TRNG I HC KINH T QUC DN
KHOA TI CHNH NGN HNG
Chuyên đề thực tập
ti: Giải pháp tăng cờng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Giỏo viờn hng dn : Ths. Phan Th Hnh
Sinh viờn thc hin: ng Th Tho
Lp: Ti chớnh Ngõn hng; Khoỏ: 40
Thỏi Nguyờn Thỏng 5/2011
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối
với sự ổn định và phát triển của một quốc gia. Kinh tế phát triển và ổn định
là nhờ có một chính sách tiền tệ ổn định, đúng đắn và có một hệ thống ngân
hàng vững mạnh. Kể từ khi được thành lập cho đến nay, hệ thống ngân hàng
luôn chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Với nghiệp vụ huy
động vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay, ngân hàng đã đáp ứng được nhu
cầu về vốn ngày càng tăng của các thành phần kinh tế, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngân hàng kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng với mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu
nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng, an toàn hiệu quả và tuân thủ pháp luật. Với
phương châm đi vay để cho vay, hệ thống ngân hàng đã trở thành trung gian
điều hoà, phân phối vốn có hiệu quả nhất trong nền kinh tế.
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa nền kinh tế, chuyển từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa. Quá trình đổi mới nền kinh tế có đòi hỏi phải có một khối lượng
lớn, vững chắc, nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng. Bên cạnh
các hình thức huy động của Chính phủ thì huy động vốn qua ngân hàng là
một hình thức chiếm vị trí không nhỏ. Ngân hàng chính là nơi tích tụ, tập
trung vốn, khơi dậy các nguồn lực kinh tế. Hệ thống ngân hàng ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế, mục đích chung của toàn Đảng,
toàn dân ta là đẩy lùi đói nghèo, tăng trưởng kinh tế vững mạnh, đi lên công
nghiệp hoá, thoát khỏi sự tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Ngân hàng đang nỗ lực tiến hành các hoạt động, góp phần ổn định kinh
tế, đẩy lùi lạm phát bằng sự đổi mới sâu sắc cả về hệ thống tổ chức lẫn
phương thức hoạt động, đã tạo nên sắc thái hoàn toàn mới trong hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên, để tạo được một bước chuyển mới trong nền kinh tế,
công tác huy động vốn của các ngân hàng đang đứng trước một thách thức
không nhỏ. Nó đòi hỏi các ngân hàng phải quan tâm sâu sắc tới công tác huy
động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công tác này.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn nói chung và nguồn vốn
huy động nói riêng. Vận dụng những kiến thức được tiếp thu, trau dồi trong
quá trình học tập, cùng với quá trình tìm hiểu thực tế tại Chi nhánh ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn,
đặc biệt dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Th.s Phan
Thị Hanh, giảng viên trường Đại học kinh tế Quốc dân, em đã chọn đề tài:
"Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn" để hoàn
thành đề tài thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ cơ sở lý luận và thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, em xin
đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng trong
thời gian tới.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung trình bày những vấn đề chủ yếu của công tác huy động
vốn, tập trung vào vốn huy động và vốn đi vay của Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp & PTNT huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn cũng như những vấn
đề còn tồn tại trong công tác huy động vốn để từ đó đưa ra các giải pháp
khắc phục tồn tại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp:
Duy vật lịch sử; duy vật biện chứng; tiếp cận hệ thống và các phương pháp
thống kê, điều tra, phân tích tổng hợp, so sánh, mô tả, minh hoạ bằng các
bảng biểu, mô hình, sơ đồ…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những nội dung cơ bản về vốn và huy động vốn tại Ngân
hàng Thương mại trong nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp & PTNT huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp & PTNT huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng
Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại (NHTM) các nhà kinh tế học
đều thống nhất với nhau về vị trí, chức năng của NHTM trong nền kinh tế.
Nhưng khi định nghĩa như thế nào là NHTM thì họ lại không thống nhất. Sở
dĩ có tình trạng này là do hoạt động của NHTM rất đa dạng, các thao tác
trong từng nghiệp vụ của NHTM lại rất phức tạp và luôn biến động theo sự
biến động chung của nền kinh tế. Mặt khác, do phong tục tập quán và luật
pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền là khác nhau nên dẫn đến quan niện
không đồng nhất về NHTM.
Theo Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997, sửa
đổi bổ sung năm 2003: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên
quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao
gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác".
Để hiểu rõ hơn về khái niệm NHTM, chúng ta hãy tìm hiểu những đặc
điểm của nó.
Trước hết, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ. Là một doanh nghiệp, vì vậy hoạt động của nó cũng nhằm mục tiêu là thu
được lợi nhuận. Song hoạt động kinh doanh của NHTM lại mang tính đặc
thù với đối tượng kinh doanh chủ yếu là quyền sử dụng khoản tiền tệ của
NHTM có đặc tính phi vật chất, hay nói cách khác NHTM là doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ và hoạt động của nó gắn liền với quá trình vận động và
lưu thông tiền tệ.
