Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên (nghiên cứu trường hợp trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật điện biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.21 KB, 20 trang )

Tác động của việc đánh giá hoạt động giảng
dạy từ phía người học đến việc đổi mới
phương pháp giảng dạy của giảng viên
(Nghiên cứu trường hợp Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên)

Lê Thị Hồng Duyên

Viện Đảm bảo Chất lượng Giáo dục
Luận văn Thạc sĩ ngành: Đo lường và đánh giá trong giáo dục
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Quyết
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Đánh giá mức độ tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía
người học đến việc đổi mới phương pháp giảng day của giảng viên. Chỉ ra phương
thức tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học đến việc đổi
mới phương pháp giảng dạy của giảng viên. Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động đánh giá giảng viên của trường.

Keywords: Giáo dục đại học; Phương pháp giảng dạy; Hoạt động giảng; Giảng viên

Content
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Với quan niệm xem đầu tư cho giáo dục là “đầu tư cho phát triển”, nước ta ngày càng có
nhiều chủ trương, chính sách cũng như giải pháp để tập trung nâng cao chất lượng giáo dục
đại học. Trong đó việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên các trường Cao đẳng,
Đại học là một trong các mối quan tâm của ngành Giáo dục - Đào tạo và xã hội. Có nhiều
hình thức đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên như: Tự đánh giá của giảng viên, đánh
giá thông qua ý kiến của đồng nghiệp, lãnh đạo, qua hồ sơ giảng dạy, kết quả học tập của sinh


viên v. v. và thông qua ý kiến của sinh viên.
Kết quả đánh giá giảng viên có thể giúp cho giảng viên biết việc giảng dạy của mình có
hiệu quả hay không, qua đó biết được khiếm khuyết trong giảng dạy và củng cố hoàn thiện
kiến thức, không ngừng nâng cao kiến thức, đảm bảo chất lượng cho quá trình dạy học. Đồng
thời, tạo được sự gần gũi giữa thầy và trò nhưng không mất đi sự “tôn sư trọng đạo”

2
Từ năm học 2009 – 2010, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên tiến hành lấy ý
kiến phản hồi về hoạt động giảng dạy của giảng viên từ phía người học, đây là một hoạt động
mới tuy nhiên đã tác động nhất định đến hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên, trong đó
có phương pháp giảng dạy. Với mong muốn làm rõ tác động từ việc đánh giá hoạt động giảng
dạy của giảng viên thông qua việc lấy ý kiến từ phía người học đến việc đổi mới phương pháp
giảng dạy của giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên, chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài: "Tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học đến
việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên” (Nghiên cứu trường hợp Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên).
2. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người
học tới PPGD của giảng viên.
- Khách thể nghiên cứu: Giảng viên và sinh viên đang giảng dạy và học tập tại Trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 5 năm
2012
+ Phạm vi không gian: Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía
người học ảnh hưởng đến PPGD của giảng viên.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hướng đến làm rõ tác động của việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía
người học đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên trường cao đẳng Kinh tế -

Kỹ thuật Điện Biên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động đánh giá giảng viên của trường.
4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học đang thực hiện ở trường
tác động như thế nào đến phương pháp giảng dạy của giảng viên?
Câu hỏi 2: Phương pháp giảng dạy của giảng viên thay đổi như thế nào dưới tác động của
việc đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Việc lấy ý kiến phản hồi từ phía người học thời gian qua ở trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Điện Biên đã tác động khá rõ nét đến PPGD của giảng viên.

3
- Dưới tác động của việc lấy ý kiến phản hồi từ phía người học các PPGD biến đổi
theo hướng giảm dần áp dụng các PPGD truyền thống, tăng cường áp dụng các PPGD tích
cực.
4.3. Khung lý thuyết








5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp thu thập thông tin
- Phương pháp định tính: Sử dụng phương pháp quan sát, tra cứu tài liệu và tiến hành
phỏng vấn sâu để thấy được khả năng và các chiều cạnh sự tác động của việc lấy ý kiến phẩn
hồi từ người học đến PPGD của giảng viên.

