tín dụng:
- Mức tín dụng cấp phải nhỏ hơn giá thị trường của TSBĐ (để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí liên quan khác trong trường hợp đi
vay không trả được nợ).
- Duy trì tỷ lệ cho vay trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng tín dụng.
23
Hiện nay các Ngân hàng thường áp dụng tỷ lệ cho vay so với giá trị tài sản
bảo đảm là 50 - 70%.
1.2.2.5- Lập hợp đồng bảo đảm:
Hợp đồng bảo đảm tín dụng thường được ký kết cùng với hợp đồng tín dụng
sau khi các giấy tờ thủ tục liên quan được hoàn tất. Tùy theo hình thức bảo đảm và
loại tài sản bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm được lập riêng hay nằm trong hợp đồng
tín dụng, phải có công chứng của Nhà nước theo quy định và đăng ký giao dịch bảo
đảm hay không.
1.2.2.6- Tái định giá tài sản bảo đảm và xử lý sau tái định giá:
Thực tế, TSBĐ có những mức biến động giá nhất định hoặc bất thường trong
suốt thời gian khách hàng vay vốn. Sự biến động này được ghi nhận tại một tài

khoản ngoại bảng của phòng kế toán. Trong cho vay trung dài hạn, hàng năm phải
đánh giá lại giá trị của TSBĐ nhằm duy trì tỷ lệ cho vay trong suốt thời gian thực
hiện hợp đồng. Nếu giá trị của TSBĐ bị giảm sút thì Ngân hàng phải xử lý theo
một trong hai cách sau:
- Yêu cầu khách hàng vay vốn bổ sung TSBĐ.
- Thu hồi phần nợ thiếu bảo đảm.
Giá trị thu hồi
=
Nợ gốc
-
Nợ gốc * Giá trị tái định giá
Giá trị định giá ban đầu
1.2.2.7- Giải chấp (hay: xử lý tài sản bảo đảm khi đáo hạn)
Khi hợp đồng tín dụng hết thời hạn có hai tình huống xảy ra:
- Thứ nhât, khách hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi cho NH, khi đó
NH tiến hành các thủ tục giải chấp và thanh lý hợp đồng tín dụng nhằm trả lại các
giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hay trả lại tài sản cầm cố cho khách hàng.
- Thứ hai, khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Với trường
hợp này NH phải tiến hành xử lý TSBĐ để thu hồi nợ gốc, lãi và các chi phí liên
quan khác. Việc xử lý tài sản là một biện pháp thu hồi nợ khó đòi, tuy nhiên vấn đề
đặt ra là khi nào thì phát sinh việc xử lý TSBĐ. Không phải cứ khi nào phát sinh
tình trạng khách hàng không trả nợ đúng hạn thì NH tiến hành xử lý tài sản bảo
đảm. Thông thường NH sẽ tiến hành xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và
24
cho gia hạn nợ nếu xét thấy khó khăn của khách hàng chỉ là tạm thời và vẫn còn có
khả năng thanh toán. Mục tiêu của NH không phải là bắt nợ khách hàng mà là cố
gắng tối đa để khách hàng trả nợ cho mình. Ngân hàng có thể cấp thêm vốn sau khi
xem xét dự án và khả năng kinh doanh của khách hàng, đồng thời với những khoản
cấp vốn bổ sung này NH phải theo dõi sát sao việc sử dụng vốn. Việc xem xét đến
TSBĐ chỉ nên áp dụng khi NH đánh giá khách hàng không còn khả năng trả nợ,

phương án kinh doanh của khách hàng không còn tính khả thi hoặc doanh nghiệp bị
phá sản.
* Nguyên tắc giải chấp (Xử lý tài sản bảo đảm):
- Khi đến hạn mà khachs hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với TCTD thì tài sản bảo đảm được xử lý để thu
hồi nợ.
- Tài sản bảo đảm phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thỏa
thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thực
đã thỏa thuận thì TCTD có quyền:
+ Bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ;
+ Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không
thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên
bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- TCTD có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và ủy quyền cho bên thứ ba
xử lý TSBĐ tiền vay; Trong trường hợp này bên thứ ba cũng có quyền xử lý TSBĐ
tiền vay để thu hồi nợ như TCTD.
- Trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý
TSBĐ để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ trả nợ khác tuy chưa đến
hạn cũng được coi là đến hạn và được xử lý TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ. Thứ tự
thanh toán được tiến hạn theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc thứ tự xác lập
hợp đồng tín dụng.
- Trường hợp xử lý TSBĐ theo thỏa thuận phải được tiến hành nhanh chóng,
công khai, bảo đảm lợi ích của các bên, nếu tài sản không xử lý được do không
thống nhất được giá bán thì TCTD có quyền quyết định giá bán tài sản để thu hồi
hợ.
25

×