Ngoài đặc điểm là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, NHTM còn
mang đặc điểm của một trung gian tài chính điển hình. Vai trò trung gian tài
chính của NHTM được thể hiện rõ trên hai phương diện: NHTM là trung
gian giữa người có nguồn vốn tạim thời nhàn rỗi với người cần vốn, đồng
thời còn là trung gian giữa NHTM với công chúng và nền kinh tế.
NHTM không chỉ là trung gian tài chính mà còn là trung gian giữa
NHTM với công chúng và nền kinh tế. NHTM được coi là ngân hàng của
các ngân hàng, là cơ quan tổ chức điều hành chính sách tiền tệ quốc gia,
bằng cá công cụ của mình như: Tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở… đã tác động đến hoạt động của các NHTM và NHTM đã
chuyển tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động huy động
vốn, sử dụng vốn và cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội là nghiệp vụ quan trọng
hàng đầu của ngân hàng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng
tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển của cả nước. Nghiệp vụ
của ngân hàng ngày càng được mở rộng, tạo được uy tín trong xã hội. Mở
rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân mang lại lợi
nhuận không chỉ cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng. Chính vì vậy,
các ngân hàng phải căn cứ vào tình hình kinh tế địa phương và của đất nước
để từ đó đưa ra các nghiệp vụ huy động vốn phù hợp, thu hút được nhiều
khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lơi nhuận cho ngân hàng. Nghiệp
vụ sử dụng vốn của ngân hàng có tốt thì uy tín và lợi nhuận mới cao, đồng
thời tăng cường sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, thường xuyên
nghiên cứu thị trường, xem xét nhu cầu sử dụng vốn của xã hội. Thực hiện
cho vay theo các dự án đầu tư, các chương trình phục hồi sản xuất.
Trong hoạt động sử dụng vốn, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu
của các NHTM, là nghiệp vụ quan trọng đem lại lợi nhuận cao cho ngân
hàng. Bên cạnh hoạt động tín dụng, các NHTM còn thực hiện các hoạt động
khác như hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động kinh doanh khác của ngân
hàng.
1.1.2.3. Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
Thực chất là hoạt động cung cấp dịch vụ phục vụ khách hàng, nhằm thu
phí, tạo lợi nhuận cho ngân hàng và tạo thêm uy tín của ngân hàng đối với
khách hàng. Các ngân hàng đã đầu tư trang thiết bị, cơ sở sản xuất áp dụng
các công nghệ tiên tiến vào hoạt động. Thực hiện tốt khâu thanh toán không
dùng tiền mặt như: Uỷ nhiệm chi; Uỷ nhiệm thu; Thanh toán séc; Thanh
toán bù trừ; Chuyển tiền điện tử; Thực hiện thanh toán qua thẻ tín dụng…
Thực hiện tốt khâu dịch vụ không chỉ góp phần tăng doanh thu cho
ngân hàng mà còn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển vốn của
nền kinh tế, tiết kiệm vốn trong quá trình thanh toán và thu hút nhiều khách
hàng thuận lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của ngân hàng. Các
nghiệp vụ hoạt động của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và làm tiền đề
cho nhau do đó các ngân hàng phải thực hiện tốt và đồng bộ các nghiệp vụ.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế
Ngân hàng là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội. Ta có thể thấy trong một xã hội luôn có những người thừa tiền không
biết phải làm gì, đầu tư vào đâu để kiếm lời hoặc đơn giản là họ có tiền
nhưng không cần dùng đến song vẫn muốn nó sinh sôi, nảy nở và được bảo
đảm an toàn thì cách tốt nhất là gửi tiền vào ngân hàng. Ngân hành chính là
trung gian tài chính, các ngân hàng thương mại tập trung huy động các
khoản tiền nhàn rỗi đó để cho các tổ chức kinh tế, các cá nhân đang cần tiền
cho sản xuất vay. Như vậy, với chức năng và vai trò của mình, ngân hàng đã
chuyển vốn từ những người thừa vốn sang những ngườ cần vốn cho đầu tư
sản xuất, đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho
quá trình sản xuất và tái sản xuất làm cho đồng tiền luôn hoạt động sinh sôi
nảy nở. Hoạt động của ngân hàng góp phần làm tăng thu nhập cho tất cả
những khách hàng của mình và thúc đẩy nền kinh tế phát triển có hiệu quả
hơn.
Ngân hàng thông qua hoạt động của mình góp phần quan trọng vào việc
chống lạm phát, ổn định mức mua của đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế.
Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt đang lưu hành trên thị trường
bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền mặt, đồng thời tăng lãi suất
đầu ra, hạn chế lượng tiền ra trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát. Hoặc có
thể làm ngược lại nền kinh tế có hiện tượng giảm sút. Ngân hàng là cầu nối
nền kinh tế trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện mở rộng kinh tế
quốc tế với các nước trong khu vực và thế giới.
