Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 58 trang )

Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CVTD : Cho vay tiêu dùng
SGD : Sở giao dịch
DVKH : Dịch vụ khách hàng
DVNHCN : Dịch vụ ngân hàng cá nhân
CVXLHS : Chuyên viên xử lý hồ sơ
CGPD : Chuyên gia phê duyệt
PD : Phê duyệt
TSĐB : Tài sản đảm bảo
CVQLCT : Chuyên viên quản lý chứng từ
KSCT : Kiểm soát chứng từ
CVQLTD : Chuyên viên quản lý tín dụng
KSTD : Kiểm soát tín dụng
CVHTB : Chuyên viên hỗ trợ bán.
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, kinh tế Việt Nam phát triển và tăng trưởng duy trì ở mức
cao, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống cũng ngày càng
được người dân chú trọng hơn. Nhu cầu tiêu dùng cũng trở nên phổ biến và thường
xuyên. Trong khi đó, người tiêu dùng cũng chịu nhiều áp lực về tài chính do biến động
giá cả trong tình trạng lạm phát. Chính vì vậy mà khả năng sở hữu tài sản theo cách
truyền thống: tích góp đủ để mua, trở nên khó thực hiện.


Hiện nay với hoạt động cho thuê tài chính đa dạng tại Việt Nam, một trong
những giải pháp dễ dàng hơn để người dân có thể thực hiện được nhu cầu tiêu dùng
hiện tại của mình là các sản phẩm cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại.
Trên thế giới, cho vay tiêu dùng phát triển mạnh mẽ và là một trong những khoản
cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho các ngân hàng thương mại. Chỉ số tiêu dùng ở
nhiều nước được coi là dấu hiệu chủ chốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong khi
ở Việt Nam, nghiệp vụ này còn đang trong giai đoạn phát triển. Việc nâng cao chất
lượng tín dụng tiêu dùng là yêu cầu cần thiết để đảm bảo cho quá trình phát triển này
là bền vững.
Nhận thấy được vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng hoạt động cho vay
tiêu dùng đối với các ngân hàng thương mại cũng như với sự phát của nền kinh tế, với
sự giúp đỡ của các anh chị trong Sở giao dịch của Ngân hàng thương mại cổ phần
Đông Nam Á – em đã thực hiện đề tài “ Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Sở
giao dịch của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á” cho chuyên đề thực tập
của mình.
Bài chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng cho vay tiêu dùng tại các Ngân
hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch của Ngân
hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Sở giao dịch
của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
Do còn hạn chế về hiểu biết và thời gian thực hiện, nên trong nội dung nghiên
cứu chắc chắn sẽ còn tồn tại nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp,
giúp đỡ và chỉ bảo của các thầy cô giáo để chuyên đề của em thêm hoàn thiện!
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
1
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU
DÙNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1Hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại
1.1.1 Cơ sở hình thành và sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng thương mại không tích cực đối với
những khoản cho vay cá nhân và hộ gia đình, bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu
dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Đến những năm 80 của thế kỷ XX, sự ra đời của hàng
loạt các tổ chức tài chính đã khiến cho các ngân hàng thương mại phải đối mặt với vấn
đề thị phần ngày càng giảm sút. Các ngân hàng thương mại buộc phải tiến hành thay
đổi cơ cấu, đa dạng hóa sản phẩm, hướng tới nhiều đối tượng khách hàng để mở rộng
thị trường. Sự gia tăng trong thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho
vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã khiến cho các
ngân hàng thay vì bó hẹp trong hoạt động cho vay thương mại truyền thống, nay có thể
mở rộng thêm các loại hình cho vay mới. Việc một số lượng lớn các chi nhánh được
thành lập cũng giúp cho các ngân hàng thương mại tiếp cận khách hàng một cách dễ dàng
hơn, gia tăng một cách đáng kể số lượng khách hàng là cá nhân và hộ gia đình.
Cuộc sống phát triển hiện đại, nhu cầu tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ, khuyến
khích các cá nhân, hộ gia đình mua sắm và hưởng thụ. Song thu nhập hiện tại của họ
chưa thể đáp ứng hết được. Trong khi đó, họ có thu nhập đều đặn trong tương lai
(lương, tiền công …) để trả nợ ngân hàng. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống,
tăng khả năng được đào tạo,… giúp họ có nhiều cơ hội để tìm kiếm công việc có mức
thu nhập cao hơn. Với việc cung cấp tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng thương mại đã
góp phần giải quyết vấn đề giữa nhu cầu hiện tại và thu nhập trong tương lai cho
khách hàng. Song song với đó, ngân hàng thương mại cũng cung cấp tín dụng cho cả
nhà sản xuất. Một khi đã thực hiện tốt tín dụng cho cả nhà sản xuất và cả người tiêu
dùng, thị trường sẽ có thêm những điều kiện thuận lợi để giải quyết mối quan hệ cung
cầu.
Cho đến nay, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng
tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, hoạt động
cho vay tiêu dùng mới chỉ bắt đầu từ những năm 1934 -1935 với những hình thức khá
đơn điệu. Do chưa có một hành lang pháp lý cụ thể nên các ngân hàng thương mại còn

tỏ ra khá lúng túng khi tiến hành cung cấp hình thức tín dụng này. Khoảng mười năm
trở lại đây, hầu hết các tổ chức tín dụng đều đã triển khai tín dụng tiêu dùng, nhưng thị
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
2
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
trường này chỉ thực sự sôi động từ năm 2007 khi có sự tham gia của các ngân hàng
thương mại và các công ty tài chính nước ngoài. Hiện nay, nhận thấy tiềm năng của
hoạt động tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng thương mại đã giành nhiều quan tâm và
coi đây là một trong những cơ hội phát triển chiến lược của mình.
Bảng 1.1: Dư nợ hoạt động cho vay tiêu dùng trên cả nước (2009 -2011)
Đơn vị: tỷ đồng,%
Chỉ tiêu 2009 2010 2011
Dư nợ cho vay tiêu dùng 88.064 190.651 162.344
Tổng dư nợ cho vay 1.761.794 2.308.125 2.585.100
Dư nợ CVTD/Tổng dư nợ cho vay 7,58 8,26 6.28
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam www.sbv.gov.vn
Hoạt động cho vay tiêu dùng những năm gần đây của của các ngân hàng không
phải lúc nào cũng suôn sẻ. Sau năm tín dụng tiêu dùng bùng nổ 2007, sang năm 2008,
khi mà lạm phát tăng cao và lãi suất biến động mạnh, các ngân hàng thương mại lại
thực hiện thắt chặt hoạt động cho vay, trong đó có cho vay tiêu dùng. Đơn cử như thời
điểm cuối năm 2008, đã từng có những lo ngại cho hoạt động cho vay tiêu dùng có
nguy cơ “đóng băng” vì cơ chế trần lãi suất; hay tại những thời điểm căng thẳng thanh
khoản, hoạt động này gần như nhỏ giọt… Đầu năm 2009, khi lạm phát dần dần được
kiềm chế và ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn
về lãi suất thoả thuận đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, với mục đích
kích thích tiêu dùng đã tạo cơ hội kinh doanh cho các ngân hàng thương mại, vì cho vay
tiêu dùng không bị vướng trần lãi suất như cho vay doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tình hình
kinh tế chưa ổn định, cho vay doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều rủi ro. Năm 2010 mặc dù
cũng gặp phải không ít những vướng mắc, khó khăn song hoạt động cho vay tiêu dùng
trong cả nước nói chung vẫn có những bước phát triển. Sang năm 2011, các ngân hàng

