Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.81 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng Trang
Bảng
01
Tình hình huy động vốn
Bảng
02
Tình hình sử dụng vốn
Bảng
03
Tình hình dư nợ
Bảng
04
Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu
Bảng
05
Thực trạng nợ quá hạn phân theo thời
gian quá hạn
Bảng
06
Nợ quá hạn theo tài sản đảm bảo và
theo thành phần kinh tế
Bảng
07
Tình hình lãi treo
Bảng
08
Tình hình trích lập dự phòng rủi ro
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B


Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNNVN Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
UBND Ủy ban nhân dân
TCTD Tổ chức tín dụng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế để từng bước phát triển,
hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều
khó khăn thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là
“đòn bảy kinh tế” thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy
sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực theo định hướng của Nhà Nước.
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong Ngân hàng Thương mại bao gồm 2
mặt: Sinh lời và rủi ro. Đây là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng,
tuy nhiên hoạt động tín dụng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân Ngân hàng
thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế
rủi ro tín dụng luôn được Ngân hàng quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng
Ngoại thương Chi nhánh Hoàn Kiếm, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp

hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hoàn
Kiếm”.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là:
• Nghiên cứu các vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết, các
nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
• Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Ngoại thương Hoàn Kiếm để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín
dụng của chi nhánh.
• Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế
rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hoàn
Kiếm.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
Để giải quyết từng vấn đề trên, chuyên đề gồm 3 chương cơ bản sau:
Chương 1: Lý thuyết chung về hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương
mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
chi nhánh Hoàn Kiếm.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm.
Do thời gian thực tập cũng như trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên
chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong muốn nhận được
những ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo để chuyên đề của em được hoàn thiện
hơn và có chất lượng hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN

DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. KHÁI NIỆM
Tín dụng là giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay là ngân
hàng và các định chế tài chính khác, với bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp.
Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Bên cạnh đó quan hệ tín dụng cũng cần được hiểu là quan hệ hai chiều và
ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ chốt, là hoạt động sinh lời lớn nhất song
rủi ro cao nhất của NHTM, để tạo ra lợi nhuận nhằm bù đắp những chi phí phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, trong đó có chi phí bù đắp rủi ro tín dụng và các chi
phí khác.
1.1.2. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.2.1. Tín dụng chia theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
 Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử
dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục
vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này ít có rủi ro cho ngân
hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì ngân hàng
có thể dự tính được.
 Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm
và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà

Loại tín dụng này có mức rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán được
những biến động có thể xảy ra.
 Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến tàu, máy bay…), cải tiến và mở rộng sản
xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian
dài có những biến động xảy ra không lường trước được.
Việc xác định thời hạn trên chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay
không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có
ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lợi của tài sản.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín
dụng trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách
hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn,
nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kỳ
hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng,
khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn…
1.1.2.2. Tín dụng chia theo hình thức tài trợ
Theo luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê, chiết khấu, bảo lãnh, bao thanh toán
và một số hoạt động khác do Ngân hàng Nhà Nước quy định.
 Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản
lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng cho 2 chỉ tiêu:
Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số
tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng
hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Cho vay bao gồm:
 Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi trội(vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.

SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
Số lãi khách hàng phải trả là:
lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x số tiền thấu chi
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình
thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời… Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn,
linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh
nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi
các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với
khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
 Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng
thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt
mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất
định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy
mô cho vay và thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu
cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể
tính cho cả ký hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho
những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào
quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước
ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động
quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành

các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
 Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay
phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau
về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng
tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm.
Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan
hệ với khách hàng, quyết định có cho vay nữa hay không, tùy mối quan hệ giữa
ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
 Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho các tài sản
cố định hoặc lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ( thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập
hàng kỳ của người tiêu dùng). Cho vay trả góp có rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả
góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.
Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình
thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Cho vay gián tiếp thường được áp
dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân
hàng. Trong trương hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí
vay.
 Cho thuê: Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua
tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ( hoặc chưa đủ)
điều kiện để vay. Để mở rộng hoạt động tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo
yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu

của Ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi
người thuê không trả nợ gốc. Điều này góp phần giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng.
Trong nghiệp vụ cho thuê ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách
hàng và sau thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi. Tài sản cho thuê thường là
tài sản cố định. Vì vậy cho thuê được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Khách
hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê định kỳ.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
 Bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình
thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
ngân hàng, khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh thường có ba bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và bên
bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng
của ngân hàng là người được bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Bảo lãnh bao gồm: Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn
vay (bảo lãnh vay vốn).
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ cảu ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách
hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín.
Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như
tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân
hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp
vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh
cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích
khách hàng như khi cho vay.
 Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán
hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng bán

hàng hóa.
Kết luận: Thông qua nghiệp vụ tín dụng bao gồm chiết khấu, cho vay, cho
thuê, bảo lãnh và bao thanh toán, ngân hàng góp phần tài trợ nhu cầu vốn của khách
hàng. Các nghiệp vụ tín dụng đa dạng nhằm phù hợp với quá trình luân chuyển vốn
và chu kỳ thu nhập của khách hàng.
1.1.2.3. Tín dụng chia theo hình thức đảm bảo
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên tắc
mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi
vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về
việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của
người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
 Tín dụng có đảm bảo: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như:
thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài sản
của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các nghĩa vụ
đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với
những khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng. Mặc dù là có tài sản đảm
bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá
hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
 Tín dụng không có đảm bảo: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp,
cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử
dụng tiền vay của người vay, khách hàng không được phép giao dịch với bất kỳ
ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín
dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất
cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo.
1.1.2.4. Tín dụng phân loại theo rủi ro

Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để
phân loại các tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để
chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia đến 10 thang bậc rủi ro tín dụng, tức là
xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp
ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản
tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
 Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì.
1.1.2.5. Phân loại khác
 Theo ngành kinh tế: Công, nông nghiệp…
 Theo đối tượng tín dụng: Tài sản lưu động và tài sản cố định…
 Theo mục đích: Sản xuất, tiêu dùng…
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong cấp
tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi
tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Cách phân
loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực
tài trợ, để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. KHÁI NIỆM
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả

vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là
khoản vay là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất.Tuy nhiên những khoản cho vay đó
luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân
hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước
trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự
kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu cấp thiết về nguồn vốn đầu tư
càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng ngày càng cao. Nguồn thu nhập chính của các
NHTM là từ lãi suất mà người vay sẽ thanh toán cho ngân hàng, phần khác là từ
hoạt động trao đổi các món vay hoặc từ việc bảo đảm và cung cấp các dịch vụ
tương tự. Nguồn thu nhập này chủ yếu phụ thuộc vào doanh số và lãi suất cho vay.
Tuy nhiên không có gì đảm bảo chắc chắn rằng tiền vay và tiền lãi sẽ được
khách hàng hoàn trả đúng hạn và đầy đủ. Sự mất mát vốn vay và thu nhập này do
nhiều nguyên nhân khác nhau, đó chính là những rủi ro mà ngân hàng thường gặp
khi cho vay. Những rủi ro này là một nhân tố quan trọng có thể quyết định sự tồn tại
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
của cả một ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu chính của các nhà quản trị rủi ro tín dụng là
đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có thể chấp nhận được. Trong điều kiện
cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng gia tăng và bị áp lực từ
nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình trạng rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng của
ngân hàng đang được hết sức chú trọng.
1.2.2. CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH RỦI RO TÍN DỤNG
Rủi ro gây ra làm thiệt hại rất lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn
tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và các NHTM
nói riêng cần phải dự đoán được rủi ro để có những giải pháp quản lý và phòng
chống rủi ro, chấp nhận rủi ro mức hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại
không có rủi ro, nhưng rủi ro quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ, thậm chí
phá sản. Cán bộ Ngân hàng cần ý thức được rằng: Các chiến lược kinh doanh vạch

ra cho dù cẩn thận, tỷ mỷ đến đâu cũng có thể gặp thất bại. Chiến lược kinh doanh
càng táo bạo, cạnh tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu lợi
nhuận lớn song cũng dễ vướng phải tổn thất nặng nề.
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Để có thể đánh giá được
đúng mức độ rủi ro tín dụng các NHTM cần phải dựa trên một số chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp
càng tốt, nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt quá tiêu
chuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một cách chính xác hơn
về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng ta cần phải đánh giá kèm theo chỉ tiêu vòng
quay của các khoản nợ quá hạn này, khả năng giải quyết các khoản nợ quá hạn. Bởi
vì tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải quyết nợ quá hạn hay vòng quay của các
khoản nợ quá hạn cao thì khả năng ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ thấp. Và ngân
hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng. Trong đó:
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn.
Nợ quá hạn khó đòi
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, được xác định là
không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn thấp,
nguy cơ mất vốn cao, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp.
- Tỷ lệ nợ xấu:
Nợ xấu
Tổng dư nợ
- Lãi treo: Là khoản lãi tính trên nợ gốcvà các khoản cho vay của ngân hàng