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Các hình thức huy động vốn
a) Tiền gửi của dân cư
* Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà
ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thực chất đó là một
khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán nhằm mục đích giao dịch thanh toán các
khoản chi trả trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Việc thanh toán có thể được tiến hành dưới dạng tiền mặt, séc hoặc uỷ
nhiệm chi. Sau khi mở tài khoản thnah toán tại ngân hàng, chủ tài khoản
phải giao cho ngân hàng quyền theo dõi ghi chép các nghiệp vụ phát sinh trên
tài khoản của họ tại ngân hàng. Và đây cũng là một khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi, ngân hàng có thể dùng số dư tài khoản đó để cho vay lại. Đây cũng là
hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà khách hàng cũng không mất
đi quyền sở hữu cũng như quyền sử dụng số tiền đó. Không chỉ vậy, tài khoản
này mang lại sự an toàn cho khách hàng trong việc bảo quản vốn và nhanh
chóng thuận tiện cho việc thanh toán giao dịch, ngoài ra khách hàng còn được
hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí khác. Chủ tài khoản
phải tuân thủ những quy định hướng dẫn của ngân hàng. Ngân hàng phải bỏ
ra một số chi phí như phát hành séc và các dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá
lớn nhưng nó được bù đắp bởi tiền thu phí và số tiền lãi mà ngân hàng dùng
số dư tài khoản này để cho vay. Tài khoản tiền gửi vừa nhanh chóng vừa
thuận tiện an toàn với khách hàng và nó đủ bù đắp, mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng khi dùng số dư trên tài khoản để giao dịch.
Bên cạnh đó, còn có tài khoản tiền gửi vãng lai là loại tài khoản có thể
dư nợ hoặc dư có thể hiện số tiền gửi hoặc tiền vay của khách hàng. Trên thực
tế, tài khoản này dư nợ hoặc dư có tuỳ thuộc vào số lượng tiền mà khách hàng
gửi vào hoặc tạm thời vay của ngân hàng trong một thời gian nhất định. Đồng
thời tài khoản này cũng áp dụng hai loại lãi suất: Lãi suất tiền vay là lãi suất
mà khách hàng phải trả cho ngân hàng (nếu là dư nợ) và lãi suất tiền gửi là lãi
suất mà ngân hàng trả cho khách hàng (nếu là dư có). Vì vậy mà khách hàng
luôn làm cho tài khoản của mình dư có điều này cũng làm tăng nguồn vốn của
ngân hàng.
* Tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi tiết kiệm)
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân mà họ đem
gửi vào trong ngân hàng nhằm hưởng lãi và đảm bảo an toàn cho lượng tiền
của mình. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể
rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền bất kỳ lúc nào nhưng khác với tiền gửi
thanh toán là tiền gửi tiết kiệm không được dùng để thanh toán. Lãi tiền gửi
tiết kiệm cao hơn lãi tiền gửi thanh toán cho nên đại đa số người dân gửi tiền
tiết kiệm khi mà họ chưa có nhu cầu dùng tiền mà vẫn muốn nó có lãi thì họ
sẽ đem gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được
rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trên thực tế thì ngân hàng vẫn cho khách hàng
rút tiền trước thời hạn nhưng được hưởng lãi suất thấp hơn. Cũng như tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng đưa ra các kỳ hạn khác nhau
như: Từ 1 tháng đến 24 tháng nhằm thu hút nhiều nguồn vốn và lãi suất của
nó cũng khác nhau.
Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là nguồn vốn tương đối ổn định, giúp
ngân hàng nắm bắt được những thông tin chính xác về tình hình tài chính
của khách hàng, làm cơ sở để giải quyết việc cho vay và thanh toán, kiểm
tra, kiểm soát việc thực hiện có hiệu quả mục tiêu của ngân hàng. Thông qua
nhiệm vụ này, ngân hàng có thể quản lý nguồn vón, góp phần ổn định lưu
thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền giúp nền kinh tế phát triển ổn định và
vững mạnh.
