LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển nền
kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trải qua nhiều khó
khăn thử thách, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể
trên cả 3 phương diện : kinh tế, chính trị, xã hội. Để đạt được những thành tựu
đó có đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng với vai trò là mắt xích chốt
yếu trong sự vận hành của nền kinh tế.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu,
đem lại khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đây là công cụ tài
trợ vốn cho nền kinh tế. Nhưng hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động
chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động
đến bản thân ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Chính vì
vậy công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các ngân hàng quan tâm.
Tại ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa, qua quá trình 16
năm hình thành và phát triển, chi nhánh đã đạt được rất nhiều thành tựu to
lớn, không ngừng lớn mạnh. Tuy nhiên, công tác hạn chế rủi ro tín dụng vẫn
chưa đạt hiệu quả cao biểu hiện cụ thể qua tỷ lệ nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm
5.
Xuất phát từ tính cấp thiết của thực tiễn, đề tài : “Hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa” được lựa chọn để
nghiên cứu chuyên sâu về rủi ro tín dụng trên bình diện lý thuyết cũng như
thực tiễn để từ đó đưa ra 1 số ý kiến đóng góp cho ngân hàng và các cơ quan
chức năng để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng và hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung.
1
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,chuyên đề
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt
Nam chi nhánh Đống Đa.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương
Việt Nam chi nhánh Đống Đa.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng được hiểu là quan hệ giữa 2 chủ thể trong đó 1 bên chuyển
giao cho bên kia một lượng giá trị nhất định với điều kiện bên kia phải hoàn
trả sau một thời gian sử dụng nhất định.
Mối quan hệ này có các đặc điểm như sau:
- Một là, lượng giá trị này có thể là tiền hay hiện vật như máy móc thiết
bị, nhà xưởng…
- Hai là, bên được chuyển giao lượng giá trị chỉ được sử dụng trong một
thời gian nhất định rồi phải hoàn trả
- Ba là, lượng giá trị hoàn trả thường lớn hơn lượng giá trị chuyển giao
ban đầu
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa 2 chủ thể, một bên là ngân
hàng còn bên kia là các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động cấp tín dụng ngân hàng bao gồm
các nghiệp vụ sau: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
1.1.2. Vai trò của tín dụng
1.1.2.1. Đối với ngân hàng
Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập cho ngân hàng. Đây là hoạt động trọng
yếu của tất cả các ngân hàng thương mại. Cũng nhờ hoạt động tín dụng mà
ngân hàng có thể mở rộng các dịch vụ khác nhờ tận dụng các mối quan hệ có
được thông qua hoạt động này.
3
1.1.2.2. Đối với người đi vay
Nhờ có hoạt động tín dụng mà nhu cầu sử dụng vốn của người thiếu vốn
được đáp ứng. Sự thiếu vốn này có thể bắt nguồn từ nhu cầu đầu tư vào tài
sản lưu động, tài sản cố định của các doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của
các cá nhân, hộ gia đình. Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh được
thông suốt, không bị gián đoạn.
1.1.2.3. Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng nếu
có hiệu quả sẽ thúc đẩy sự phát triển của cả 3 lĩnh vực là kinh tế, xã hội và
văn hóa. Với chức năng tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, nguồn
vốn nhàn rỗi trong cư dân được ngân hàng thương mại huy động để chuyển
giao cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn.
Ngoài ra, tín dụng còn là một công cụ hữu hiệu trong việc điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động tạo
tiền của hệ thống ngân hàng. Để điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả, Ngân
hàng Nhà nước luôn phải quan tâm điều hành chính sách về lãi suất cũng như
chính sách tín dụng của các ngân hàng. Và với hoạt động tín dụng, các ngân
hàng đã giải quyết một lượng lớn lao động cho xã hội, đem lại thu nhập ổn
định cho nhiều cán bộ tín dụng.
1.1.3. Phân loại tín dụng
Có nhiều tiêu chí để phân loại tín dụng khác nhau.
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn của tín dụng
Tín dụng được chia thành 3 loại là tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm (12 tháng)
trở xuống, thường được cho vay với mục đích bổ sung sự thiếu hụt tạm
thời về vốn lưu động cho các doanh nghiệp và để tiêu dùng, sinh hoạt
của các cá nhân, hộ gia đình.
4
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm
hoặc từ 1 năm đến 5 năm tùy theo cách phân loại của mỗi ngân
hàng. Tín dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm tài sản
cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, các công trình nhỏ có thời gian
thu hồi vốn nhanh hoặc đầu tư nuôi trồng một số loại cây trồng vật
nuôi…
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm hoặc trên 5
năm, được cấp để tài trợ đầu tư xây dựng cơ bản như nhà xưởng, sân
bay, cầu, đường, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, các dự
án có thời gian hoàn vốn dài…
1.1.3.2. Căn cứ vào hình thức tài trợ
Tín dụng được chia thành các nghiệp vụ sau:
- Cho vay: là việc ngân hàng đưa 1 khoản tiền cho khách hàng sử
dụng với cam kết là khách hàng phải hoàn trả cả gốc cộng thêm một
phần lãi trong khoảng thời gian nhất định. Đây là loại tài sản lớn
nhất trong hoạt động tín dụng.