- Phương pháp định lượng: Tiến hành điều tra thông qua việc phát và thu bảng hỏi,
thống kê và xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS.
- Các nhận định trong bảng hỏi được đánh giá theo thang đo chạy từ 1 đến 5 (1-
Không bao giờ sử dụng; 5 - Thường xuyên sử dụng).
5.2. Phƣơng pháp chọn mẫu
- Mẫu khảo sát cho giảng viên:
+ Dung lượng mẫu: Số lượng giảng viên của trường ở thời điểm từ 2009 đến nay là
khoảng 100 người, với dung lượng giảng viên như vậy nên nghiên cứu tiến hành khảo sát toàn
bộ số giảng viên này.
- Mẫu khảo sát cho sinh viên:
+ Dung lượng mẫu: 200 người.
+ Cách chọn: Luận văn thực hiện phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm tại 4
ngành: Kế toán; Tài chính – Ngân Hàng; Chăn nuôi; Trồng trọt…Tại mỗi ngành, chọn ngẫu
nhiên 50 sinh viên đang học năm thứ ba. Số sinh viên được phát phiếu hỏi được lấy từ danh
sách của mỗi lớp.
6. Tiến trình nghiên cứu
6.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận: Từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 7 năm 2011.
6.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn: Từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 12 năm 2011.
6.3. Giai đoạn xử lý số liệu và hoàn thiện luận văn: Từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 5
năm 2012.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Việc lấy ý kiến phản hồi từ phía người học về
hoạt động giảng dạy của giảng viên
Đổi mới PPGD của Giảng viên
Điều kiện văn hóa, tâm lý, chính sách ở Trường

4
7.1. Ý nghĩa khoa học: Đề tài nghiên cứu thành công sẽ đóng góp vào các công trình nghiên
cứu về vấn đề đánh giá giảng viên một góc nhìn mới đó là tác động của việc sinh viên đánh
giá giảng viên đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá tác động của việc sinh viên đánh giá giảng viên
đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên, nghiên cứu đưa ra những đề xuất gợi
ý về chính sách với lãnh đạo Trường Cao đẳng KT-KT Điện Biên để nâng cao hiệu quả của
công tác đánh giá giảng viên từ phía người học nhằm mục đích nâng cao hiệu quả chất lượng
đào tạo.
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Ở Chương này, tác giả tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có
liên quan đến luận văn; phân tích cơ sở phương pháp luận của luận văn; nghiên cứu một số
khái niệm có liên quan đến luận văn.
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nƣớc ngoài có liên quan.
Jacqueline Douglas và Alex Douglas, Evaluating Teaching Quality, Quality in Higher
Education, Vol12, No.1, April 2006, [34, 44]. Trong bài viết này tác giả nói về việc lấy ý kiến
phản hồi của sinh viên, của giảng viên là một việc làm để đánh giá chất lượng dạy học và là
phương tiện cho việc cải tiến giáo dục.
Peter Seldin (1999), Using Self-Evaluation: What Works? What Doesn’t, Changing
Practices in Evaluating Teaching, tr97-tr115 [31, 48]. Nghiên cứu đã cho thấy rằng, việc tham
khảo ý kiến đánh giá của sinh viên làm tăng khả năng cải thiện giảng dạy một cách đáng kể và
đã trở thành nguồn thông tin được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động giảng
dạy của giảng viên.
William E. Cashin (1999), Student Ratings of teaching: Uses and Misuses, Changing
Practices in Evaluating Teaching tr25-tr44 [48]. Nghiên cứu nêu rõ kết quả sinh viên đánh giá
giảng viên được sử dụng cho nhiều mục đích.
Robert E.Stake 1998, Teacher Evaluation: Univerty of Illinois, Urbana – Champaign
[46]. Hình thức sinh viên đánh giá giảng viên vẫn có hạn chế là sinh viên không thể có đánh
giá tổng thể hoạt động giảng dạy tại nhiều lớp hoặc nhiều trường học.
Michele Marincovic (1999), Using Student Feedback to Improve Teaching, Changing
Practices in Evaluating Teaching [41, tr45-69]. Tại rất nhiều trường đại học và cao đẳng trên
thế giới đánh giá của sinh viên được coi trọng, những dữ liệu có hệ thống được thu thập phục

vụ cho việc đánh giá giảng dạy.
NGACenter for Best Practices, Education Policy Studies Division, December 9, 2006.
“Tăng cường đánh giá giảng viên và tăng cường chất lượng giảng dạy” [34, 42]. Trong bài