a) Tiền gửi của tổ chức kinh tế
* Tiền gửi không kỳ hạn
- Tiền gửi thanh toán: Với loại tiền gửi này, các tổ chức kinh tế mở tài
khoản tiền gửi thanh toán tại các NHTM với mục đích để thực hiện các
khoản thanh toán phục vụ cho quá trình sản xuất hàng hoá và kinh doanh
dịch vụ. Đối với tiền gửi thanh toán các TCKT không được hưởng lãi suất
mà được hưởng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn không giao dịch
* Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền nhàn rỗi trong thời gian nhất định. Do
đó các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân thường gửi vào ngân hàng
với hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Đây là loại tiền gửi không dùng để thnah
toán mà chủ yếu dùng để kiếm lời. Loại tiền gửi này là loại tiền mà đến một
ngày nhất định ngân hàng mới phải trả cho khách hàng. Điều này giúp cho
ngân hàng dự tính được kế hoạch cho vay mà không phải tồn quỹ cao đề
phòng sự rút vốn trước thời hạn với điều kiện là lãi suất được hưởng thấp
hơn hoặc hưởng lãi suất không kỳ hạn nhằm thu hút khách hàng. Như vậy,
tiền gửi có kỳ hạn là lượng tiền mang tính chất ổn định, lâu dài. Ngân hàng
có thể sử dụng nó vào hoạt động kinh doanh của mình như cho vay trung dài
hạn. Nếu nguồn này chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho ngân hàng trong kinh doanh. Các ngân hàng thường đưa
ra các kỳ hạn khác nhua như: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24
tháng để thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Vì tại
mỗi kỳ hạn khác nhau thì ngân hàng áp dụng một mức lãi suất khác nhau,
thông thường thì kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
b) Huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm, mục
đích huy động là để đầu tư cho các dự án lớn. Đây là một khoản tiền vay chứ
không đơn thuần là một khoản tiền gửi. Nguồn này được huy động ở nhiều
kỳ hạn và ở hai dạng cụ thể là:
- Kỳ phiếu có mục đích: Khi các ngân hàng thương mại có nguồn tài
chính dồi dào để tài trợ cho các dự án quy mô lớn, nhằm phát triển kinh tế
địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc liên doanh liên kết mà nguồn
vốn tự có không đủ đáp ứng. Ngân hàng thương mại trình ngân hàng Nhà
nước cho phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín dụng lâu dài. Như
vậy, kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn vì trên
kỳ phiếu có ghi tên người thụ hưởng.
- Trái phiếu ngân hàng thực chất là một giấy nợ của ngân hàng đối với
người làm chủ trái phiếu. Lãi suất của trái phiếu cao hơn của kỳ phiếu, cao
hơn của tiền gửi tiết kiệm. Do đó các ngân hàng dùng để huy động vốn cho
chính ngân hàng, vốn huy động được dùng để đầu tư cho những dự án trung
và dài hạn.
- Chứng chỉ tiền gửi: NHTM có thể huy động vốn thông qua việc phát
hành các chứng chỉ tiền gửi. Chứng chỉ tiền gửi là một loại phiếu nợ, chủ
yếu là ngắn hạn, có mệnh giá lớn. Nguồn vốn mà ngân hàng thu được từ
phát hành chứng chỉ tiền gửi cũng như kỳ phiếu, trái phiếu có tính ổn định
cao, tuy nhiên chi phí cung cao hơn so với các khoản tiền gửi có cùng kỳ
hạn.
c) Huy động thông qua việc đi vay từ các tổ chức tín dụng khác và từ
NHTM.
Trong thực tế, ngân hàng luôn không có sự cân đối giữa nguồn vốn huy
động và nguồn vốn sử dụng. Vì vậy, khi thiếu đột xuất ngân hàng có thể đi vay
của các tổ chức kinh tế khác qua thị trường liên ngân hàng. Thông thường các
ngân hàng đi vay ngân hàng khác chỉ để bù đắp thanh khoản với thời gian
ngắn.
Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho
vay cuối cùng, ngân hàng Nhà nước cho các ngân hàng vay với mức nhất
định, và công cụ của ngân hàng Nhà nước là lãi suất chiết khấu, lãi suất chiết
khấu được ngân hàng Nhà nước sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Tuỳ vào yêu cầu của chính sách tiền tệ mà lãi suất này được
điều tiết nâng cao hoặc hạ thấp. Các ngân hàng có thể vay ngân hàng Nhà
nước khi có nhu cầu. Nhưng ngân hàng Nhà nước sẽ không cho các ngân
hàng lạm dụng khả năng đó bằng các công cụ hạn chế như hạn chế mức
chiết khấu hay lãi suất tái chiết khấu.
1.2.2. Đặc điểm cơ bản
1.2.2.1. Lãi suất huy động vốn
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn các khoản đi vay
thường là với thời hạn là quy mô xác định trước do vậy tạo thành nguồn ổn
định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng không nhất thiết phải
đi vay thường xuyên, ngân hàng chỉ đi vay lúc cần thiết.
Lãi suất huy động vốn thông qua các giấy nợ trung và dài hạn ổn định
cao cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự
án, tài trợ cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu
dùng.
Lãi suất còn là công cụ để ngân hàng thu hút nguồn vốn từ dân cư, nếu
lãi suất mà ngân hàng đưa ra dư hấp dẫn từ đó giúp khách hàng có thể quyết
định gửi tiền vào ngân hàng hay dùng tiền đó để đầu tư vào sản xuất trực
tiếp. Khi lãi suất tiền gửi cao, ngân hàng có thể thu hút được nhiều hơn
lượng tiền nhàn rỗi trong dân. Tuy nhiên để đảm bảo được hoạt động kinh
doanh ngoài việc đảm bảo huy động tiền gửi với mức lãi suất theo khung lãi
suất của NHNo&PTNT Việt Nam thì các ngân hàng thương mại phải điều
chỉnh sao cho lãi suất huy động hợp lý có lợi cho ngân hàng và khuyến
khích được người dân.