thương mại phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới mức cho phép 20%, đồng thời giảm
dần dư nợ cho vay tiêu dùng. Vì vậy, các ngân hàng còn “room” tín dụng để đáp ứng vốn
cho khách hàng cá nhân cũng khó ồ ạt cho vay chính vì vậy lãi suất CVTD cũng ở mức
cao. Bên cạnh đó, mục tiêu của các ngân hàng thương mại tại thời điểm đó không phải là
nới lỏng tín dụng để chạy đua chỉ tiêu lợi nhuận mà đẩy mạnh thu hồi nợ cũ, điều đó đã
làm cho hoạt động CVTD bị siết chặt. Nhìn chung, cho vay tiêu dùng vẫn được đánh giá
là mảng tín dụng có lợi thế phát triển hiện nay tại Việt Nam .
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Ngân hàng thương mại thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ khác nhau nhằm
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
3
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
đáp ứng mọi yêu cầu và mục đích vay vốn ngày càng đa dạng của hàng triệu khách
hàng. Các nghiệp vụ tín dụng cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện theo
hướng mang lại tiện ích nhiều hơn cho người sử dụng vốn đồng thời vẫn đảm bảo
được an toàn và lợi ích của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng là một trong các nghiệp vụ
tín dụng ra đời trên cơ sở đó.
Có nhiều khái niệm khác nhau về cho vay tiêu dùng, song có thể hiểu một cách
khái quát về hoạt động này như sau: “Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức cấp tín
dụng, trong đó ngân hàng thương mại thỏa thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia
đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng theo nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi sau một khoảng thời gian nhất định”. Nếu như vậy thì có thể thấy cho vay
tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng
bao gồm các cá nhân và hộ gia đình. Đây là hình thức cấp tín dụng rất hữu ích, vì đó là
nguồn tài trợ quan trọng cho nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ của người
tiêu dùng. Bên cạnh đó cho vay tiêu dùng còn đáp ứng những chi tiêu cho nhu cầu về
giáo dục, y tế hay du lịch… Tín dụng tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng
hàng hóa dịch vụ trước khi chi trả cho những hàng hóa dịch vụ đó, vì vậy giúp họ sớm
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời mang lại nhiều ích lợi cho ngân

hàng thương mại, nhà sản xuất cũng như cả nền kinh tế.
1.1.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng có những đặc điểm đặc trưng phân biệt với các hình thức cấp
tín dụng khác. Có thể chỉ ra như sau:
Trước tiên, về đối tượng cho vay: các khoản tín dụng tiêu dùng được cấp cho các
cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu vay tiêu dùng. Trong khi đó đối tượng của các hình
thức tín dụng thương mại truyền thống lại là doanh nghiệp hay các dự án đầu tư. Đối
tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng vì thế rất phong phú. Nguồn trả nợ cho các
khoản vay này thường được trích từ nguồn thu nhập thường xuyên là tiền lương và lợi
nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác của người đi vay (không tính đến nguồn thu
nhập có được từ kết quả sử dụng những khoản vay đó). Chính vì vậy, bên cạnh yếu tố
về tài sản đảm bảo thì tính ổn định trong thu nhập của người đi vay cũng là nhân tố
được các ngân hàng thương mại chú trọng. Việc cho vay các khách hàng có thu nhập
cao sẽ tránh cho ngân hàng gặp phải những rủi ro vì việc thu lại gốc và lãi cũng dễ
dàng hơn. Song phần đông dân số Việt Nam là những người có thu nhập thấp và trung
bình, mà chính họ lại là những người có mong muốn cải thiện mức sống và có mong
muốn được vay hơn cả. Vì vậy, nhận thức và nghiên cứu đúng đặc điểm của đối tượng
trong hoạt động cho vay tiêu dùng trong từng không gian nhất định sẽ giúp ngân hàng
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
4
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
thương mại có những quyết định về sản phẩm, điều kiện, quy trình cho vay và cách
đánh giá sao cho phù hợp nhất để nâng cao chất lượng cho hoạt động này.
Hai là, số lượng các món vay lớn nhưng giá trị mỗi món nhỏ. Như đã xem xét,
việc cho vay tiêu dùng chỉ dừng lại ở phương diện cá nhân nên các món vay này
thường có giá trị tương đối nhỏ. Đôi khi khách hàng có nhu cầu vay một số lượng tiền
lớn nhưng lại bị giới hạn bởi hạn mức cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại và
những yêu cầu cần có của tài sản đảm bảo. Người Việt Nam vẫn còn tâm lý e ngại khi
tới ngân hàng vay tiền, khi muốn mua sắm, họ thường cố gắng tiết kiệm giành dụm rồi
mới mua hoặc chỉ mua khi đã có một khoản tiền nhất định, số tiền mà họ vay ngân

hàng chỉ là con số còn thiếu, nên thường không lớn. Tuy vậy một số lượng lớn các cá
nhân cùng nhu cầu vô cùng phong phú của họ đã tạo ra lượng khách hàng rất đông đảo
cho các ngân hàng thương mại. Tại đây, các nhân viên ngân hàng phải quản lý kho hồ
sơ cho vay tiêu dùng có số lượng rất lớn. Mặc dù tốn nhiều thời gian, công sức cũng
như phải huy động thêm nguồn lực, song điều đó phần nào giúp cho ngân hàng thương
mại giảm thiểu rủi ro vì qua đó đa dạng hóa được đối tượng khách hàng.
Thứ ba, các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro rất cao. Một trong những vấn
đề khó khăn mà nhiều tổ chức tín dụng đề cập đến là thiếu thông tin về khách hàng.
Khách hàng của hoạt động cho vay tiêu dùng là những đối tượng cá nhân có thu nhập
khác nhau và rất khó để nhân viên tín dụng có thể thẩm định được chính xác năng lực
tài chính của họ. Nhân thân của khách hàng lại là căn cứ rất quan trọng để quyết định
cho vay. Tuy nhiên, Việt Nam đang rất thiếu các trung tâm thông tin dữ liệu khách
hàng cá nhân, hộ gia đình. Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước
(CIC) mới chỉ cung cấp thông tin doanh nghiệp. Đây là lý do tại sao tín dụng tiêu dùng
của các ngân hàng hiện nay chỉ tập trung cho cán bộ công chức trong hệ thống cơ quan
hành chính và nhân viên của một số doanh nghiệp lớn. Bảo đảm cho các khoản vay
này là lương và thu nhập của người vay trên tài khoản cá nhân mở ngay tại ngân hàng
cho vay.
Khách hàng tới vay tiêu dùng tại các ngân hàng với kỳ vọng rằng thu nhập trong
tương lai cao và ổn định, phần tiết kiệm sau khi trừ đi chi tiêu hàng tháng có thể dần
chi trả hết được khoản vay. Tuy vậy, có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới thu nhập
của họ. Nếu người vay bị chết, ốm hoặc bị mất việc làm, ngân hàng sẽ khó thu được
nợ. Đó là những rủi ro khách quan mà ngân hàng thương mại cũng như chính khách
hàng không thể lường trước được. Bên cạnh đó, có những rủi ro chủ quan mang tới từ
phía khách hàng mà ngân hàng thương mại không thể thẩm định được hết như khách
hàng vay vốn tiêu dùng tại ngân hàng để mua bán chứng khoán, đầu tư bất động sản
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
5
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
hay dùng chính tài sản này để thế chấp vay tiền tại một ngân hàng thương mại khác…

Để kiểm soát tốt vấn đề này, nhiều ngân hàng đã lập riêng các phòng ban chuyên để
theo dõi các khoản cho vay tiêu dùng, giảm thiểu tối đa các tổn thất và rủi ro có thể
xảy ra. Bên cạnh đó, ngân hàng thường yêu cầu lãi suất cao, yêu cầu người vay phải
mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua… Một biện pháp bảo
đảm nữa mà ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có khi vay vốn chính là tài
sản đảm bảo. Theo Fredic S.Mishkin: “Tài sản đảm bảo hay vật thế chấp là vật sở hữu
được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Nếu người vay không trả được
khoản nợ vay, ngân hàng có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù đắp các
tổn thất của mình do món vay đó gây ra.” (Trích cuốn Tiền tệ ngân hàng và Thị trường
tài chính).
Tuy vậy, hiện nay có một hình thức cho vay tiêu dùng không cần phải có tài sản
đảm bảo, đó là hình thức cho vay tín chấp: hình thức cho vay dựa trên uy tín và sự tin
tưởng ở khách hàng. Tuy rủi ro cao nhưng do áp lực cạnh tranh nên các ngân hàng
thương mại vẫn cho vay theo hình thức này. Mặc dù các ngân hàng thương mại cũng
đưa ra các quy định để kiểm soát như tăng cường thẩm định khách hàng, thời hạn
khoản vay chỉ được kéo dài từ 24 đến 60 tháng hoặc thấp hơn, song việc đưa ra những
điều khoản hấp dẫn để thu hút khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh như tăng hạn
mức cho vay, giảm điều kiện thu nhập tối thiểu để xét duyệt cho vay… đã tạo ra
những khe hở có thể dẫn đến rủi ro cho hoạt động tín dụng này tại ngân hàng.
Thứ tư, các khoản cho vay tiêu dùng thường có chi phí cao xét trên cả phương
diện từ phía khách hàng hay ngân hàng thương mại:
Đối với khách hàng, vay tiêu dùng có chi phí cao bởi lẽ lãi suất của nó là rất cao
và cứng nhắc. Thông thường, lãi suất đầu vào và đầu ra của cho vay tiêu dùng phải
chênh lệch ít nhất từ 3,5 - 4,5% thì ngân hàng thương mại mới bắt đầu có lãi. Ở nước
ta hiện nay, cho vay tiêu dùng là một trong những hình thức cho vay có lãi suất cao
nhất tại ngân hàng thương mại mặc dù các khoản vay này không nhằm mục đích sinh
lời. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, lãi suất cho vay tiêu dùng
có thể có xu hướng giảm đi song vẫn còn khá cao so với mặt bằng chung của hoạt
động cho vay.
Về phía ngân hàng thương mại, các đối tượng khách hàng tới vay tiêu dùng rất