nhưng chưa thu hồi được. Tổng các khoản lãi treo trên các món nợ càng thấp càng
tốt. Lãi treo càng cao phản ánh rủi ro mất vốn của ngân hàng càng lớn, ngân hàng
có khả năng mất cả vốn lẫn lãi. Lãi treo làm giảm doanh thu của ngân hàng. Lãi treo
làm giảm doanh thu của ngân hàng.
- Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng:
Số tiền phải trích
Tổng dư nợ
1.2.3. NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO TÍN DỤNG
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của NHTM – hoạt động tín dụng. Hơn nữa, trong kinh doanh không một ngân hàng
nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề có thể xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay
của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, rủi ro
tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Có thể nói rằng rủi ro tín dụng là
bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Mặt
khác, tình hình tiền tệ thế giới có nhiều ảnh hưởng tới nền kinh tế nước ta, do đó có
nhiều ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân hàng. Đứng trên những góc độ khác
nhau có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của các NHTM.
1.2.3.1. Nguyên nhân bất khả kháng
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, cho vay không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách hàng
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
mà do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột ngột,
khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và
ngân hàng cho vay. Bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau:
- Do sự thay đổi chính sách của Chính phủ.
Nước ta đang thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
thị trường. Do đó phải tuân thủ và chấp nhận sự biến động theo quy luật của nền
kinh tế thị trường. Mỗi khi nền kinh tế biến động lên xuống thì lập tức Chính phủ

phải đưa ra các chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn
chế ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế đất nước. Các chính sách của Chính phủ thường
xuyên quan tâm và có sự thay đổi kịp thời là:
 Chính sách tài chính: Chính sách này liên quan đến cơ chế thu chi ngân
sách Chính phủ.
 Chính sách tiền tệ: Chính phủ sử dụng các công cụ như: Lãi suất chiết khấu,
dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… Để điều chính mức cung ứng tiền tệ khi
có biến động xảy ra.
 Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi chính phủ
điều chỉnh sẽ gây ảnh hưởng không tích cực cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
Tuy nhiên nếu NHTM nắm bắt được thông tin kinh tế kịp thời thì sẽ hạn chế được
rủi ro xảy ra.
- Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi
trường kinh doanh của NHTM sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại, nếu môi trường
pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi dụng, gây ra tình trạng tham
ô, chiếm đoạt tài sản…Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh gặp nhiều
khó khăn, ngân hàng cho vay gặp nhiều rủi ro.
- Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu
tố khó đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm soát của con
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
người. Vì vậy, khi có thiên tai, bệnh dịch xảy ra khách hàng cùng ngân hàng cho
vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án,dự án kinh doanh không có nguồn thu…
Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẻ rủi ro với khách
hàng của mình. Ở Việt Nam do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên

được coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
cho vay khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế.
- Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong một nước biến động chịu ảnh hưởng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân phát sinh rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế,
trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro nhất.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay phụ thuộc rất nhiều vào thói quen, tập quán
của người dân, truyền thống… Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế
mở rộng hoạt động cho vay của các ngân hàng.
Tất cả những nguyên nhân khách quan trên nếu không được dự báo và có biện
pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh và
điều kiện kinh doanh của ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn.
Khi khách hàng gặp phải rủi ro do nguyên nhân khách quan gây nên, họ không
còn đủ khả năng thực hiện cam kết trong hợp đồng, khả năng trả nợ của khách hàng
bị suy giảm. Khi đó ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng để khách hàng khôi phục
lại hoạt động kinh doanh tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng.
1.2.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Các yếu tố chủ quan từ phía bên đi vay như: Khả năng kinh doanh yếu kém
hay bên đi vay có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… Cũng gây nên các tổn thất
cho ngân hàng. Trường hợp này nếu bên cho vay phát hiện sớm thì có thể ngăn
chặn.
Hiện nay với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế bên đi vay thường gặp
những rủi ro sau:
 Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào tăng
cùng với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi nguồn dự thu, dự tính
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
của khách hàng, như vậy việc trả nợ cho các ngân hàng cho vay gặp nhiều khó