1.2.2.2. Điều kiện thanh toán lãi và gốc
Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi suất
trả cho các nguồn tiền khác nhau, nhằm đảm bảo duy trì quy mô và cơ cấu
nguồn thu hợp với yêu cầu sinh lời của ngân hàng thanh toán lãi và gốc của
các khoản nợ là một bộ phận trong quản lý chi phí của ngân hàng. Lãi suát
chi trả càng cao càng có thể huy động và vay mượn được càng lớn, từ đó mà
mở rộng cho vay và đầu tư.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi sản phẩm của ngân hàng và với mỗi
ngân hàng lãi suất huy động có thể thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng
của nhiều nhân tố sau:
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia nhu cầu đầu tư
của các doanh nghiệp, Nhà nước và hộ gia đình.
- Tỷ lệ lạm phát
- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính
- Khả năng sinh lời của ngân hàng
- Độ an toàn của ngân hàng
1.2.2.3. Các điều kiện khác
Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh
nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể.
Ví dụ: Để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu
tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ… nhìn
chung các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn (trừ ngân hàng có
các dịch vụ uỷ thác cho Nhà nước cho các tổ chức quốc tế)việc gia tăng các
nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh
hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
1.2.3. Chi phí vốn
Song song với công tác huy động vốn là công tác chi phí vốn, đây là
khâu quyết định kết quả kinh doanh của ngân hàng chi phí vốn có hiệu quả
thì mới thúc đẩy được công tác huy động vốn, chính vì vậy mục tiêu kinh
doanh của ngân hàng không chỉ là sinh lời an toàn vốn mà còn phải đảm bảo
đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại
Như chúng ta đã biết, các hình thức huy động vốn hiện nay của các
ngân hàng rất đa dạng và linh hoạt và được đánh giá tốt đối với nền kinh tế
nước nhà. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của hoạt động này vốn chịu
ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô đến các
yếu tố mang tính chất vi mô của nền kinh tế cũng như các yếu tố liên quan
tới chính các ngân hàng thương mại.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, nhu cầu vốn cho sự
phát triển đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất lớn. Trong đó, vốn
trong nước co vai trò hết sức quan trọng, vốn huy động của ngân hàng, vốn
từ ngân sách Nhà nước. Ta có thể thấy vốn huy động của ngân hàng được
hình thành từ một bộ phận tiền tệ của dân cư, của các đơn vị kinh tế. Do vậy,
hoạt động huy động vốn của ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều nhân
tố. Trong đó, các nhân tố chính như sau:
1.2.4.1. Nhân tố khách quan
* Kinh tế
Một đất nước kinh kinh tế phát triển, thể hiện ở các chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế. Các tổ chức kinh tế cũng như dân cư hoạt động trong điều kiện kinh
tế phát triển, hoạt động sản xuất hàng hoá và kinh doanh dịch vụ cũng ngày
một phát triển, hoạt động thanh toán diễn ra với doanh số ngày càng lớn và
số dư tiền gửi thanh toán của tổ chức kinh tế hay tiền gửi tiết kiện của người
dân tại ngân hàng ngày một nhiều, điều đó tạo điều kiện cho ngân hàng huy
động được dồi dào nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.
Ngược lại khi kinh tế không phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như dân cư ngày càng bị thu hẹp, đã tác động hạn
chế đến huy động vốn của ngân hàng.
Khi chu kỳ kinh tế đang ở pha tăng trưởng, ngân hàng dễ dàng huy
động vốn, nếu ở pha suy thoát, ngân hàng rất khó huy động vốn; khi tỷ lệ
thất nghiệp gia tăng, đời sống của dân cư ngày càng thấp đi, mà thu nhập
bằng tổng của tiêu dùng và tiết kiệm; tiêu dùng là cố định, tiết kiệm giảm
dẫn đến thu nhập của dân cư giảm, ngân hàng khó khăn trong huy động vốn.
* Chính trị
Nhân tố chính trị cũng được coi là một nhân tố rất quan trọng. Khi đất
nước có chính trị ổn định, các tổ chức kinh tế cũng như dân cư yên tâm đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tìm kiếm các cơ hội đầu tư, không
chỉ các thành phần kinh tế trong nước mà các nhà đầu tư nước ngoài cũng
tìm kiếm cơ hội đầu tư tại những nước có chính trị ổn định. Khi đó, ngân
hàng sẽ có điều kiện để huy động nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của
mình.
Khi chính trị không ổn định thì kinh tế cũng không phát triển, hoạt động
sản xuất và kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế hạn chế, đời sống của
dân cư thấp kém, thu nhập giảm, sẽ ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân
hàng.
* Hành lang pháp lý
Khi Chính phủ tạo ra một hành lang pháp lý chặt chẽ, tất cả đều được
luật hoá, mọi hoạt động đều công khai, minh bạch. Hệ thống pháp luật đồng
bộ sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả hơn, với các quy định của pháp luật và quyền tự chủ trong
sản xuất kinh doanh. Từ đó hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và dân
cư ngày càng mở rộng, tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc huy động
vốn.