lớn, lại trải rộng trong nhiều địa bàn, thông tin về nhân thân, lai lịch, tình hình tài
chính của khách hàng thường không đầy đủ và khó thu thập khiến cho các nhân viên
tín dụng phải mất nhiều thời gian và chi phí hơn trong việc thẩm định thông tin của cá
nhân vay tiền. Với một hoạt động cho vay chứa đựng nhiều rủi ro như cho vay tiêu
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
6
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
dùng thì chi phí cao cũng là điều phù hợp với mối quan hệ lợi nhuận, chi phí và rủi ro.
Song nếu có thể giảm thiểu được chi phí thì các ngân hàng thương mại có thể tăng
được doanh số cho vay một cách dễ dàng hơn.
Đặc điểm thứ năm: cho vay tiêu dùng mang lại những khoản lợi nhuận lớn cho
các ngân hàng thương mại. Với mức lãi suất cao, số lượng các khoản cho vay cực lớn,
tiền lãi thu được định kỳ từ hoạt động này đã mang lại những khoản lợi nhuận rất lớn
cho ngân hàng thương mại. Ở nước nào có hoạt động tiêu dùng của dân cư càng phát
triển thì vai trò của cho vay tiêu dùng trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương
mại càng trở nên quan trọng. Ví dụ như tại Mỹ, đóng góp từ hoạt động này vào tổng
thu nhập từ tín dụng luôn chiếm tỷ lệ lớn hơn 60% -70% tổng thu nhập của ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, khi mà tín dụng doanh nghiệp mang lại mức lợi
nhuận ngày càng thấp thì trái lại, tín dụng tiêu dùng ngày càng phát triển mạnh mẽ và
mang lại nhiều khoản lợi nhuận.
Các khoản vay tiêu dùng thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm cả phần bù
rủi ro lãi suất) đến mức cả chi phí huy động lẫn những tổn thất tín dụng phải tăng lên
một cách đáng kể mới có thể làm cho các khoản tín dụng tiêu dùng không mang lại lợi
nhuận. Chính điều đó đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà kinh doanh
trong lĩnh vực tài chính. Hoạt động ngân hàng thương mại vốn là một hoạt động kinh
doanh rủi ro, nhưng mức độ chấp nhận rủi ro đến đâu còn phụ thuộc rất nhiều vào
khoản lợi nhuận mà nó mang lại. Thực tế, lợi nhuận có được từ các hoạt động cho vay
tiêu dùng đã vượt xa những gì các nhà quản lý mong đợi, chính vì vậy họ sẵn sàng
chấp nhận những rủi ro lớn có thể xảy ra để theo đuổi một mức lợi nhuận kỳ vọng cao
mang lại từ hoạt động này.

Đặc điểm cuối cùng là hoạt động cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ
kinh tế. Tâm lý chi tiêu của người dân phụ thuộc nhiều vào tình hình chung của nền
kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng, thu nhập người tiêu dùng không
ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng mạnh và ngược lại. Thường trong các
giai đoạn phục hồi kinh tế sau suy thoái, chính phủ thường đưa ra các chính sách kích
cầu tiêu dùng, đây là cơ hội tốt cho hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng.
Các nhà quản trị ngân hàng thương mại thường dựa vào suy đoán trước sự vận động
của chu kỳ kinh tế để đón đầu những cơ hội đầu tư trong hoạt động này.
1.1.3 Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với các ngân hàng thương mại
Trên thế giới, cho vay tiêu dùng là một hoạt động xuất hiện từ lâu. Cho tới nay,
đây vẫn là một hoạt động rất được quan tâm phát triển. Bên cạnh những hạn chế trong
quá trình tồn tại của nó như rủi ro và chi phí lớn, cho vay tiêu dùng cũng đã thể hiện
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
7
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
được những vai trò hết sức to lớn, không thể phủ nhận đối với nhiều đối tượng trong
nền kinh tế.
Hoạt đông chủ yếu của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi (huy động vốn) và
dùng số vốn huy động được đem kinh doanh (sử dụng vốn) để sinh lời. Các hoạt động
sử dụng vốn của ngân hàng thương mại rất đa dạng như: tín dụng, thanh toán, kinh
doanh ngoại tệ,… trong số đó, cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng cao nhất, khoản
mục này thông thường sẽ chiếm quá nửa tổng giá trị tài sản và tạo ra từ 1/3 đến 2/3
tổng nguồn thu của ngân hàng thương mại. Trước sự cạnh tranh gay gắt đang diễn ra
trên thị trường tài chính, những hoạt động tín dụng mang tính truyền thống như cho
vay kinh doanh, tài trợ dự án… dường như không đủ để thực hiện hết tham vọng về thị
phần, khách hàng cũng như lợi nhuận của các ngân hàng. Tìm đến với hình thức tín
dụng tiêu dùng, ngân hàng thương mại đã tìm ra một hướng giải quyết mới trong bài
toán thị trường và lợi nhuận của mình. Những lợi ích mà hình thức tín dụng này mang
lại đã được thể hiện ngay từ thời gian đầu xuất hiện. Cho tới nay, hầu hết ngân hàng
thương mại tại các quốc gia trên thế giới đều quan tâm và ít nhiều muốn giành một

lượng vốn đầu tư vào loại hình tín dụng này.
Những tác dụng cụ thể mà hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại cho ngân hàng
thương mại là:
Cho vay tiêu dùng giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại đối
với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Các ngân hàng lớn thường tập
trung nhiều vào các khoản vay giành cho doanh nghiệp và các dự án đầu tư vì chúng
có quy mô lớn nên mang lại nguồn lợi nhuận cao. Những ngân hàng thương mại này
có lợi thế hơn nhiều về quy mô nguồn vốn cũng như công nghệ so với các ngân hàng
thương mại nhỏ. Chính vì vậy, việc các ngân hàng nhỏ có thế cạnh tranh với các ngân
hàng lớn hơn trong mảng tín dụng này là điều rất khó khăn. Tuy vậy, khi tiếp cận với
tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng thương mại có thể tìm đến với một số lượng đông
đảo khách hàng cá nhân trên thị trường, kiếm được khoản thu nhập đáng kể mà không
đòi hỏi phải có quy mô quá lớn hay công nghệ quá hiện đại. Chính điều đó góp phần
tạo cơ hội cho ngân hàng thương mại nhỏ phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trên
thị trường.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, có rất nhiều ngân hàng
thương mại liên doanh hay 100% vốn nước ngoài tham gia hoạt động trong thị trường
nội địa, việc cạnh tranh của các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ trong nước với
những ngân hàng thương mại này là thực sự khó khăn do kém hơn về vốn, công nghệ
cũng như kinh nghiệm quản lý điều hành. Tuy vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng lại
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
8
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
hướng vào đổi tượng khách hàng cá nhân cùng với những hành động mua sắm của họ.
Với lợi thế hiểu biết về tập tục, thói quen sinh hoạt của người dân, các ngân hàng
thương mại trong nước hoàn toàn có thể tăng cường sức mạnh cạnh tranh của mình.
Cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng thương mại quảng bá hình ảnh đến với khách
hàng một cách nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn kém. Các giao dịch cá nhân chính là
một hình thức xúc tiến hỗn hợp giữa kinh doanh với marketing ngân hàng. Theo đó,
việc tiếp xúc trực tiếp của các cán bộ ngân hàng với khách hàng ngoài việc giới thiệu