Nghiệp vụ cho vay thường được thể hiện qua 2 chỉ tiêu là doanh số
cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
- Chiết khấu giấy tờ có giá: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng một số tiền dựa trên giá trị của giấy tờ có giá trừ đi một
khoản phí (phí chiết khấu và phí dịch vụ) và ngân hàng sẽ là bên
nắm giữ giấy tờ có giá này sau khi thực hiện chiết khấu cho khách
hàng.
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn trên
cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê (ngân hàng) với
khách hàng thuê. Ngân hàng sẽ mua sắm tài sản cho khách hàng
5
thuê và sau khi hết thời hạn cho thuê, khách hàng có thể mua lại tài
sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng.
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ trả nợ
hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực
hiện các nghĩa vụ tài chính này. Bản chất là ngân hàng không phải
xuất tiền ra ngay tại thời điểm bảo lãnh mà cho khách hàng sử dụng
uy tín của mình để kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, nếu sự kiện bảo
lãnh xảy ra, khách hàng sẽ phải nhận nợ của ngân hàng và phải hoàn
trả số tiền đã được ngân hàng trả thay.
1.1.3.3. Căn cứ vào tính chất đảm bảo của tín dụng
Tín dụng được chia thành tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo
đảm. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có bảo đảm
nhưng ngân hàng vẫn có thể cấp tín dụng không cần tài sản đảm bảo cho
khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành
mạnh hoặc giá trị món vay tương đối nhỏ so với lượng vốn chủ sở hữu của
bên đi vay. Ngoài ra cũng có các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ
mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo.
1.1.3.4. Căn cứ vào các tiêu chí khác
Còn rất nhiều các chỉ tiêu khác để phân loại tín dụng như theo ngành
kinh tế, tín dụng được chia thành tín dụng cho ngành công nghiệp, nông
nghiệp…; theo mục đích thì tín dụng được chia thành tín dụng cho sản xuất,
tín dụng cho tiêu dùng…
1.1. Rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều học giả đã nghiên cứu về rủi ro và đưa ra nhiều khái
niệm về rủi ro theo quan điểm của họ. Frank Knight, một học giả người Mỹ
6
đầu thế kỷ XX định nghĩa: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Alain
Willet lại cho rằng: “Rủi ro là sự bất trắc liên quan đến biến cố không mong
đợi”. Tuy nhiên, định nghĩa về rủi ro trong tài chính được nhiều người đồng ý
là: rủi ro là sự khác biệt giữa giá trị kỳ vọng của biến cố và giá trị thực tế của
biến cố đó. Thông thường, khi nhắc đến rủi ro, người ta thường chỉ nhắc đến
các biến cố không có lợi, gây ảnh hưởng tiêu cực. Các nhà toán học đã tìm ra
cách để lượng hóa rủi ro. Các đại lượng toán học được dùng để đo lường rủi
ro có thể là phương sai, độ lệch chuẩn. Các đại lượng này thể hiện mức biến
động hay mức rủi ro của biến xem xét.
Rủi ro tín dụng được hiểu là việc khách hàng không hoặc không có
khả năng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với ngân
hàng như ngân hàng kỳ vọng khi cấp tín dụng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ
làm ngân hàng suy giảm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng và làm ngân hàng bị
mất vốn. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, “Rủi ro tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng của
các tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
1.2.1.2. Các biểu hiện của rủi ro tín dụng
Như định nghĩa đã nêu ra ở trên, rủi ro tín dụng xảy ra khi người đi
vay không trả được nợ gốc và nợ lãi đúng hạn, đầy đủ. Theo phương pháp
quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng thành 4 cấp độ
theo mức độ rủi ro.
- Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất khi người đi vay không trả được lãi đúng hạn, khi
đó ngân hàng sẽ chuyển số tiền lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Biểu
hiện này được xếp vào mức độ rủi ro thấp nhất vì ngoại trừ trường hợp khách
hàng cố ý không trả nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ sự thiếu
7
cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng, hay nói cách khác, có
sự không cân đối trong chính sách quản lý ngân quỹ của khách hàng.
- Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sẽ nghiêm trọng hơn
vì khoản vốn có vay lớn hơn nhiều so với tiền lãi của khoản tín dụng đó. Khi
đó, ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang khoản mục nợ quá hạn phát sinh .
Khoản mục này này phát sinh vào thời điểm đáo hạn của hợp đồng tín dụng.