khăn.
 Do thị trường đầu ra: Thị trường đầu ra nếu có biến động phức tạp, giá cả
giảm thấp cũng làm nguồn thu của khách hàng không đảm bảo, ngoài ra sự thay đổi
thị hiếu tiêu dung, cung vượt quá cầu… cũng gây nên tình trạng ứ đọng sản phẩm
làm ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho các ngân hàng.
 Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có hay thu nhập
của khách hàng nhỏ, khách hàng sẽ không có khả năng tự vực dậy khi gặp khó khăn
vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến ý thức trả nợ của khách hàng
nhiều khi chưa tốt, nhiều đối tượng khách hàng sau khi nhận được tiền vay rồi bỏ
trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng. Trong nhiều trường hợp người
vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, họ chây ì với
hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.3.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
 Do chính sách của ngân hàng cho vay không phù hợp, thiếu sự kiểm soát
chặt chẽ hoặc đặt mục tiêu lợi nhuận quá cao. Chúng ta đều biết đặc điểm của kinh
doanh tiền tệ là lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao.
 Trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém dẫn đến
cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay vốn, từ
đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường
hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám
sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là về phẩm chất đạo đức
của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng phải không
những có trình độ mà phải có đạo đức tốt, trước sự cám giỗ của vật chất nhiều cán
bộ ngân hàng đã xa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy
định…gây tổn thất to lớn cho ngân hàng.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân gây rủi ro từ vấn đề đảm bảo tiền vay.
Trong hoạt động cho vay việc đảm bảo tài sản cho các khoản vay được định
giá gốc và ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng vay. Rủi ro có thể xảy ra
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B

14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
do ngân hàng cho vay không đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài
sản thế chấp có biến động theo chiều hướng xấu.
Tóm lại: Việc nghiên cứu các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có ý nghĩa
rất lớn giúp cho các ngân hàng đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn
chặn rủi ro xảy ra cho hoạt động kinh doanh của mình.
1.3. HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1. KHÁI NIỆM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
Hạn chế rủi ro tín dụng là sử dụng các biện pháp phòng ngừa và xử lý khi có
rủi ro xảy ra. Nhằm hạ thấp rủi ro tín dụng , nâng cao mức độ an toàn trong kinh
doanh của NHTM.
1.3.2. BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.2.1. Nhóm biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Nâng cao khả năng tự đề kháng rủi ro là một cách phòng ngừa rủi ro tốt nhất
cho ngân hàng. Nhìn cách khác, khả năng tự đề kháng rủi ro thể hiện năng lực “chịu
đựng được rủi ro” ở mức độ nhất định của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh.
Vì kinh doanh luôn hàm chứa rủi ro nên chủ thể kinh doanh luôn phải chấp nhận bắt
buộc một số rủi ro nào đó. Rủi ro càng lớn thì lợi nhuận càng cao nên khi “khống
chế” được các rủi ro lớn (thông qua hoạt động quản lý rủi ro nên thiệt hại được
giảm thiểu) chủ thể kinh doanh càng có cơ hội để nâng cao lợi nhuận. Giữ vững và
nâng cao khả năng tự đề kháng rủi ro của mình là cách thức có thể tiếp nhận và vô
hiệu hóa các rủi ro lớn, từ đó tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh. Khi khả năng
tự đề kháng rủi ro của chủ thể kinh doanh không “đủ sức” ngăn cản những rủi ro
lớn thì tác hại rủi ro sẽ diễn ra. Trong trường hợp này nếu biết kết hợp nhận dạng
rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và đề ra biện pháp giải quyết rủi ro, sẽ giúp hoạt động
phòng chống rủi ro hiệu quả.
• Thứ nhất là: Phân tán rủi ro tín dụng
Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ rủi ro là điều khó tránh khỏi.
Vấn đề là làm thế nào để tối thiểu hóa những rủi ro đó, đồng thời đạt được mục tiêu