* Yếu tố xã hội
Tâm lý, thói quen cất trữ tài sản của người dân cũng ảnh hưởng đến
việc huy động vốn của NHTM. Khi người dân ưa thích cất giữ tài sản dưới
dạng bằng vàng hoặc bất động sản thì khả năng huy động vốn của NHTM sẽ
gặp nhiều khó khăn. Hoặc khi người dân thay vì gửi tiền vào ngân hàng, họ
sử dụng tiền để đầu tư vào kênh đầu tư khác như kinh doanh chứng khoán
thì ngân hàng cũng khó huy động vốn hơn.
Phong tục tập quán, lối sống của người dân cũng ảnh hưởng đến huy
động vốn của ngân hàng, thói quen thanh toán bằng tiền mặt cũng ảnh
hưởng đến huy động vốn, mặt khác mô hình dân số như: dân số từng vùng,
từng độ tuổi, vùng dân số có thu nhập cao -> huy động vốn nhiều; độ tuổi
cao -> tiết kiệm nhiều -> huy động vốn nhiều.
1.2.4. 2. Nhân tố chủ quan
* Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất có ảnh hưởng quan trọng đối với công tác huy động
vốn của ngân hàng. Không phải ngân hàng cứ đưa ra được lãi suất cao là có
thể thu hút được vốn nhiều. Mà vấn đề ở chỗ là mức lãi suất cụ thể mà ngân
hàng đem lại cho khách hàng (tiền lãi thực tế) là bao nhiêu. Từ đó phải
hoạch định chính sách lãi suất cho phù hợp với tín hiệu thị trường. Tiếp tục
thực hiện chính sách lãi suất dương, trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của người
gửi tiền, ngân hàng và người sử dụng vốn. Đồng thời, ngân hàng thương mại
cũng phải có chính sách lãi suất huy động vốn phù hợp, vừa làm thế nào để
hấp dẫn khách hàng, vừa đảm bảo chi phí đầu vào, đảm bảo kinh doanh có
lãi.
Như vậy, lãi suất huy động vốn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quy
mô nguồn vốn của ngân hàng. Người dân thường quan tâm tới lãi suất tiền
gửi tiết kiệm để so sánh với tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và khả năng sinh lời
của hình thức đầu tư khác. Để từ đó đưa ra quyết định có gửi tiền vào ngân
hàng hay không? Chính vì vậy, ngân hàng phải duy trì một mức lãi suất phù
hợp, nhạy cảm với nhu cầu phát triển kinh tế, để thu hút được người dân gửi
tiền vào ngân hàng tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Bên cạnh chính sách lãi suất huy động, ngân hàng cũng cần xây dựng
chính sách lãi suất cho vay hợp lý, vì với đối tượng khách hàng là các tổ
chức kinh tế thì yếu tố lãi suất huy động không phải là yếu tố mà họ quan
tâm nhiều. Họ gửi tiền ngân hàng để làm cơ sở cho việc sử dụng các dịch vụ
của ngân hàng như vay vốn, sử dụng các dịch vụ thanh toán. Vì thế, lãi suất
cho vay hợp lý là yếu tố mà các tổ chức kinh tế quan tâm hơn là lãi suất huy
động.
* Hình thức huy động và cho vay
Khi ngân hàng áp dụng hình thức cho vay như thế nào cũng là nhân tố
tác động đến huy động vốn của ngân hàng. Khi nhu cầu vay vốn của khách
hàng ngày càng tăng, các ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu đó của họ, từ đó
đề ra loại hình cho vay đa dạng, từ nhu cầu cho vay đa dạng, các ngân hàng
phải làm thế nào có đủ nguồn vốn để đáp ứng, thúc đẩy ngân hàng tìm ra các
biện pháp để mở rộng huy động vốn.
* Chất lượng hoạt động của ngân hàng
Kết quả hoạt động kinh doanh là thước đo đánh giá chất lượng hoạt
động của ngân hàng. Khi kết thúc mỗi năm tài chính, với các kết quả hoạt
động do kiểm toán công bố, nếu như ngân hàng kinh doanh ngày càng có lãi,
có tăng trưởng bền vững và an toàn trong hoạt động thì đã tạo nên hình ảnh
đẹp và uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao trong lòng khách
hàng. Từ đó ngân hàng mở rộng được mối quan hệ với nhiều khách hàng,
góp phần tăng số dư huy động vốn.