Tuy mức độ có nghiêm trọng hơn biểu hiện thứ nhất nhưng thực ra, ngân
hang chưa mất vốn mà có thể do tiến độ thực hiện dự án kinh doanh vay vốn
của khách hàng bị chậm so với kế hoạch.
- Không thu được đủ lãi:
Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì chứng tỏ hoạt động kinh
doanh của khách hang yếu kém đến mức không thể thực hiện đầy đủ trả nợ lãi
đối với ngân hàng. Khi đó ngân hàng phải chuyển số tiền lãi chưa thu được
vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí phải thực hiện miễn giảm lãi
cho khách hàng.
- Không thu đủ vốn cho vay:
Đây là biểu hiện cao nhất của rủi ro tín dụng. Lúc này, ngân hàng sẽ
phải chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá
nợ, khép lại một hợp đồng tín dụng không hiệu quả.
Trên đây là 4 biểu hiện của rủi ro tín dụng theo mức độ rủi ro tăng
dần. Cách phân loại này sẽ giúp ngân hàng có các biện pháp xử lý trong từng
trường hợp. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng liên quan đến khách hang không phải
bao giờ cũng xảy ra tuần tự như 4 biểu hiện nêu trên. Có những trường hợp
khách hàng trả lãi đủ và đúng hạn nhưng rút cuộc lại không thể hoàn trả lại
giá trị món vay. Vì vậy, khi nghiên cứu và quản trị rủi ro tín dụng, người ta
thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là
8
lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh. Còn ở trường hợp xuất
hiện lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi thì được coi là rủi
ro đã xảy ra thực sự nên thường được xem xét để tìm ra biện pháp khắc phục
cũng như rút ra bài học kinh nghiệm.
1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây ra cho ngân hàng những thiệt
hại về vốn cho vay cũng như lãi thu từ hoạt động tín dụng tức là thu nhập của
ngân hàng. Rõ ràng lợi nhuận của ngân hàng cũng giảm. Ngay cả khi có thể
thu hồi được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng ảnh hưởng tới việc tái đầu tư
của ngân hàng và kế hoạch tài chính của ngân hàng đó.
1.2.2.2. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Rủi ro tín dụng làm việc thu hồi lãi và vốn vay của ngân hàng gặp
khó khăn trong khi ngân hang vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động đúng kỳ
hạn. Chính điều này sẽ làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng do có sự
lệch pha giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của ngân hàng.
1.2.2.3. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng
Nền tảng cho sự ra đời và hoạt động của ngân hàng chính là uy tín
của ngân hàng hay là niềm tin của các chủ thể trong nền kinh tế đối với ngân
hàng. Nếu ngân hàng để rủi ro tín dụng xảy ra thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt
động kém hiệu quả. Điều này làm uy tín của ngân hàng giảm sút. Ngân hàng
sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn, làm giảm quy mô hoạt động của
ngân hàng, đồng thời ngân hàng có thể đối mặt với sự rút tiền ồ ạt của người
gửi tiền dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản ngân hàng. Không chỉ
mất uy tín đối với khách hàng mà bản thân ngân hàng cũng phải đối mặt với
sự mất lòng tin của các ngân hàng bạn cũng như các đối tác chiến lược khác.
1.2.2.4. Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng
9
Khi mất uy tín, ngân hàng sẽ gặp vô vàn khó khăn trong việc tồn tại
và phát triển. Hoạt động huy động vốn gặp khó khăn, chi phí huy động vốn
cao, ngân hàng sẽ phải đầu tư vào những dự án có rủi ro cao hơn để tìm kiếm
lợi nhuận; thêm vào đó có thể có sự rút tiền gửi ồ ạt của người gửi tiền; sự
mất lòng tin của ngân hàng bạn trong hệ thống…; tất cả những điều đó là
nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Nếu một ngân hàng bị
phá sản thì uy tín của hệ thống ngân hàng cũng giảm sút, gây ra những khó
khăn cho các ngân hàng khác, ngay cả các ngân hàng đang hoạt động tốt.
1.2.3. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại
1.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Đây là các nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng.
- Chất lượng cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của công việc, không
đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là
một trong các nguyên nhân của rủi ro tín dụng đến từ phía ngân hàng. Nhân
viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng miền của đất
nước thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng
cũng như lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Nếu không thường xuyên
được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thì việc cán bộ tín dụng đánh giá sai về
khách hàng hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn nữa, nếu cán bộ tín dụng không giữ
mình thì rất dễ bị cám dỗ, tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng.