lợi nhuận. Phân tán rủi ro chính là việc thực hiện nguyên tắc kinh điển trong kinh
doanh: “không nên bỏ tất cả trứng của bạn vào trong một rổ”.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
 Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Đây là biện pháp tốt nhất chủ động trong việc phân tán rủi ro, ngân hàng nên
chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư, nhiều ngành nghề khác nhau.
Điều này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của ngân hàng, khuếch
trương thanh thế, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Để thực hiện được điều
này, NHTMCP Ngoại Thương Hoàn Kiếm cần vạch ra được một số chiến lược kinh
doanh thích hợp trên cơ sở quán triệt một số vấn đề sau:
- Đầu tư vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau để tránh được sự cạnh
tranh của các tổ chức tín dụng khác trong việc dành giật thị phần trong phạm vi hẹp
của một số ngành đang phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính
sách của Nhà Nước với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất
định trong kế hoạch cơ cấu lại một số ngành kinh tế.
- Đầu tư vào nhiều đối tượng sản xuất kinh doanh, nhiều loại hàng hóa khác
nhau, tránh tập chung cho vay sản xuất một số loại sản phẩm đặc biệt là những loại
sản phẩm không thiết yếu mà Nhà nước không khuyến khích hay những sản phẩm
đã xuất hiện quá nhiều trên thị trường.
- Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng, luôn đảm bảo một tỷ lệ
cho vay nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng để tránh sự ỷ lại và
rủi ro bất ngờ của khách hàng đó.
- Cho vay với nhiều loại thời hạn khác nhau đảm bảo sự cân đối giữa số vốn
cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi
ro tín dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường.
- Tạo lập một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay VND và cho vay ngoại tệ đảm bảo
đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng tránh được rủi ro tín dụng do sự thay
đổi tỷ giá hối đoái.

 Cho vay đồng tài trợ
Trong thực tế, có những doanh nghiệp có những nhu cầu vay vốn rất lớn mà
một Ngân hàng không thể đáp ứng được, đó thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án
lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này các ngân
hàng cùng nhau liên kết để thẩm định dự án, cho vay và chia sẻ rủi ro đảm bảo
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên.
Đây là một hình thức khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam. Hiện nay
NHNN Việt Nam đã đưa ra quy chế về vấn đề cho vay đồng tài trợ là tiền đề cơ sở
về mặt pháp lý cho việc xúc tiến hoạt động đó.
Để thực hiện hình thức tín dụng này, các ngân hàng phải có ý thức hợp tác,
đồng thời phải có một ngân hàng chủ trì cho việc thỏa hiệp giữa họ vai trò này có
thể giao cho NHNN hoặc UBND cấp tỉnh hoặc thành phố thực hiện.
 Bảo hiểm tín dụng
Bảo hiểm tín dụng là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Bảo hiểm tín
dụng có thể thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm cho hoạt động cho vay, bảo hiểm
tài sản, bảo hiểm tiền vay. Có thể học hỏi một số hình thức bảo hiểm mà các nước
đã thực hiện như sau:
- Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà
họ kinh doanh.
- Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp
và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng.
- Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay.
• Thứ hai là: Thẩm định tốt trước khi cấp tín dụng
Biện pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích, thẩm định kỹ
lưỡng các thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính của người nhận nợ và áp
dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi đầu tư nhằm phân loại khoản vay và
các đối tác vay vốn dựa vào mức độ rủi ro tín dụng để quản lý.