* Nhân tố về con người (trình độ, thái độ phục vụ)
Con người là tài sản vô hình củ mỗi ngân hàng, chất lượng nguồn nhân
lực hiện nay ngày càng trở nên một nhân tố quan trọng, quyết định sự thành
bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi ngân hàng chú trọng đến
nhân tố con người, đó là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các
cán bộ viên chức, đặc biệt trong công tác huy động vốn, trình độ đó phải đáp
ứng được các yêu cầu ngày càng cao của hiện đại hoá, theo kịp các sản phẩm
dịch vụ mới, con người đó phải biết tư vấn cho khách hàng để thoả mãn nhu
cầu của họ và đặc biệt là thái độ phục vụ khách hàng, làm thế nào để khách
hàng cảm thấy không có sự khác nhau giữa các nhân viên của ngân hàng. Từ
đó có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
* Công nghệ trong thanh toán
Bên cạnh chất lượng nguồn nhân lực, thì các ngân hàng càng phải chú
trọng đến công nghệ trong thanh toán. Khi công nghệ thanh toán được áp
dụng hiện đại, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm thời gian cho khách hàng
thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng, nhất là
dịch vụ thanh toán sẽ tạo điều kiện tăng nhanh số dư huy động vốn của ngân
hàng.
* Uy tín, quy mô của ngân hàng
Ngân hàng nào có uy tín đối với khách hàng; có lợi thế kinh tế nhờ quy
mô sẽ có điều kiện tăng khả năng thu hút nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế
và dân cư, ngoài ra còn nguồn vốn vay của ngân hàng Trung ương và các tổ
chức tín dụng khác.
* Khuếch chương, quảng cáo
Khuếch chương, quảng cáo một cách có hiệu quả sẽ góp phần huy động
vốn tốt hơn. Sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng là vô hình, ví dụ: Lãi suất…
cho nên khi ngân hàng quảng cáo có hiệu quả nhất sẽ tăng khả năng huy
động vốn.
* Hệ thống sản phẩm, dịch vụ
Ngân hàng có hệ thống sản phẩm, dịch vụ đa dạng, tiện lợi, đáp ứng
một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng thì sẽ tạo điều kiện thu hút được
nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ đó, từ đó tăng nguồn vốn huy
động.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN
2.1. Khái quán về NHNo&PTNT huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT huyện
Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT VN) được thành lập vào ngày 26/3/1988 theo Nghị định
53/HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Qua nhiều năm phát triển và trưởng thành đến nay NHNo&PTNT VN là
NHTM quốc doanh không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư vốn phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy mọi lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam. NHNo&PTNT VN là
ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ nhân viên, mạng
lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Hiện nay NHNo&PTNT VN đang
tập trung giữ vững và phát triển thị trường nông nghiệp, nông thôn. Và Bắc
Kạn cũng là một tỉnh thuộc vùng miền núi phía Bắc còn mang nặng nền kinh
tế nông nghiệp, vì thế hoạt động ngân hàng còn khó khăn phải mất nhiều
năm mới có thể đi lên và phát triển.
Năm 1998 hơn một năm sau ngày tái lập tỉnh Bắc Kạn, ngày
20/10/1998 NHNo&PTNT huyện Chợ Mới được thành lập. Hoà nhập với sự
phát triển chung của cả nước và cả tỉnh, để phục vụ sự phát triển kinh tế trên
địa bàn huyện Chợ Mới, ngày 20/10/1998, được sự phê duyệt của thống đốc
NHNo, sự nhất trí của UBND tỉnh Bắc Kạn và của các cấp, các ngành liên
quan, Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam đã có quyết định số
09/QĐ-HĐQT/NHNo&PTNT tỉnh Bắc Kạn.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 1998, tình hình nước ta phát triển ổn
định, các mục tiêu kinh tế Nhà nước cơ bản đã được hình thành. Tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 8,7% giá trị sản lượng công nghiệp, nông nghiệp và xuất
khẩu đều tăng. Song chỉ số giá tiêu dùng bình ổn ở mức thấp, giá các mặt
hàng xuất khẩu như gạo, cao su, cà phê, hạt điều có xu hướng giảm, sản
lượng xuất khẩu vẫn tăng cao nhưng giá trị kinh ngạch xuất khẩu hàng hoá
chỉ tăng 5,5% sơ với năm 1998. Tuy nhiên hoạt động trong năm qua vẫn còn
nhiều khó khăn, lĩnh vực ngân hàng cũng bị tác động mạnh mẽ bởi sự suy
giảm nền kinh tế thế giới. Lãi suất ngoại tệ qua 5 lần giảm nên có ảnh hưởng
lớn đến chính sách lãi và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Tốc độ
phát triển và cơ cấu kinh tế không đồng đều, công tác quản lý kinh tế nói
chung và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế còn
bất cập, yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng đặc
biệt trong bối cảnh NHNo&PTNT Chợ Mới được thành lập và đi vào hoạt
động từ ngày 20/10/1998. Với bộ máy tổ chức cán bộ gần như mới mẻ, cơ sở
vật chất, phương tiện hoạt động còn khó khăn thiếu thốn, NHNo&PTNT
Chợ Mới nằm trên cửa ngõ vào tỉnh Bắc Kạn, kinh tế phát triển chưa mạnh,
hầu như không có doanh nghiệp (cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân).
Do vậy, hoạt động NHNo&PTNT Chợ Mới gặp không ít khó khăn.