- Bên cạnh đó, nhiều khi ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà
xem nhẹ mục tiêu đảm bảo an toàn cho bản thân ngân hàng và cho toàn hệ
thống. Trước sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành ngân hàng như hiện nay,
việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị phần trong từng hoạt động nghiệp vụ
là hết sức khó khăn. Khi đã có được mối quan hệ với khách hàng thì ngân
hàng tiếp tục duy trì mối quan hệ đó. Các ngân hàng hay có các khuyến mại
10
đối với khách hàng của mình làm sai lệch đi lãi suất tín dụng ghi trên hợp
đồng tín dụng. Điều này là hết sức nguy hiểm bởi lẽ thực chất các ngân hàng
đang nâng cao chi phí huy động cũng như chi phí sử dụng vốn của mình, làm
giảm lợi nhuận ngân hàng.
- Một nguyên nhân chủ quan khác là việc các ngân hàng thương mại
không có một quy trình tín dụng đúng đắn. Quy trình tín dụng là các bước mà
cán bộ tín dụng phải thực hiện khi tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Với
một quy trình tín dụng chặt chẽ, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng hơn trong việc tác
nghiệp, hạn chế rủi ro đạo đức của các cán bộ này cũng như rủi ro lựa chọn
trong việc sàng lọc khách hàng. Đây là công cụ hữu hiệu của việc hạn chế rủi
ro do thông tin bất cân xứng mà trong tài chính gọi là nguyên tắc sàng lọc.
Đây cũng là một nội dung quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng của ngân
hàng. Quy trình tín dụng nếu không được thực hiện trên cơ sở sự tiến hành
độc lập giữa chức năng kinh doanh, chức năng quản lý và chức năng tác
nghiệp hoặc quy trình tín dụng không đầy đủ đều làm tăng mức độ rủi ro tín
dụng của ngân hàng.
- Nguyên nhân cuối cùng trong nhóm nguyên nhân chủ quan là việc
ngân hàng không có được một cơ sở công nghệ hiện đại. Với công nghệ hiện
đại, ngân hàng vừa giảm được chi phí chi phí hoạt động nhờ giảm bớt lao
động thủ công, vừa hạn chế rủi ro đến từ phía con người do máy móc luôn
chính xác và trung thực. Hơn thế, đây cũng là xu hướng phát triển của hệ
thống ngân hàng thế giới hiện nay. Các cuộc gặp trực tiếp giữa cán bộ ngân
hàng và khách hàng sẽ dần được thay thế bằng các giao dịch điện tử và hoàn
toàn tự động.
1.2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Các nguyên nhân khách quan được chia thành hai nhóm nhỏ.
11
Thứ nhất, nhóm nguyên nhân bất khả kháng. Các nguyên nhân này tác
động đến người vay, làm họ mất khả năng thanh toán của họ cho ngân hàng.
Ví dụ như chiến tranh, thiên tai, sự bất ổn về chính trị…, vượt quá tầm dự báo
và kiểm soát của cả người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường
xuyên xảy ra, tác động liên tục đến người vay. Có những khách hàng sẽ thích
nghi được với những biến cố này, nhưng cũng có những khách hàng bị tổn
thất và không còn khả năng hoàn trả lãi cũng như vốn vay.
Thứ hai, nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay. Nhiều doanh
nghiệp do thiếu năng lực về quản lý tài chính, lại không có tài sản thế chấp
hợp lệ do đó không đủ điều kiện để được vay vốn tại ngân hàng. Họ cố ý lập
các giấy tờ giả mạo, mua chuộc cán bộ tín dụng để có thể đạt được mục đích
của mình. Cũng có những trường hợp khách hàng sau khi nhận được vốn,
không sử dụng theo như dự án vay vốn mà đầu tư vào những dự án rủi ro
nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Về mặt lý thuyết, vấn đề này được gọi là vấn
đề thông tin bất đối xứng. Rủi ro thông tin bất đối xứng có 2 loại, một là rủi
ro lựa chọn nghĩa là các khách hàng rủi ro nhất lại là những người dễ được
chấp nhận cấp tín dụng nhất và hai là rủi ro đạo đức nghĩa là khách hàng cố ý
sử dụng sai mục đích khoản vốn vay, phục vụ cho mục đích cá nhân hoặc cố
tình chiếm dụng vốn ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều khi do sự cạnh tranh khốc
liệt trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn
gặp khó khăn và khó lường trước. Rủi ro luôn tồn tại đối với khách hàng, do
đó gây ra rủi ro tín dụng đối với ngân hàng.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn
thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử
12
dụng sai mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị hoặc khách hàng bị
phá sản.
Dư nợ là số tiền ngân hàng đang cho vay tính đến thời điểm tính.
Rủi ro tín dụng thường được các ngân hàng đo bằng tỷ lệ nợ quá hạn
và nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Tuy nhiên mỗi ngân hàng có thể có những
cách định lượng chỉ tiêu khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng
không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: chi
phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng.
Nợ quá hạn là một lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu lại tiền vay
trở nên mong manh và ngân hàng cần có các biện pháp giải quyết.