5
báo này tác giả đã nhấn mạnh: Việc lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng
dạy đã giúp đỡ rất nhiều cho việc đánh giá giảng viên, thay cho lối truyền thống là dựa trên
dữ liệu học tập, sự quan sát lớp học và sự quản lý lớp của giảng viên.
Sylvia Chong, 2009, “Chất lượng đại học: đảm bảo chất lượng bắt đầu là sự chuẩn bị
chương trình của giảng viên” Int. J. Management in Education, Vol.3, Nos. 3/4 [43]. Bài viết
nói lên chất lượng giảng dạy của giảng viên là nhân tố quan trọng đầu tiên (của mỗi quốc gia)
trong quá trình đào tạo.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc có liên quan
Nguyễn Phương Nga (2005) “Quá trình hình thành và phát triển việc Đánh giá giảng
viên” Giáo dục Đại học chất lượng và đánh giá, NXB ĐHQGHN năm 2005 [24]. Tác giả đã
khái quát lịch sử hình thành và phát triển việc đánh giá giảng viên trong đó nhấn mạnh sinh
viên đánh giá giảng viên đã được sử dụng từ lâu, trải qua các thời kỳ khác nhau.
Lã Văn Mến (2005) “ Đánh giá phương pháp giảng dạy của giảng viên” Giáo dục Đại
học chất lượng và đánh giá, NXB ĐHQGHN năm 2005 [22]. Hiệu quả của phương pháp
giảng dạy của giảng viên phải thể hiện ở mức độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng của sinh viên, tác
dụng kích thích tư duy và những ảnh hưởng tích cực đến cảm xúc, tình cảm của họ. Vì vậy
sinh viên sẽ cảm nhận và đánh giá được những ảnh hưởng kể trên của phương pháp giảng dạy
của giảng viên với họ.
Nguyễn Phương Nga & Bùi Kiên Trung (2005) “Sinh viên đánh giá hiệu quả giảng
dạy”, Giáo dục Đại học chất lượng và đánh giá, NXB ĐHQGHN năm 2005 [25]. Nhiều công
trình nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh kết quả sinh viên đánh giá hiệu quả môn học khá
khách quan; các thông tin thu được từ đánh giá của sinh viên đã không chỉ giúp giảng viên tự
điều chỉnh phương pháp dạy mà còn giúp nhà trường xem xét lại chương trình và nội dung
đào tạo của trường.
Bùi Kiên Trung (2005) “Hiệu quả trong công tác đánh giá giảng viên” Giáo dục Đại

học chất lượng và đánh giá, NXB ĐHQGHN năm 2005 [19]. Những đánh giá về hoạt
động giảng dạy của giảng viên từ phía sinh viên là nguồn thông tin quan trọng đánh giá
trực tiếp hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Vũ Phương Anh (2005)” Thực hiện thu thập và sử dụng ý kiến sinh viên trong đánh
giá chất lượng giảng dạy: Kinh nghiệm từ Đại học Quốc gia TP HCM” Giáo dục Đại học
chất lượng và đánh giá, NXB ĐHQGHN năm 2005 [1]. Không chỉ là một hình thức
mang tính tự nguyện, việc thu thập ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng
viên từ lâu trở thành một quy định bắt buộc tại nhiều nơi trên thế giới.
Lê Đức Ngọc (2005), Giáo dục đại học phương pháp dạy và học, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội [32]. Trong tài liệu này chỉ ra sự khác biệt giữa dạy và học lấy giảng viên làm
trung tâm và lấy sinh viên làm trung tâm.