và cung ứng các sản phẩm dịch vụ còn có các tác dụng sau đây: nâng cao uy tín hình
ảnh của ngân hàng, tăng cường lòng tin, duy trì sự trung thành của khách hàng, làm
cho khách hàng tiếp nhận những sản phẩm dịch vụ mới một cách dễ dàng và nhanh
chóng, thu thập thông tin xác thực và cập nhật từ thị trường, những phản hồi trực tiếp
từ khách hàng sẽ giúp kế hoạch kinh doanh của ngân hàng thuận lợi và đúng hướng.
Ngoài ra việc mở rộng cho vay tiêu dùng sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng tìm
đến với ngân hàng. Nhờ đó hình ảnh của ngân hàng sẽ trở nên gần gũi hơn, vì không
chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp hay các dự án lớn, ngân hàng còn quan tâm đến
những nhu cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện
đời sống của họ. Từ đó, người dân sẽ có thói quen đến ngân hàng để giao dịch, vay
vốn hay gửi tiền cũng trở nên phổ biến hơn.
Hoạt động cho vay tiêu dùng góp phần mở rộng, đa dạng hóa các hình thức kinh
doanh, gia tăng thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng thương mại. Thu nhập của
ngân hàng là tổng hợp từ các nguồn thu từ các hoạt động khác nhau. Tín dụng tiêu
dùng là hoạt động có lợi nhuận lớn do số lượng các món vay nhiều và khoản thu nhập
từ lãi vay cũng vượt trội hơn hẳn so với các hình thức tín dụng khác. Ở các nước có
nền kinh tế phát triển, nơi mà người dân có nhu cầu tiêu dùng lớn thì tín dụng tiêu
dùng thường đóng vị trí chủ chốt trong thu nhập của ngân hàng. Ban đầu các ngân
hàng không mấy quan tâm đến mảng tín dụng này do cho rằng quy mô của mỗi khoản
vay quá nhỏ. Nhưng khi sức ép cạnh tranh khiến các ngân hàng thương mại mất đi thị
phần trong mảng tín dụng doanh nghiệp do sự ra đời của các công ty tài chính, các quỹ
đầu tư và thị trường chứng khoán, tín dụng tiêu dùng đã mang lại những hy vọng mới
cho hoạt động ngân hàng. Việc phát triển tín dụng tiêu dùng cũng giúp ngân hàng đa
dạng hóa các lĩnh vực kinh doanh cũng như đối tượng khách hàng, góp phần hạn chế
và giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động của mình.
Bên cạnh những tác động tích cực đối với bản thân các ngân hàng thương mại,
hoạt động cho vay tiêu dùng còn hỗ trợ tốt cho người tiêu dùng và nhà sản xuất. Nhờ
có cho vay tiêu dùng người dân sớm được hưởng các tiện ích và cải thiện cuộc sống
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
9

Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
của mình trước khi tích lũy đủ tiền để chi trả cho những sản phẩm và dịch vụ ấy. Điều
này góp phần nâng cao mức sống chung, tạo nên một môi trường văn minh và hiện
đại. Khi người ta không có những lo lắng về nơi ở, đi lại, học hành cho con cái,… họ
sẽ có điều kiện để phát triển bản thân, thăng tiến trong công việc. Khi vay nợ để tiêu
dùng hầu hết người đi vay đều có tâm lý muốn nhanh chóng trả hết nợ để trở thành
những chủ sở hữu thực sự của những vật dụng ấy, điều đó sẽ khích lệ họ làm việc,
kiếm thêm thu nhập để trả nợ. Điều này không chỉ mang lại lợi ích tới bản thân người
tiêu dùng mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên,
không phải không có hiện tượng lạm dụng đi vay để tiêu dùng một cách không tính
toán. Điều này rất có hại vì nó có thể làm cho người đi vay tiêu dùng vượt quá mức
cho phép, dẫn tới khả năng không trả được nợ, gây tác động xấu đến cuộc sống.
Ngân hàng thương mại không phải là tổ chức duy nhất hiện nay có cho vay tiêu
dùng, tuy nhiên khi vay tại các ngân hàng, người tiêu dùng chỉ phải trả một mức lãi
suất thấp hơn, các khoản vay cũng có độ an toàn cao hơn, và quan trọng hơn họ sẽ
được hưởng các tiện ích, các sản phẩm và dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp như
sử dụng thẻ tín dụng, thẻ ưu đãi mua hàng, mua vé máy bay,… Đối với nhà sản
xuất, nhờ có tín dụng tiêu dùng, các doanh nghiệp sẽ bán được nhiều hàng hóa và dịch
vụ hơn. Vì tín dụng tiêu dùng kéo nhu cầu của người tiêu dùng trong tương lai về hiện
tại, điều đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ sản xuất, mở rộng quy
mô, thay đổi công nghệ, phát triển sản phẩm mới đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa
dạng và phong phú của khách hàng. Toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và
tiêu dùng từ đó cũng diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn, góp phần vào sự tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững.
Cho vay tiêu dùng là tác nhân khơi thông luồng chuyển dịch hàng hóa. Quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ bị tắc nghẽn nếu như không có tiêu dùng, hàng hóa
không tiêu thụ được sẽ làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp, khiến quá trình sản xuất bị
đình trệ, nền kinh tế nói chung cũng không thể vận hành bình thường được. Vai trò
của tín dụng tiêu dùng là cho vay, kích thích nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia
đình. Một khi nhu cầu tiêu dùng được đảm bảo bằng nguồn tài trợ an toàn từ ngân hàng,

người tiêu dùng sẽ được khích lệ nhiều hơn trong việc mua sắm. Doanh nghiệp bán được
hàng sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và lại tìm đến ngân hàng để vay vốn. Như vậy khi ngân
hàng thực hiện cho vay tiêu dùng sẽ trở thành động lực có lợi cho cả người tiêu dùng, nhà
sản xuất và bản thân ngân hàng hay cũng chính là làm lợi cho nền kinh tế.
1.1.4 Phân loại cho vay tiêu dùng
Dựa trên các cách căn cứ khác nhau, cho vay tiêu dùng được phân chia thành các
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
10
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
loại khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại thường dùng:
1.1.4.1 Căn cứ vào mục đích vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng bất động sản: là khoản tín dụng tài trợ cho nhu cầu mua, xây
dựng và cải tạo nhà ở của khách hàng. Món vay loại này thường có thời hạn dài, giá trị
món vay thường lớn vì thế mà tài sản đảm bảo cho món vay loại này thường được các
ngân hàng đặc biệt chú ý trong hồ sơ xin vay.
Cho vay tiêu dùng thông thường: là khoản tín dụng tài trợ cho nhu cầu mua sắm
phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình, học hành, du lịch, y tế hay giải trí…Các
khoản vay này thường có quy mô nhỏ, thời hạn vay ngắn, do đó mức độ rủi ro cũng
thấp hơn vay tiêu dùng bất động sản. Vì thế yếu tố để xem xét có giải ngân hay không
lại phụ thuộc vào khả năng trả nợ của khách hàng đầu tiên, sau đó mới xét đến giá trị
tài sản đảm bảo.
1.1.4.2 Căn cứ theo nguồn gốc khoản nợ:
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng trực tiếp
tiếp xúc với khách hàng, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi ngân hàng. Đây
là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, cấp cho những khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Sơ đồ 1.1: Phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng thương mại và người tiêu dùng ký hợp đồng với nhau
(2) Người tiêu dùng trả nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hóa
(3) Ngân hàng thương mại thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp

(4) Nhà cung cấp giao hàng cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng không trực
tiếp kí kết hợp đồng với người tiêu dùng mà ký với nhà cung cấp. Bản chất của hình
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
Ngân hàng thương mại Doanh nghiệp bán lẻ
Người tiêu dùng
1 2
3
4
5
11
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
thức này là ngân hàng mua lại các khoản nợ từ các doanh nghiệp bán lẻ trên cơ sở việc
mua bán chịu giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp. Hình thức vay này thường được
áp dụng cho những món vay có giá trị không lớn, người vay phân tán, ở cách xa ngân
hàng. Phương pháp này giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn mà
không lo tới rủi ro không thanh toán từ phía khách hàng, còn ngân hàng thì được lợi do
tiếp cận được một số lượng lớn các khách hàng có nhu cầu tiêu dùng cụ thể, giảm
được chi phí trong khâu tiếp cận khách hàng.
Sơ đồ 1.2: Phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1) Ngân hàng và nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán nợ. Các doanh nghiệp
được lựa chọn thường là các doanh nghiệp có uy tín và quan hệ tài chính với ngân
hàng để tránh rủi ro cho ngân hàng
(2) Nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán chịu và giao hàng cho người tiêu dùng
(3) Nhà cung cấp bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng để được
thanh toán. Sau khi kiểm tra tính chính xác của hợp đồng cũng như những thông tin và
khả năng tài chính của người mua, ngân hàng thanh toán cho doanh nghiệp cung cấp.
(4) Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
1.1.4.3 Căn cứ theo phương thức hoàn trả:

Cho vay tiêu dùng trả góp: là hình thức cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng
lớn nhất tại các ngân hàng thương mại hiện nay. Đây là hình thức cấp tín dụng trong
đó khách hàng vay tiền sẽ trả cho ngân hàng thành nhiều lần theo những kỳ hạn nhất
định trong thời hạn cho vay. Phương thức cho vay này thường áp dụng cho các khoản
vay có giá trị lớn hoặc thu nhập của khách hàng không đủ để trả hết một lần. Ưu điểm
của nó là giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng vì một phần gốc vay đã sớm được thu hồi,
đồng thời có thể sử dụng số tiền này vào các món vay mới. Khách hàng cũng giảm bớt
được gánh nặng chi trả.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp: là hình thức cấp tín dụng tiêu dùng trong đó tiền vay
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
Ngân hàng thương
mại
Doanh nghiệp bán
lẻ
Người tiêu dùng
1
2
3
4
12
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
được thanh toán một lần khi đáo hạn. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản
vay có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn, có ít rủi ro và khách hàng cũng có đủ khả năng thanh toán
hết gốc và lãi trong một lần. Với phương thức này, các ngân hàng cũng tốn ít thời gian và
công sức hơn so với thu tiền thành nhiều lần. Cho vay phi trả góp trên thực tế lại chỉ chiếm
một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Cho vay tiêu dùng theo hình thức thẻ tín dụng (hay cho vay tiêu dùng tuần hoàn):
là khoản cho vay tiêu dùng trong đó khách hàng được ngân hàng cho phép sử dụng thẻ
tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
Những người sở hữu thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần vì họ có thể tính

tiền mua hàng vào thẻ tín dụng của mình. Khách hàng có thể thanh toán hết tiền trước
khi hóa đơn tới ngân hàng thương mại, và sẽ không phải chịu phí, hoặc có thể trả dần
nhưng chịu mức phí hàng tháng dựa theo lãi suất năm. Các ngân hàng và các tổ chức
phát hành thẻ nhận ra rằng phương pháp này mang lại cho họ nhiều lợi nhuận hơn so
với việc khách hàng thanh toán hết trong một lần. Các ngân hàng cũng thu được phí
giảm giá (từ 1% đến 6% doanh thu bán thẻ) từ những nhà buôn và nhà cung cấp dịch
vụ chấp nhận thẻ của họ. Thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng thường xuyên và
quay vòng liên tục giúp cho nhu cầu sử dụng của khách hàng trở nên linh hoạt. Tuy
nhiên vấn đề bảo mật hiện nay trong việc sử dụng loại thẻ này đặt ra yêu cầu phải tăng
cường quản lý chặt chẽ hơn nữa để có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng của khách hàng
và uy tín lâu dài của ngân hàng thương mại.
1.1.4.4 Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay:
Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân
hàng yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay ấy. Tài sản đảm
bảo này có thể là quyền sử dụng đất, sổ tiết kiệm tại ngân hàng,…
Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo (hay cho vay tín chấp): khi vay vốn
khách hàng không cần bất cứ loại tài sản đảm bảo nào, ngân hàng tiến hành cho vay
trên cơ sở tin tưởng vào uy tín của khách hàng.
1.1.4.5 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: là các món vay có thời hạn dưới 1 năm.
Cho vay tiêu dùng trung hạn: là các món vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Và cho vay tiêu dùng dài hạn: là các món vay có thời hạn trên 5 năm.
1.2 Chất lượng cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan điểm về chất lượng cho vay tiêu dùng
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Hoạt động và sự phát triển của nó là nền tảng cho sự bền vững của hệ thống tài chính
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
13
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
mỗi quốc gia. Vai trò mà ngân hàng thương mại đảm nhận hiện nay là không thể thay

thế bởi bất kỳ một tổ chức nào khác. Các ngân hàng đóng vai trò như người thủ quỹ
của toàn xã hội, là tổ chức thu hút tiền gửi lớn nhất trên hầu hết các nền kinh tế, đồng
thời ngân hàng cũng cung cấp nguồn tín dụng cho các chủ thể như doanh nghiêp, hộ
gia đình, cá nhân tiêu dùng…, là một kênh cấp vốn hoạt động có hiệu quả. Ngân hàng
đóng vai trò trung gian thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư, phân phối lại tới những nơi
cần vốn để đầu tư, sản xuất hay tiêu dùng. Thế nên, loại sản phẩm mà ngân hàng cung
cấp cũng mang những giá trị đặc biệt. Không giống như các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất thông thường, sản phẩm làm ra không tốt, doanh nghiệp phá sản, mức độ ảnh
hưởng đến các chủ thể khác trong nền kinh tế sẽ không rộng lớn. Trong khi đó, một sự
đổ vỡ hay khủng hoảng trong hoạt động của một ngân hàng có thể dẫn tới sự đổ vỡ
dây chuyền trong toàn hệ thống, thị trường tài chính và tất nhiên theo sau đó là cả nền
kinh tế, vì mỗi một ngân hàng trong hệ thống là một mắt xích không thể tách rời. Nâng
cao chất lượng hoạt động ngân hàng, mà trước hết là nâng cao chất lượng các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp là một yêu cầu thiết yếu để đảm bảo một sự phát
triển lâu dài.
Nghiệp vụ tín dụng lại là một trong những nghiệp vụ chủ yếu, mang lại nguồn
thu chính cho ngân hàng. Trước sức ép cạnh tranh thị phần hiện nay, mảng tín dụng
doanh nghiệp khó đem về nhiều lợi nhuận cho ngân hàng như trước đây thì mảng tín
dụng cá nhân lại ngày càng chứng tỏ được sức hấp dẫn của nó. Thị trường rộng lớn
của cho vay tiêu dùng cùng với sự phát triển của xã hội và nhu cầu của con người,
khiến càng ngày hoạt động cho vay tiêu dùng càng mở rộng. Ở những nước phát triển
như Mỹ, nguồn thu từ cho vay tiêu dùng luôn chiếm trên 60% tổng nguồn thu của các
ngân hàng thương mại. Lợi nhuận đem lại có thể cao đi kèm với nó là rủi ro cũng rất
lớn. Điều này được minh chứng từ cuộc khủng hoảng ở Mỹ, mà bắt nguồn cũng là từ
việc quản lý không tốt tín dụng tiêu dùng. Theo đó, khi thị trường bất động sản phát
triển mạnh, các ngân hàng thương mại Mỹ đã cho vay các hợp đồng tín dụng nhà ở
dưới chuẩn. Đầu năm 2008, tổng số nợ trên thẻ tín dụng của Mỹ đã lên đến gần 900 tỷ
USD. Nguy hiểm hơn, các tổ chức tài chính phố Wall còn gom các hợp đồng vay mua
nhà này làm tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu chứng khoán hóa (gọi tắt là MBS)
ra thị trường Mỹ và thế giới. Khi giá bất động sản giảm mạnh, một số lớn hợp đồng tín