1.2.4.2 Nợ có vấn đề (có khả năng trở thành nợ quá hạn)
Tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi ro cao và ngược lại. Nhiều
khoản cho vay tuy chưa xếp vào nợ quá hạn song ngân hàng lại nhận thấy rủi
ro tăng (có các dấu hiệu không tốt như doanh thu sụt giảm, chi phí gia
tăng…). Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào các tiêu chí đánh giá của mỗi ngân
hàng. Các khoản nợ có vấn đề nếu được phát hiện sớm và được áp dụng các
biện pháp, quy trình thích hợp sẽ ngăn ngừa các khoản nợ quá hạn phát sinh,
giảm khả năng tổn thất.
1.2.4.3 Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là các khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ. Khi xuất
hiện nợ khó đòi thì cũng là lúc xuất hiện lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy
vọng thu hồi vốn vay đã trở nên mong manh. Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào
tiêu chí đánh giá của mỗi ngân hàng thương mại. Với nhiều ngân hàng, khi
con nợ bị thua lỗ triền miên thì ngân hàng đưa vào nợ khó đòi mặc dù khoản
nợ đó vẫn chưa đến hạn.
1.2.4.4 Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
13
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, “Các ngân hàng cần trích
lập dự phòng rủi ro. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi
phí hoạt động. Việc phân loại tài sản có mức trích, phương pháp lâppj khoản
dự phòng và sử dụng các khoản dự phòng để xử lý các rủi ro được thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định sau khi thông nhất với bộ trưởng Bộ
tài chính”.
Về bản chất, tại thời điểm trích lập dự phòng, rủi ro tín dụng chưa
xảy ra. Khoản trích lập dự phòng này giúp ngân hàng bớt sốc nếu như rủi ro
xảy ra. Đây là biện pháp khắc phục hậu quả của rủi ro tín dụng và cũng để
ước lượng giá trị các khoản cho vay có khả năng thu hồi.
Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng rủi ro tín dụng
Ngân hàng phải luôn tính toán sao cho thu nhập sau thuê của ngân
hàng đủ để tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sau khi đã trích lập dự phòng.
Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại cần thực hiện phân loại nợ
trước khi trích lập dự phòng. Theo điều 1 khoản 3 quyết định 18/2007/QĐ-
NHNN ngày 25/04/2007 về việc sử đổi bổ sung một số điều của quy định
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức
tín dụng thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm như sau:
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng thu hồi đầy đủ cẩ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng
là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách
14
hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần
đầu).
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm):
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2.
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khả năng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đòng tín dụng.
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90
ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày
trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả
chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Điều 2 và điều 3 của QĐ18 cũng nêu rõ:
- Đối với các khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng phân loại lại vào
nhóm nợ có có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện sau đây:
15
+ Khách hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp
dụng đối với nợ gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo
trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với khoản nợ trung và dài hạn, ba
(03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ
gốc và lãi bị quá hạn.
+ Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị
quá hạn đã được xử lý, khắc phục.
+ Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh
giá là khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
- Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng
phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy
đủ các điều kiện sau đây:
+ Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với các khoản nợ trung và
dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả
đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại.
+ Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải
cơ cấu lại thời hạn trả nợ đã được xử lý, khắc phục.
+ Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh
giá là khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã được
cơ cấu lại còn lại.
- Tổ chức tín dụng phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn
trong các trường hợp sau đây:
+ Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải
được phân loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02)
khoản nợ trở lên tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào bị phân
loại theo quy định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm có rủi ro cao hơn các
16
khoản nợ khác, tổ chức tín dụng phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của
khách hàng vào nhóm có rủi ro cao nhất đó.
+ Đối với khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải
thực hiện phân loại nợ đối với khoản cho vay hợp vốn theo các quy định tại
Điều này và phải thông báo kết quả phân loại nợ cho các tổ chức tín dụng
tham gia cho vay hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc
một số các khoản nợ khác tại tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã
phân loại vào nhóm nợ không cùng nhóm nợ của khoản nợ vay hợp vốn do tổ
chức tín dụng làm đầu mối phân loại, tổ chức tín dụng tham cho vay hợp vốn
phân loại lại toàn bộ dư nợ (kể cả phần dư nợ cho vay hợp vốn) của khách
hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ do tổ chức tín dụng đầu mối phân loại hoặc
do tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại tuỳ theo nhóm nợ nào
có rủi ro cao hơn.
+ Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân
loại vào các nhóm theo quy định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm nợ có rủi ro
cao hơn theo đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một trong các trường
hợp sau đây: có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường,
lĩnh vực kinh doanh của khách hàng; Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ
chức tín dụng khác phân loại vào nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có
thông tin); Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả
năng thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của
khách hàng bị suy giảm liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy
giảm; Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông
tin tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ
của khách hàng.
Sau khi thực hiện phân loại nợ, ngân hàng trích lập dự phòng cụ thể
theo tỷ lệ trích lập:
17
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
Nợ quá hạn là các khoản nợ bị đánh giá từ nhóm 2 đến nhóm5 còn nợ
xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3 đến nhóm 5.