1.3.2.2. Nhóm biện pháp xử lý rủi ro tín dụng
- Tổ chức hợp lý và khoa học quy trình tín dụng theo hướng chặt chẽ và có
hiệu quả, tập chung vào 3 giai đoạn: Nghiên cứu khách hàng, giám sát khách hàng
vay và thu nợ.
- Thực hiện đa dạng hóa khách hàng và phương thức cho vay nhằm phân tán
rủi ro.
- Nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là năng lực thẩm định dự
án thẩm định khách hàng.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
- Xây dựng chiến lược khách hàng.
• Xử lý nợ quá hạn
Khi một khoản cho vay có vấn đề thì không phải NHTM sẽ mất trắng. NHTM
cần phải tìm cách thu hồi toàn bộ hoặc một phần khoản vay. Có hai sự lựa chọn đối
với xử lý nợ quá hạn: Khai thác hoặc thanh lý. Tuy vậy cần nhấn mạnh ở đây ba
nguyên tắc xử lý nợ quá hạn là: Chống xóa nợ, hạn chế gia hạn nợ, chống đảo nợ.
- Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản nợ
được trả một phần hay toàn bộ mà không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc
thu nợ. Ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp sau:
 Ngân hàng có những lời khuyên để giúp người vay tạo nguồn thu trả nợ cho
ngân hàng. Bằng kinh nghiệm và sự am hiểu của mình trên nhiều lĩnh vực, ngân
hàng sẽ có những lời khuyên để giúp người vay khôi phục tình hình kinh doanh.
 Gia hạn nợ: Một khi khách hàng đã gặp khó khăn trong việc trả nợ gốc thì
phần lãi càng khó có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy, chế tài chuyển nợ
quá hạn với lãi suất cao, càng làm khó khăn thêm cho khách hàng. Trong trường
hợp này, ngân hàng phải tiến hành điều tra, xác minh xem nguyên nhân chính là do
đâu và thái độ người vay như thế nào? Nếu do các nguyên nhân: Thua lỗ do giá cả
thị trường biến động mạnh ngoài dự kiến, sản lượng và doanh thu đạt thấp, thiên tai,
dịch bệnh… thì món vay cần phải xem xét gia hạn.

 Điều chỉnh kỳ hạn nợ: Đối với khoản vay mà ngân hàng định kỳ trả nợ
không đúng chu kỳ kinh doanh, cho vay ngắn hạn các đối tượng trung và dài hạn thì
ngân hàng nên xem xét điều chỉnh kỳ hạn nợ cho phù hợp để tạo điều kiện cho
khách hàng trả nợ đúng hạn.
 Cấp phát thêm vốn để nuôi nợ: Trong những giai đoạn khó khăn, một số
khách hàng không những không trả được nợ đáo hạn, xin gia hạn nợ mà còn có nhu
cầu vay thêm vốn để giải quyết khó khăn tài chính tạm thời như: sản phẩm chưa
tiêu thụ được nhưng vẫn phải tiếp tục mua vật tư trả lương công nhân để duy trì sản
xuất bình thường, khắc phục sự cố kỹ thuật. Trong những trường hợp như vậy các
ngân hàng thương mại cần phân tích, cân nhắc thận trọng để tiếp thêm “ sinh khí”
cho khách hàng.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
 Ngân hàng cần nắm giữ phần chủ động, thậm chí điều hành hoạt động kinh
doanh đến khi đảm bảo rằng khoản vay sẽ được chi trả.
- Thanh lý đối với các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi được thực hiện thanh
lý bao gồm: Phát mại tài sản thế chấp, kết hợp với cơ quan pháp lý để ép buộc thu
hồi nợ, sử dụng nghiệp vụ mua bán nợ trên thị trường.
 Ngân hàng thuyết phục doanh nghiệp tự bán tài sản thế chấp: Đây là một
cách giải quyết có lợi cho khách hàng và ngân hàng. Việc khách hàng tự bán tái sản
thường được đánh giá cao hơn là buộc phải phát mại, đồng thời tránh cho khách
hàng khỏi bị giảm uy tín trên thương trường. Mặt khác ngân hàng cũng tránh được
phí phát mại và thủ tục pháp lý gắn với sở hữu và phát mại tài sản tài chính.
 Ngân hàng bán tài sản tài chính để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng:
Đây là cách giải quyết không dễ dàng, bởi đây không phải là nhiệm vụ của ngân
hàng. Hơn nữa, việc bán tài sản tài chính để thu nợ, doanh nghiệp có thể sử dụng tài
sản tài chính làm tài sản sở hữu của mình làm trụ sở, bán trả góp cho cán bộ công
nhân viên theo hợp đồng bán có điều kiện.
 Gán nợ: Trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ, không có