dụng đảm bảo cho MBS trở thành nợ xấu, MBS mất giá trên thị trường thứ cấp khiến
cho các ngân hàng thương mại và các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu này mất khả năng
thanh khoản, gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cần nhận thấy được mối
quan hệ thuận chiều giữa lợi nhuận và rủi ro, tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây không phải
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
14
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
là vì rủi ro lớn mà hạn chế cho vay. Các nhà quản trị ngân hàng theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi cho vay tiêu dùng. Điều quan trọng là phải có
biện pháp để nâng cao chất lượng các khoản vay, hạn chế thấp nhất các khả năng xấu
có thể xảy ra, đảm bảo hoạt động an toàn mà vẫn mang lại hiệu quả như mong muốn.
Chất lượng tín dụng là một phạm trù kinh tế rộng, bao hàm nhiều nội dung. Khi
mới ra đời, chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong cách hiểu là cho vay an toàn. Nó phản
ánh mức tổn thất trực tiếp phát sinh từ rủi ro đối với các khoản vay xấu. Một khoản
vay được coi là có chất lượng nếu nó được hoàn trả theo đúng hợp đồng. Dần dần,
theo sự phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng và yêu cầu của phát triển kinh tế, các quan
điểm về chất lượng cho vay cũng ngày một thay đổi và đòi hỏi khắt khe hơn. Chất lượng
cho vay hiện nay được đánh giá trên tổng thể tất cả các tiêu chí, bao gồm cả trừu tượng
lẫn cụ thể và việc đánh giá chúng cũng có sự linh động nhất định. Nhìn chung có thể hiểu:
“Chất lượng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh
tế - xã hội và đảm bảo sự phát triển tồn tại của ngân hàng”. Chất lượng cho vay giờ đây
không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào cả khách hàng
nữa. Điều này đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng ngân hàng vừa tạo ra được hiệu
quả kinh tế lại vừa mang lại những hiệu quả xã hội cần thiết.
Chất lượng cho vay được thể hiện như sau:
Chất lượng cho vay tiêu dùng thể hiện ở sự phù hợp giữa phạm vi, mức độ, giới
hạn của khoản vay với khả năng tài trợ của bản thân ngân hàng đó. Một ngân hàng
nhỏ, với việc bị hạn chế cả về khả năng huy động cũng như cung ứng vốn, sẽ gặp phải
những khó khăn nhất định khi thỏa mãn một cách tốt nhất khách hàng của mình. Ở
Việt Nam hiện nay, ngân hàng Nhà nước đưa ra quy định về giới hạn quy mô cho vay

đối với một khách hàng cũng như với một nhóm khách hàng như sau: Theo Thông tư
13/2010/TT-NHNN mới được ban hành và chính thức áp dụng từ ngày 01/10/2010 thì
mức dư nợ cho vay tối đa với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của ngân hàng và tỷ lệ này đối với một nhóm khách hàng liên quan là 25%. Bên cạnh
đó thì khả năng mở rộng danh mục đầu tư trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
cũng bị hạn chế đi khi mà tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được quy định lại, theo đó phải đạt
tối thiểu 9%, đã làm giảm khả năng tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng điều này
buộc các ngân hàng thương mại phải giám sát quản lý danh mục cho vay sao cho phù hợp
với khả năng và quy mô của mình đồng thời cũng phải thống nhất với quan điểm kinh
doanh của các nhà quản trị. Chính những điều này sẽ quyết định tới chất lượng cho vay tại
ngân hàng đó nói chung và cho vay đối với hoạt động tiêu dùng nói riêng.
Khách hàng khi tìm đến ngân hàng để xin cấp tín dụng, tâm lý chung luôn mong
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
15
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
muốn nhu cầu của mình sẽ được ngân hàng thỏa mãn càng nhanh càng tốt, bất cứ sự
chậm trễ nào cũng làm gia tăng chi phí cơ hội và có thể làm ảnh hưởng đến kế hoạch
định trước của họ. Đăc biệt là đối với các khoản vay tiêu dùng, khi khách hàng đã có
nhu cầu thì họ luôn có xu hướng thực hiện những mua sắm ấy ngay lập tức. Do đó, đối
với vay tiêu dùng thì chất lượng cho vay trước hết thể hiện ở thủ tục vay của ngân
hàng và mức độ thuận tiện đến đâu của các thủ tục đó, tiếp đến mới là sự hợp lý trong
lãi suất, sự phù hợp của nó với kế hoạch sử dụng vốn vay và trả nợ ngân hàng của
khách hàng, một yếu tố nữa làm nên chất lượng các khoản vay chính là sự nhiệt tình
và thái độ đón tiếp của các cán bộ tín dụng. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng
tiêu dùng sẽ thu hút được thêm nhiều khách hàng mà vẫn đảm bảo được các nguyên
tắc cần thiết.
Chất lượng tín dụng tiêu dùng còn thể hiện ở sự hỗ trợ của nó đối với các tác
nhân trong nền kinh tế. Cho vay tiêu dùng phục vụ nhu cầu cải thiện cuộc sống của cá
nhân, hộ gia đình, góp phần nâng cao mức sống, tạo môi trường sinh hoạt, làm việc và
giải trí lành mạnh cho dân cư. Đồng thời, hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp trong việc

tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất, mở rộng kinh doanh, phát triển sản phẩm mới
phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu xã hội, vừa là làm giàu cho chính doanh nghiệp
vừa là góp phần xây dựng kinh tế đất nước. Thông qua việc quản lý chất lượng hoạt
động tín dụng tiêu dùng, ngân hàng thương mại đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng
Tín dụng là mảng hoạt động đóng vai trò chủ chốt, là hoạt động trọng tâm của
bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Chất lượng tín dụng không chỉ mang tính chất
quyết định đến sự tồn tại của bản thân ngân hàng mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến
khách hàng của ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, việc
nâng cao chất lượng tín dụng trong đó có tín dụng tiêu dùng là hoạt động cần thiết mà
mỗi ngân hàng cần quan tâm thực hiện.
Đối với ngân hàng thương mại, nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng góp phần giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động tín dụng, từ đó ngăn chặn khả năng có thể dẫn tới sự đổ vỡ của cả hệ
thống ngân hàng.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng góp phần tăng khả
năng sinh lời cho ngân hàng thông qua việc thu lãi từ nguồn tiền cho vay với số lượng
món vay lớn và lãi suất tương đối cao.
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
16
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng làm tăng khả năng
cung cấp vốn của ngân hàng thương mại do có thêm nguồn vốn được tạo ra từ việc
tăng vòng quay vốn tín dụng, từ đó thu hút được thêm nhiều đối tượng khách hàng
mới thông qua đa dạng hóa các hình thức cho vay, tạo ra một hình ảnh tốt về uy tín
cũng như năng lực tài chính của ngân hàng thương mại.
Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng giúp cho ngân hàng
phát triển một cách bền vững, củng cố các mối quan hệ từ đó tạo ra môi trường hoạt

động kinh doanh thuận lợi cho ngân hàng.
Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng sẽ mở rộng số lượng khách hàng tham
gia vay vốn, cầu tiêu dùng tăng giúp cải thiện mức sống, là động lực cho sự phát triển
con người, xã hội cũng được hưởng những tác động tích cực từ đó. Nâng cao chất
lượng cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng. Bởi lẽ, hoạt động cho vay của ngân hàng là một công cụ tài trợ hiệu quả,
nó đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế với chi phí thấp hơn nhiều so với việc sử dụng
các loại vốn khác. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn là công cụ để Nhà nước điều
tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông, thực hiện các chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế
vĩ mô, vì ngân hàng thương mại là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo
tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Ngoài ra, nâng cao chất lượng cho
vay sẽ tạo nên xu hướng cạnh tranh giữa các ngân hàng, qua đó làm tăng chất lượng và
hiệu quả hoạt động của cả thị trường tài chính.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng:
1.2.3.1 Các chỉ tiêu định tính:
Cơ sở pháp lý:
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại phải dựa trên cơ sở các quy
định của Nhà nước và ngân hàng Trung ương thông qua việc hướng dẫn hoạt động
bằng các văn bản pháp luật. Khung pháp lý mà Nhà nước quy định đối với hoạt động
ngân hàng vẫn là chỉ tiêu cần xem xét trước nhất khi đánh giá chất lượng của các
khoản vay, là điều kiện tiên quyết của một khoản vay có chất lượng. Mặc dù hiện nay
xu hướng giảm và dần xóa bỏ hoàn toàn bao cấp của Nhà nước đối với các doanh
nghiệp và ngân hàng đã tạo quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại nhưng lĩnh
vực tài chính – tiền tệ vẫn là mối quan tâm hàng đầu và cần có những điều chỉnh của
chính phủ vì mức ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế nói chung là rất lớn.
Mức độ đổi mới trong hoạt động cho vay tiêu dùng:
Trong hoạt động ngân hàng, vấn đề tự đổi mới để hoàn thiện và theo kịp với tốc
độ phát triển của lĩnh vực hoạt động là yếu tố vô cùng quan trọng. Đi đầu giúp ngân
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
17

Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
hàng chiếm được thị phần lớn và thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt như hiện nay, muốn tồn tại được ngân hàng nhất thiết phải đổi mới. Sự đổi mới
trong hoạt động cho vay tiêu dùng được thể hiện qua các chỉ tiêu như:
Sự đa dạng hóa các sản phẩm cho vay tiêu dùng, bao gồm cả việc cải tiến và
hoàn thiện các sản phẩm cũ, cho ra đời các loại sản phẩm mới. Trong đó, sản phẩm
mới đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn được đánh giá cao.
Mức độ mở rộng các đối tượng khách hàng của cho vay tiêu dùng. Số lượng các
chi nhánh và phòng giao dịch thành lập mới. Những đổi mới trong điều kiện vay vốn
như mở rộng hạn mức, tăng tỷ lệ số tiền được vay trên giá trị tài sản đảm bảo nhưng
vẫn đảm bảo an nguyên tắc an toàn hoạt động,…
Mức độ hài lòng của khách hàng:
Trong hoạt động kinh doanh, sự tín nhiệm và mức độ hài lòng của khách hàng về
sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp không những có tác dụng duy trì lượng khách
hàng vốn có mà còn thu hút thêm các khách hàng mới. Vay tiêu dùng là khoản vay
dành cho cá nhân, cảm nhận của họ về ngân hàng có thể không có ảnh hưởng quá rộng
lớn như là đối với doanh nghiệp nhưng lại có giá trị tác động mạnh đến những đối
tượng khách hàng có liên quan khác.
Ngoài hai chỉ tiêu nêu trên, còn một số các chỉ tiêu định tính khác có thể dùng để
đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng như: trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng
cá nhân (như độ an toàn và chính xác trong việc thực hiện nghiệp vụ, tốc độ xử lý các
giao dịch ), các chính sách tín dụng riêng trong việc triển khai hoạt động cho vay tiêu
dùng của ngân hàng thương mại,…
1.2.3.2 Các chỉ tiêu định lượng
Doanh số cho vay tiêu dùng:
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng tiêu dùng của ngân hàng cho nền
kinh tế, nó phản ánh hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng đã phát triển ở mức
độ nào. Ngân hàng có doanh số cho vay tiêu dùng càng lớn chứng tỏ hoạt động này
của nó càng phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mỗi khoản vay sẽ có thời hạn khác
nhau và mức độ trả nợ của khách hàng cũng khác nhau, doanh số cho vay không phải

là yếu tố duy nhất ảnh hưởng tới tiền lãi hay thu nhập của ngân hàng.
Chỉ tiêu này cũng phản ánh chính xác về quy mô hoạt động cho vay tiêu dùng
của ngân hàng trong một thời kỳ dài. Nó cho thấy được khả năng hoạt động trong cho
vay tiêu dùng qua các năm. Do đó, nếu kết hợp doanh số cho vay của các thời kỳ liên
tiếp thì có thể thấy được xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Doanh số cho vay tiêu dùng là tổng giá trị các khoản tín dụng cấp cho hoạt động
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
18
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
tiêu dùng trong một thời kỳ nhất định. Công thức tính:
Doanh số cho vay tiêu dùng = ∑ Các khoản tín dụng cấp cho vay tiêu dùng.
Dư nợ cho vay tiêu dùng:
Chỉ tiêu này cũng đánh giá tương tự như chỉ tiêu doanh số cho vay, tuy nhiên lại
mang tính chất thời điểm trong khi doanh số là chỉ tiêu mang tính chất thời kỳ. Nó
phản ánh khối lượng tín dụng tiêu dùng ngân hàng cấp cho các cá nhân và hộ gia đình
tại một thời điểm nhất định. Người ta có thể lấy dư nợ cho vay tiêu dùng tại các thời
điểm khác nhau trong kỳ tính toán để đánh giá khả năng mở rộng mạng lưới khách
hàng, tốc độ cũng như chu kỳ phát triển của hoạt động cho vay. Tuy vậy không có
nghĩa là dư nợ tín dụng tiêu dùng càng cao thì chất lượng cho vay càng hiệu quả. Bởi
lẽ, khi cho vay quá nhiều cũng là lúc ngân hàng đối mặt với những rủi ro. Khi đem so
sánh dư nợ cho vay tiêu dùng với thị phần hiện có, chúng ta sẽ biết được dư nợ thời
điểm ấy của ngân hàng là thấp hay cao và từ đó sẽ có biện pháp điều chỉnh hợp lý.
Thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng:
Thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng chính là các khoản thu nhờ vào lãi của
các khoản tín dụng cấp cho hoạt động tiêu dùng. Mỗi một khoản lãi của cho vay tiêu
dùng thì dựa trên khoản tín dụng cấp cho hoạt động tiêu dùng đó và lãi suất tương ứng
với từng khoản cho vay ấy.
Thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng = ∑ (Lãi suất * Khối lượng tín dụng cho
vay tiêu dùng tương ứng).
Khoản thu lãi tăng cho thấy doanh số cao từ hoạt động cho vay tiêu dùng là có

hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh số cao trong khi khoản thu lãi lại giảm hoặc không
tăng thì chứng tỏ chất lượng các khoản vay có vấn đề, hoạt động tín dụng tiêu dùng
của ngân hàng không có hiệu quả. Trường hợp cả doanh số và khoản thu lãi đều thấp
chứng tỏ huy động để cho vay tiêu dùng của ngân hàng chưa được chú trọng một cách
đầy đủ, chất lượng cho vay tiêu dùng còn chưa cao dẫn đến các khoản vay tiêu dùng ít,
chưa thu hút được khách hàng, lợi nhuận làm ra chưa nhiều.
Người ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ trọng thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng trên
tổng lãi thu được từ cho vay để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng.
Tỷ trọng thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng trên tổng thu lãi được tính = thu
lãi từ cho vay tiêu dùng/tổng thu lãi
Chỉ tiêu này cho biết thu lãi từ cho vay tiêu dùng đóng góp bao nhiêu phần trăm
vào thu lãi từ cho vay, giúp nhà quản lý ngân hàng hoạch định chiến lược phát triển
cho vay tiêu dùng xứng đáng với sự đóng góp và tiềm năng tương lai của nó.
Chỉ tiêu mức độ sử dụng vốn huy động được vào hoạt động tín dụng tiêu dùng:
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
19
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
Mức độ sử dụng vốn vào tín dụng tiêu dùng = Tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng tiêu
dùng/ Tổng vốn huy động.
Tất cả các nguồn tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng đều có nguồn gốc từ số
tiền mà ngân hàng huy động được từ nền kinh tế. Để có những cân đối trong việc sử
dụng nguồn huy động này vào các hình thức cho vay, ngân hàng cần quan tâm đến chỉ
tiêu này để có định hướng phát triển đúng đắn.
Tỷ lệ nợ quá hạn trong hoạt động cho vay tiêu dùng:
Tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho
vay tiêu dùng và dư nợ cho vay tiêu dùng của NHTM ở một thời điểm nhất định
(thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm).
Tỷ lệ nợ quá hạn trong hoạt động CVTD = (Nợ quá hạn CVTD/ Tổng dư nợ
CVTD) * 100%.
Trên thực, người ta còn chia tỷ lệ nợ quá hạn ra thành hai loại là tỷ lệ nợ quá hạn