Các chỉ tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đều phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu tuyệt đối thì chưa
thể đưa ra kết luận. Có trường hợp tổng dư nợ tăng nhanh hơn so với tốc độ
tăng của nợ quá hạn. Vì vậy cần đánh giá cả các chỉ tiêu tương đối như tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ, nợ có vấn đề trên tổng dư nợ. Ngoài ra, trên thực
tế, các chỉ tiêu này hoàn toàn có thể bị biến dạng, bóp méo do:
- Cán bộ ngân hàng định kỳ hạn nợ không đúng
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến
chu kỳ kinh doanh của người vay. Kỳ hạn nợ không phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh của người vay khiến cho khoản nợ này rất dễ bị quá hạn mặc
dù người vay có tình hình sản xuất kinh doanh hoàn toàn bình thường.
- Đảo nợ hoặc giãn nợ
Đảo nợ là việc khách hàng không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến
hạn nhưng ngân hàng nhận thấy tình hình tài chính của khách hàng khả quan,
việc không thực hiện nghĩa vụ này chỉ là do sự khác biệt trong thời hạn trả nợ
và chu kỳ kinh doanh của khách hàng, ngân hàng sẽ giải ngân cho khách hàng
một hợp đồng tín dụng mới để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Giãn nợ là việc hoãn lại các khoản nợ phải trả và áp dụng thời gian đáo
hạn mới (kéo dài hơn) đối với khoản nợ được hoãn. Giãn nợ là một biện pháp
18
giúp đỡ người vay thoát khỏi gánh nặng nợ trước mắt bằng cách hoãn đòi nợ
và trong nhiều trường hợp, nghĩa vụ trả nợ cũng được chủ nợ giảm bớt.
Cả hai hoạt động đảo nợ và giãn nợ đều làm thay đổi các chỉ tiêu
phản ánh rủi ro tín dụng ở trên
- Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ gặp vấn đề
Rất nhiều các khoản nợ khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài
sản (doanh nghiệp nhà nước, sinh viên, người nghèo…). Những khoản tín
dụng này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính phủ. Khi Chính phủ chưa
giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Xử lý
các khoản nợ này là rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu
nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính phủ đồng ý).
Tuy vậy, chúng vẫn đe dọa nguồn vốn vay cũng như lợi nhuận của ngân hàng
nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp.
1.2.4.5. Biến động thu nhập từ hoạt động tín dụng
Như đã đề cập, hoạt động tín dụng là hoạt động trọng yếu của các
ngân hàng thương mại. Tỷ trọng thu nhập từ nghiệp vụ này thường là 50%
đến 90% thu nhập của mỗi ngân hàng. Vì vậy đây là hoạt động vô cùng quan
trọng. Biến động trong thu nhập từ hoạt động này có ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả kinh doanh chung của toàn ngân hàng.
Cũng như các hoạt động kinh doanh khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng
là hai yếu tố song hành trong hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt
động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao
cho độ an toàn của khoản tín dụng là cao nhất. Tuy nhiên, không một nhà
kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các sự cố có thể
xảy ra. Chính vì vậy họ luôn cố gắng hết sức để dự báo và hạn chế đến mức
thấp nhất khả năng xảy ra rủi ro.
19
Khi phân tích năng lực quản trị rủi ro tín dụng của một ngân hàng
thương mại, nhất thiết phải xem xét mức độ biến động về thu nhập từ hoạt
động nghiệp vụ này. Nếu như thu nhập từ hoạt động này biến động qua các
năm theo chiều hướng bất lợi thì chứng tỏ công tác hạn chế rủi ro của ngân
hàng gặp vấn đề.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Nhân tố chủ quan
Ngân hàng hoàn toàn có thể giảm thiểu rủi ro tín dụng bằng cách áp
dụng các biện pháp sau
- Bảo đảm tín dụng
Đảm bảo tín dụng là sự đảm bảo cho ngân hàng rằng có 1 nguồn vốn
khác để hoàn trả khi ngân hàng không thu hồi được nợ.
Đối với ngân hàng, đây là nguồn trả nợ thứ hai nếu nguồn thu nợ thứ
nhất (phương án trả nợ) không thực hiện được. Vì vậy, đây là công cụ hạn chế
rủi ro tín dụng, thúc đẩy khách hàng thực hiện tốt dự án để thu hồi lại tài sản
đảm bảo.
Bảo đảm tín dụng có các đặc tính sau:
+ Thứ nhất, giá trị tài sản đảm bảo hoàn toàn có thể xác định được và
có tính chuyển nhượng.
+ Thứ hai, có sãn thị trường tiêu thụ cho tài sản này
+ Thứ ba, có các giấy tờ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ, sở hữu đối
với tài sản.