Song đựoc sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của NHNo tỉnh Bắc Kạn, Ban lãnh
đạo NHNo&PTNT Tỉnh Bắc Kạn, Thường trực Huyện uỷ, HĐND, UBND
huyện Chợ Mới và các cấp, các ngành của huyện và địa phương, với sự phấn
đấu nỗ lực, quyết tâm của Ban Giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên,
hoạt động kinhd aonh của Chi nhánh NHNo&PTNT Chợ Mới đã đầu tư đạt
kết quả tốt, các chỉ tiêu đều vượt kế hoạch, nguồn vốn và dư nợ tín dụng
lành mạnh có tốc độ tăng trưởng cao.
Năm 2008 là năm thứ 3 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ
III và kế hoạch 5 năm (2006-2010) các cấp, các ngành và nhân dân các dân
tộc trong toàn huyện đã nỗ lực vượt mọi khó khăn, ra sức thi đua lao động
sản xuất, phấn đấu đạt được những kết quả nhất định trên tất cả các lĩnh vực,
toàn diện thực hiện khá tốt các chương trình mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra.
Về sản xuất nông nghiệp: Tổng sản lượng lương thực có hạt 6 tháng
đầu năm 2009 đạt 19.839 tấn = 121,1% kế hoạch; Cây thuốc lá, đạt sản
lượng 181,6 tấn = 80,7% kế hoạch; cây chè trung du chất lượng cao đạt
36,7ha = 36% kế hoạch; mô hình 30 triệu đồng trên 1 ha đạt 108% kế hoạch.
Tổng đàn trâu, bò có: 14.256 con tăng 1.264 con so với năm 2008; tổng
đàn lợn có 23.120 con = 105% KH… kết cấu hạ tầng được đầu tư mạnh, văn
hoá, giáo dục, y tế xã hội được phát triển, an ninh quốc phòng được giữ
vững, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.
Là một ngân hàng nằm trong vùng kinh tế chậm phát triển, lại mới
được thành lập bước đầu còn gặp nhiều khó khăn về mọi mặt. Hơn nữa
nguồn tài nguyên khoáng sản không có, kết cấu hạ tầng còn thấp kém, các
dịch vụ hầu như không phát triển… nhưng với sự chỉ đạo của Đảng bộ và sự
đồng tâm hiệp lực của toàn dân nên kinh tế trong huyện ngày càng được cải
thiện. Và theo đó ngành ngân hàng cũng tiến dần từng bước. NHNo&PTNT
Chợ Mới đã có sự tăng trưởng khá vững chắc. Từ một ngân hàng có vốn huy
động và dư nợ tồn đọng thấp đã dần phấn đấu trở thành một ngân hàng mạnh
của tỉnh, đưa hoạt động kinh doanh của ngân hàng tiến mạnh và thu được lợi
nhuận đáng khích lệ.
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng kế hoạch và
kinh doanh
Phòng kế toán và
ngân quỹ
- Phòng giao dịch Chợ Mới
Các đơn vị phụ thuộc
- Phòng giao dịch Sáu Hai
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ: Mô hình tổ chức của NHNo&PTNT huyện Chợ Mới
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chợ Mới là đơn vị thành viên của
ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, với tổng biên chế cuối năm 2009 là 21
cán bộ cùng mạng lưới hoạt động gồm: 01 Trụ sở ngân hàng huyện, ngoài ra
còn có 02 phòng giao dịch. Trong đó có 01 Giám đốc, 02 Phó Giám đốc và
các phòng ban sau:
- Phòng kế toán - ngân quỹ.
- Phòng kinh doanh
- 2 phòng giao dịch trực thuộc.
* Nhiệm vụ của các phòng ban
Ban lãnh đạo: Giám đốc và Phó Giám đốc
Có nhiệm vụ quản lý hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như
quyết định những vấn đề liên quan đến quản lý và tổ chức trong ngân hàng.
Giám đốc là người trực tiếp ra quyết định kinh doanh, ký văn bản và các hợp
đồng liên quan đến hoạt động của đơn vị mình. Giám đốc có thể uỷ quyền
cho Phó Giám đốc ký một số văn bản, chứng từ liên quan đến hoạt động của
đơn vị trong một vi phạm nhất định.
Phòng kế hoạch và kinh doanh
Phòng kinh doanh chuyên sâu về nghiệp vụ cho vay, phân tích và có
các biện pháp ngăn ngừa rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Tổng hợp các thông
tin khách hàng để có thể có các quyết định cho vay đúng đắn. Phòng kinh
doanh cũng là nơi tiếp nhận các nguồn tài trợ, uỷ thác, triển khai các chương
trình dự án cho vay đối với khách hàng. Có các quyết định cho vay ngắn
hạn, trung hạn hay dài hạn bằng đồng Việt Nam theo quy định của Ngân
hàng. Đây cũng là nơi nghiên cứu, đề xuất áp dụng các mức lãi suất cho vay
huy động vốn phù hợp với nhu cầu thực tế của người dân. Xây dựng các