có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Căn cứ vào tỷ lệ
hai loại nợ quá hạn này trên trong tổng nợ quá hạn có thể đánh giá chính xác hơn chất
lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
Nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng là một hiện tượng tất yếu song vấn đề quan
trọng là phải giảm tỷ lệ này xuống mức thấp nhất có thể. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá
hạn trong cho vay tiêu dùng cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng cho vay tiêu dùng
thấp. Đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng
cho vay tiêu dùng nói riêng và chất lượng cho vay nói chung của ngân hàng thương
mại. Chất lượng tín dụng cho vay tiêu dùng tỷ lệ nghịch với độ lớn của chỉ tiêu này.
Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ tín dụng tiêu dùng của ngân hàng có độ rủi ro
càng cao, công tác thu hồi nợ của ngân hàng chưa hiệu quả, do đó sẽ ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán của ngân hàng. Chỉ tiêu này cũng cho thấy không phải lúc nào dư
nợ tín dụng cao cũng tốt vì nếu ngân hàng không có chiến lược quản lý nợ tốt sẽ phát
sinh nhiều nợ quá hạn.
Vòng quay vốn cho vay tiêu dùng:
Vòng quay vốn cho vay tiêu dùng được tính toán như sau:
Vòng quay vốn cho vay tiêu dùng = Doanh số thu nợ CVTD trong kỳ/ Dư nợ
CVTD bình quân trong kỳ.
Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch: theo hợp đồng tín dụng. Vòng quay vốn cho
vay tiêu dùng cho biết hiệu quả trong việc sử dụng vốn cho vay tiêu dùng của ngân
hàng. Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng tiêu dùng và
chất lượng tín dụng tiêu dùng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chỉ số này
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
20
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
phản ánh số vòng chu chuyển của vốn cho vay cũng như tốc độ luân chuyển của vốn
nhanh hay chậm. Vòng quay của vốn tín dụng tiêu dùng càng cao chứng tỏ nguồn vốn
vay ngân hàng luân chuyển càng nhanh, khả năng thu nợ tốt và việc sử dụng vốn cho
vay tiêu dùng càng hiệu quả. Vòng quay vốn cho vay tiêu dùng nhỏ hơn hoặc bằng với
chu kỳ kinh doanh của khách hàng cho thấy khách hàng trả nợ đúng hạn, chất lượng

cho vay tiêu dùng của ngân hàng tốt. Ngược lại, khách hàng không thể hoàn trả nợ
đúng hạn, làm phát sinh nợ quá hạn, điều này phản ánh chất lượng cho vay tiêu dùng
là thấp.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại
1.2.4.1 Nhân tố khách quan
Nhân tố ảnh hưởng từ môi trường hoạt động của ngân hàng thương mại
Môi trường kinh tế: Sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo cơ hội mở rộng tín dụng tiêu
dùng một cách có hiệu quả. Đặc biệt là sự ổn định tiền tệ với các chỉ tiêu giá cả, lãi
suất, tỷ giá, lạm phát sẽ làm yên tâm định chế tài chính cho vay vốn, đồng thời, các đối
tượng vay vốn cũng có thêm cơ hội việc làm, tăng thu nhập, giúp họ yên tâm trong
việc ổn định nguồn thu trả nợ ngân hàng. Từ đó làm gia tăng các khoản vay tiêu dùng.
Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn, khủng hoảng kéo dài, một mặt sẽ
làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân, mặt khác sẽ hạn chế các tổ chức tài chính
cấp tín dụng tiêu dùng. Các khoản vay chịu tác động của những biến động trên thị trường
tài chính bất ổn có thể dẫn tới đổ vỡ tín dụng. Song những thay đổi tích cực trong kinh tế
vĩ mô nếu diễn ra quá nhanh cũng sẽ tạo ra những xáo trộn nhất định. Ví dụ như, khi tỷ lệ
lạm phát và lãi suất trên thị trường giảm quá nhanh có thể dẫn tới tình trạng vỡ nợ đối với
những món vay có lãi suất dựa trên tỷ lệ lạm phát cao hơn trước đó.
Các chính sách đối với hoạt động tiêu dùng trong nước của Chính phủ cũng sẽ có
tác dụng mở rộng hay thu hẹp thị trường tín dụng tiêu dùng. Quan điểm của Chính phủ
về vai trò của tiêu dùng trong nước đối với phát triển và tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển của hoạt động này. Trong một thời kỳ nhất định, khi
Chính phủ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo hướng coi trọng các hoạt động
xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác (tức là coi trọng tiêu dùng của người nước
ngoài) thì hoạt động tiêu dùng trong nước sẽ ít được quan tâm hơn.
Môi trường chính trị pháp luật: Môi trường pháp lý ổn định, khuôn khổ pháp luật
tốt giúp hoạt động cho vay diễn ra trôi chảy, an toàn, hiệu quả và thống nhất. Chính vì
thế, sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. Hệ thống pháp
luật hoàn thiện là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển thị trường tài chính một cách an

Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
21
Chuyên đề thực tập Lớp K8B4 - Khóa 8
toàn, ổn định; thúc đẩy các định chế tài chính nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ tài
chính chất lượng cao cho dân cư, đảm bảo quan hệ hợp tác bình đẳng giữa các ngân
hàng và khách hàng vì lợi ích của cả hai bên. Hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ và sát
với thực tiễn của hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ tạo định hướng hoạt động kinh doanh
sao cho có lợi nhất cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ tài chính, lại giúp cho
ngân hàng tránh được những tổn thất trong hoạt động cho vay. Không những các văn
bản liên quan trực tiếp đến cho vay tiêu dùng mà các văn bản có liên quan tới: quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quy định về vật thế chấp… cũng có nhiều ảnh hưởng
tới chất lượng của hoạt động này.
Môi trường văn hóa xã hội: Các thói quen trong việc sử dụng các dịch vụ của
ngân hàng, trình độ dân trí, sở thích, tiết kiệm và chi tiêu… có ảnh hưởng lớn tới việc
đưa ra quyết định lựa chọn cho vay tiêu dùng. Ở Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc, khi
mà tỷ lệ chi cho tiêu dùng chỉ chiếm một phần khiêm tốn trong tổng thu nhập của
người dân thì cho vay tiêu dùng đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài để tuyên truyền,
quảng bá, thuyết phục mới có thể có được một vị trí phát triển xứng đáng.
Môi trường cạnh tranh: các ngân hàng thương mại hiện nay đang tồn tại trong
một môi trường cạnh tranh khốc liệt với sáu ngân hàng quốc doanh, ba mươi tám ngân
hàng thương mại cổ phần, năm ngân hàng liên doanh, bốn mươi hai chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và hàng chục các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính khác.
Ngân hàng thương mại luôn phải tìm cách thu hút khách hàng về phía mình. Số lượng
ngân hàng hoạt động trên cùng một địa bàn cũng ngày càng lớn, với một lượng hữu
hạn các khách hàng thì sự cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần cũng trở nên ngày một
gay gắt.
Nhân tố thuộc về phía khách hàng
Trình độ dân trí và đạo đức của khách hàng: Khi trình độ dân trí cao, người dân
có nhu cầu đầu tư nhiều hơn vào chất xám, muốn tiếp cận gần hơn với một cuộc sống
hiện đại thì nhu cầu tiêu dùng cũng tăng cao, dẫn tới nhu cầu vay vốn ở ngân hàng

cũng tăng. Rất nhiều trường hợp người vay sẵn sàng mạo hiểm, để đạt được mục đích
họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, cung cấp thông tin sai lệch, mua chuộc cán bộ tín
dụng,…để được vay vốn dẫn đến khả năng không thu hồi được nợ, làm giảm sút chất
lượng cho vay.
Nhu cầu của khách hàng: Trong cuộc sống, con người luôn phát sinh những nhu
cầu phục vụ cho việc tiêu dùng. Tuy vậy, không phải nhu cầu nào cũng được đáp ứng
ngay lập tức. Nó còn phụ thuộc vào thu nhập, trình độ văn hóa, thói quen, đạo đức… của
từng khách hàng. Trong đó, thu nhập là yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc khách
Nguyễn Thị Bích Liên MSV 08C14010058
22

×