Bảo đảm tín dụng có 3 hình thức, đó là:
+ Thế chấp: là việc bên đi vay chuyển quyền sở hữu tài sản sang cho
ngân hàng thông qua việc giao các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản
cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn của hợp đồng tín dụng. Còn quyền sử
dụng tài sản vẫn thuộc về khách hàng.
20
+ Cầm cố: là việc bên đi vay chuyển quyền kiểm soát và bảo quản
cho ngân hàng.
+ Đảm bảo của bên thứ ba: là việc bên thứ ba đứng ra đảm bảo thực
hiện thay các nghĩa vụ tài chính của người đi vay đối với ngân hàng trong
trường hợp người đi vay không thể hoặc cố ý không thực hiện.
- Bảo hiểm tín dụng
Bảo hiểm tín dụng được khách hàng mua cùng với việc được cấp tín
dụng từ ngân hàng. Sản phẩm bảo hiểm này do các công ty bảo hiểm cung
cấp, đảm bảo rằng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng với ngân hàng vẫn
được thực hiện trong trường hợp khách hàng tử vong hoặc thương tật toàn bộ
vĩnh viễn…
Nhờ có bảo hiểm tín dụng mà cả ngân hàng lẫn khách hàng đều có
thể dự phòng trong trường hợp có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Thêm vào đó, nhờ
có sản phẩm bảo hiểm này mà thị trường hoạt động của các công ty bảo hiểm
được mở rộng.
- Phân tán rủi ro
Học thuyết về đa dạng hóa danh mục đầu tư được Markowitz nghiên
cứu và đưa ra từ những năm 50 của thế kỷ XX. Theo học thuyết này, bằng
việc đa dạng hóa tài sản nắm giữ trong một danh mục đầu tư, rủi ro của toàn
danh mục thấp hơn so với việc nắm giữ từng tài sản riêng rẽ do trong danh
mục sẽ có các tài sản có biến động ngược chiều nhau với cùng một biến cố
kinh tế.
Với ngân hàng thương mại cũng vậy. Các ngân hàng không nên dồn
vốn đầu tư vào một hay một số khách hàng, cho dù khách hàng đó có kinh
doanh hiêu quả, uy tín cao. Theo quyết định 493/2005/QD-NHNN ngày
22/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, dư nợ của một khách hàng
tại một ngân hàng không được vượt quá 15% vốn của ngân hàng.
21
Ngoài ra, ngân hàng cũng nên tham gia vào các hợp đồng tín dụng
đồng tài trợ (có sự tham gia tài trợ của nhiều ngân hàng) để hạn chế rủi ro tín
dụng cho ngân hàng.
1.2.5.2. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng chủ yếu xuất phát
từ tính minh bạch thông tin của nền kinh tế và sự ổn định về cơ sở pháp lý
cho ngân hàng hoạt động. Nếu như một nền kinh tế có tính minh bạch thông
tin cao, có các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ thu thập xử lý số liệu cung cấp
thông tin cần thiết cho các chủ thể có nhu cầu thì hoạt động phân tích tín dụng
sẽ được giảm bớt áp lực và chính xác hơn.
Điều này cũng tương tự với cơ sở pháp lý. Một quốc gia có sự ổn
định về mặt chính sách, chặt chẽ về mặt pháp lý, quy củ về mặt quy định tác
nghiệp, có các hướng dẫn chỉ đạo cụ thể cho hoạt động tín dụng sẽ đưa hoạt
động tín dụng vào khuôn mẫu và chuẩn mực. Rủi ro tín dụng nhờ vậy cũng
giảm bớt.
1.2. Các nội dung hạn chế rủi ro của ngân hàng thương mại
1.3.1. Bản chất của hạn chế rủi ro tín dụng
Một trong các nguyên tắc quan trọng của tài chính đó là nguyên tắc
đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Lợi nhuận và rủi ro là 2 yếu tố luôn song
song tồn tại mọi hoạt động của mọi loại hình doanh nghiệp, mọi lĩnh vực kinh
doanh. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng thu được cũng càng lớn. Là một
doanh nghiệp, mục tiêu hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng không
nằm ngoài việc tối đa hóa giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng đó. Tuy
nhiên, hoạt động của ngân hàng dựa trên nền tảng là niềm tin của các chủ thể
trong nền kinh tế nên ngân hàng còn cần đề cao mục tiêu an toàn tài chính cho
chính bản thân ngân hàng cũng như cho toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh
tế mà ngân hàng đang kinh doanh.
22
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro mà ngân hàng không thể tránh khỏi trong
quá trình hoạt động tín dụng vì nền kinh tế không hoàn hảo, luôn tồn tại vấn
đề thông tin không cân xứng. Các nhà quản trị ngân hàng luôn muốn vừa hạn
chế rủi ro tín dụng, vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận vì hoạt động tín dụng là
hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu của ngân hàng.