nguồn thu nhập nào khác và có ủy quyền cho ngân hàng toàn quyền định đoạt trong
việc bán tài sản tài chính để thu nợ.
 Sử dụng pháp lý để thu hồi nợ vay: Ngân hàng có thể nhờ công an địa
phương thúc ép trả nợ hoặc khởi kiện ra tòa. Đây là biện pháp mà các ngân hàng
đều không muốn áp dụng vì nó rất phức tạp, thủ tục rườm rà và mất nhiều thời gian.
 Thành lập ủy ban chủ nợ: Nếu ngân hàng là một trong số các chủ nợ của
khách hàng và chủ nợ nào cũng muốn lấy lại tiền, tất cả các chủ nợ đều có thứ tự ưu
tiên trả nợ như nhau thì một ủy ban trả nợ có thể được thành lập. Sau đó ủy ban này
bán số tài sản của doanh nghiệp và chia số tiền thu được cho các chủ nợ khác nhau.
Trong trường hợp các chủ nợ không thỏa thuận được với nhau thì lại cần đến sự
phán xử của người khác.
• Trích lập dự phòng rủi ro
Theo điều 6, Quyết định 493 của NHNNVN, dự phòng cụ thể được tính theo
công thức:
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
Dự phòng cụ thể = Maximum[0, (giá trị món nợ - giá trị tài sản đảm bảo có thể
thu hồi)]x tỷ lệ trích dự phòng cụ thể.
Tổng dư nợ của một tổ chức tín dụng được phân loại thành 5 nhóm với tỷ lệ
trích dự phòng cụ thể như sau:
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%.
Trích lập dự phòng rủi ro là một trong những biện pháp quan trọng để phòng
chống rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro được sử dụng để bù đắp các khoản rủi ro khi
ngân hàng làm ăn thua lỗ hay do nguyên nhân khách quan mang lại.
Theo luật các TCTD có quy định “tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong

hoạt động của ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi
phí hoạt động; việc phân loại tài sản có mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng
và sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro do thống đốc Ngân hàng Nhà Nước
quy định sau khi thống nhất với bộ trưởng tài chính”.
1.3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP
Như vậy, để quản lý rủi ro tín dụng, các tổ chức tín dụng,các nhà đầu tư có thể
sử dụng các biện pháp như: phân tán rủi ro tín dụng, thẩm định khách hàng, xử lý
nợ quá hạn và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Những biện pháp như vậy có thể
làm giảm rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư và những rủi ro
tín dụng này có thể được chia sẻ cho nhiều người sở hữu mới. Tuy nhiên việc sử
dụng các biện pháp này cần có những điều kiện nhất định.
- Công nghệ: Ngân hàng phải có một hệ thống công nghệ kỹ thuật hiện đại để
phục vụ tốt cho công tác tín dụng.
- Nhân lực: Nguồn nhân lực phong phú cả về số lượng và chất lượng, có đội
ngũ nhân lực giàu kinh nghiệm và có trình độ chuyên môn cao, luôn nhiệt tình với
công việc và có đạo đức, kỷ luật tốt. Nhân viên luôn phải tiếp cận với nhiều ngành
nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia… Am hiểu khách hàng của mình, lĩnh
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phan Thị Thu Hà
vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà họ sống. Như vậy, chất lượng
nguồn nhân lực luôn bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp.
- Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý phù hợp, luôn đảm bảo cho các
hoạt động của ngân hàng được diễn ra theo đúng quy định của pháp luật và mọi
hoạt động liên quan tới pháp luật được đảm bảo. Mọi chính sách liên quan tới kinh
tế, hàng rào thuế quan luôn nằm trong tầm kiểm soát của ngân hàng và khách hàng.
- Tài chính: Nguồn tài chính phải đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng diễn
ra thường xuyên và liên tục. Khi tiến hành các biện pháp để xử lý rủi ro tín dụng thì
phải có nguồn tài chính mới thực hiện được. Giả sử, khi khách hàng không trả được
nợ mà ngân hàng phải dùng biện pháp là phát mại tài sản. Để phát mại một tài sản

của khách hàng là điều không hề dễ dàng, nó liên quan tới nhiều vấn đề khác nhau
như: pháp luật, nhân viên ngân hàng, khách hàng và nguồn tài chính. Chứ không
phải muốn phát mại là phát mại được ngay.
Do đó, để thực hiện được các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt
nhất thì cần phải có công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, các thông tin được đảm bảo và
cập nhật chính xác, nguồn đội ngũ nhân lực có kinh nghiệm và trách nhiệm cao,
nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được diễn ra liên tục và chế
độ pháp lý phù hợp và thuận lợi cho công tác xử lý các rủi ro tín dụng.
Trên đây là những cơ sở lý luận phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài,
để xem xét một cách cụ thể hơn chúng ta cùng đi tìm hiểu tình hình thực tế tại Ngân
hàng Ngoại thương Hoàn Kiếm.
SV: Nguyễn Thị Hạnh Lớp: Ngân hàng 12B
21

×