Về bản chất, hạn chế rủi ro tín dụng được hiểu là việc ngăn ngừa khả
năng rủi ro tín dụng xảy ra, nếu rủi ro tín dụng xảy ra thì tìm biện pháp xử lý
tổn thất một cách hữu hiệu.
1.3.2. Các nội dung hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại
1.3.2.1. Xây dựng chính sách và quy trình phân tích tín dụng hợp lý,
hiệu quả
Chiến lược tín dụng của một ngân hàng thương mại là tập hợp các
biện pháp liên quan đến việc khuyêch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng
để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng đó và hạn chế rủi ro tín
dụng, bảo đảm an toàn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Bất cứ một
chiến lược tín dụng nào cũng phái đảm bảo đạt được 2 mục tiêu là lợi nhuận
cho ngân hàng, hạn chế rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng là yếu tố cơ bản,
là nền tảng để quản trị rủi ro tín dụng có hiệu quả. Chính sách tín dụng được
xây dựng cẩn thận, thống nhất sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu
chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội
kinh doanh.
Phân tích tín dụng là việc ngân hàng tìm kiếm, phân tích, đánh giá
thông tin về khách hàng để từ đó đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay
không.
Để chuẩn hóa quá trình phân tích, các ngân hàng thường đặt ra quy
trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước, các nội dung công việc mà cán
23
bộ tín dụng và các phòng ban có liên quan phải thực hiện khi tài trợ vốn cho
khách hàng. Các bước chính trong một quy trình tín dụng bao gồm:
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín
dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý các thông tin liên
qun đến khách hàng bao gồm năng lực sản xuất kinh doanh và uy tín, danh
mục tài sản của khách hàng, các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến khách
hàng…
Phương pháp thu thập xử lý thông tin bao gồm:
- Phỏng vấn trực tiếp: là việc cán bộ ngân hàng gặp gỡ trực tiếp người
vay vốn, thăm quan nhà xưởng, văn phòng… Phỏng vấn trực tiếp
giúp ngân hàng có những cảm nhận xác thực về thực trạng hoạt
động của người đi vay.
- Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian như qua các cơ
quan quản lý Nhà nước, các ngân hàng bạn…
- Thông qua các báo cáo tài chính của bên đi vay: ngân hàng thường
yêu cầu các khách hàng gửi báo cáo tài chính, báo cáo bán hàng,…
Từ các báo cáo này, ngân hàng sẽ phân tích thực trạng tài chính của
công ty, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ của khách
hàng.
Nội dung phân tích bao gồm:
- Đánh giá tài sản của khách hàng: Các doanh nghiệp đều có bảng cân
đối kế toán trong đó bên tài sản phản ánh số dư giá trị tài sản tại
một thời điểm hoặc kết dư trung bình trong kỳ. Đối với cá nhân
hoặc hộ gia đình, ngân hàng thu thập các thông tin về tình hình kinh
24
doanh, thu nhập. Các thông tin trên cho biết quy mô, chất lượng tài
sản, khả năng quản lý của khách hàng.
- Đánh giá các khoản nợ: nợ của người đi vay có thể phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau.
+ Theo thời gian: gồm nợ ngắn hạn (các khoản vay ngắn hạn) và nợ
trung, dài hạn (các khoản vay trung và dài hạn). Ngân hàng còn xem xét các
khoản nợ đến hạn trong năm và các khoản nợ phải trả trong các năm sau.
Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động
còn các khoản vay trung và dài hạn dùng để tài trợ cho tài sản cố định, Do đó,
mối tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng.
+ Theo chủ nợ: gồm có nợ nhà cung cấp, nợ nhân viên, nợ các tổ
chức tín dụng, nợ ngân sách Nhà nước. Danh sách chủ nợ của khách hàng cần
được nghiên cứu kỹ lưỡng để nhận biết tình hình nợ nần của khách hàng.
- Phân tích luồng tiền: lợi nhuận kế toán của doanh nghiệp hưa phải là
nguồn tiền để trả nợ mà ngân hàng cần phải quan tâm đến thời điểm
cũng như độ lớn của dòng tiền của doanh nghiệp.
- Sử dụng các tỷ lệ: sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới những
năm 30 của thế kỷ trước, rất nhiều ngân hàng nhận ra rằng họ không
thu hồi được nợ ngay cả khi họ cho vay các khoản vốn lưu động phù
hợp. Các ngân hàng sau đó đã áp dụng các sử dụng các tỷ lệ được
tính từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp để biết được tực trạng tài
chính trong quá khứ của khách hàng, từ đó có các dự báo cho tương
lai.
Có các nhóm tỷ lệ sau:
+ Nhóm tỷ lệ thanh khoản: đo khả năng của người đi vay trong việc
đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng đánh giá khả
năng thanh toán các khoản nợ của khách hàng khi đến hạn.
25