6
Lê Văn Hảo, Trường đại học Nha Trang, Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua
PPGD dựa trên vấn đề [15]. Trong bài viết này tác giả đã nêu xu thế đổi mới phương pháp
giảng dạy đại học theo hướng lấy người học làm trung tâm.
Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng GDĐH, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
[31]. Tác giả cũng cập tới vấn đề vai trò của cán bộ giảng dạy trong quá trình đảm bảo chất
lượng, quá trình đào tạo ở các cơ sở GDĐH nước ta đã lạc hậu, giảng viên vẫn là nguồn cung
cấp thông tin chính cho sinh viên.
Trần Thị Bích Liễu (2007), Đánh giá chất lượng giảng dạy- Nội dung- Phương pháp-
Kỹ thuật, NXB Đại học Sư phạm [33]. Tác giả đưa ra rất nhiều phương pháp và hình thức
đánh giá chất lượng giáo dục để nhằm ĐBCLGD. Trong đó đề cập tới đánh giá quá trình
giảng dạy của giảng viên là một phần trong quá trình ĐBCLGD.
Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Qúy Thanh (2007), Giáo dục đại học, một số thành tố của
chất lượng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội [28]. Nhóm các tác giả đã nghiên cứu các thành tố
dẫn đến chất lượng như việc cải tiến thi đại học, sinh viên đánh giá giảng viên, hoạt động học
tập của sinh viên, học vị khoa học của giảng viên…Thông qua đó PPGD là một trong những
thành tố đảm bảo chất lượng trong GDĐH.
Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Qúy Thanh (2010), Giáo dục đại học, đảm bảo, đánh giá

và kiểm định chất lượng [27]. Trong tài liệu này gồm 3 phần: phần 1 về vấn đề kiểm định
chất lượng và xếp hạng các trường đại học, phần 2 về vấn đề đảm bảo chất lượng GDĐH và
phần 3 về vấn đề đánh giá chất lượng trong giáo dục.
Phạm Văn Quyết, Lê Thị Hồng Duyên (2011) ”Văn hóa ứng xử trong lấy ý kiến phản
hồi của người học về hoạt động giảng dạy của giáo viên”. Kỉ yếu hội thảo khoa học Văn hóa
chất lượng trong trường Đại học, NXB ĐHQG Hà Nội năm 2011 [39]. Việc lấy ý kiến phản
hồi của học sinh là hoàn toàn phù hợp với quá trình hội nhập hiện nay, việc mở rộng quy chế
dân chủ trong đời sống xã hội; phản hồi của người học giúp giáo viên tự nhìn lại bản thân và
cố gắng hoàn thiện tri thức cũng như nghiệp vụ sư phạm, bên cạnh đó học sinh được tôn
trọng và nói chung hoạt động giảng dạy trong trường học sẽ trở nên tốt hơn.
1.2. Cơ sở phƣơng pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng trong thế giới
vật chất luôn tồn tại mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng. Sự vật và hiện tượng
này có thể là nguyên nhân hoặc kết quả của các sự vật, hiện tượng khác.
Trong xã hội loài người giữa các sự kiện, các hiện tượng xã hội cũng luôn luôn có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, sự kiện, hiện tượng xã hội này tác động đến sự kiện, hiện
tượng khác tạo ra sự biến đổi, phát triển và ngược lại.
Trong giáo dục cũng vậy, khi nói đến giáo dục người ta thường nghĩ tới hoạt động dạy
học, giáo viên và học sinh. Dạy học là hoạt động phối hợp, tác động qua lại giữa hai chủ thể là

7
giáo viên và học sinh. Giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, học sinh là chủ thể của
hoạt động học tập. Hoạt động dạy và hoạt động học luôn gắn bó, không tách rời nhau, thống
nhất biện chứng với nhau. Dạy điều khiển học, học tuân thủ dạy. Dạy tốt dẫn đến học tốt, học
tốt đòi hỏi phải dạy tốt. Hoạt động dạy của giảng viên thay đổi tất yếu tác động đến hoạt động
học, ngược lại những đòi hỏi từ hoạt động học sẽ tác động trở lại đối với hoạt động giảng dạy
từ đó tạo ra sự biến đổi để có sự phù hợp giữa dạy và học.
1.3. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.3.1. Đánh giá
Đánh giá là quá trình xem xét mức độ phù hợp giữa mục tiêu và thực trạng thực hiện

mục tiêu đó. Hay nói cách khác, đánh giá quan tâm đến sự tương quan giữa các thông tin cụ
thể về thực trạng giáo dục với mục tiêu giáo dục, từ đó có những biện pháp thích hợp để nâng
cao hiệu quả và chất lượng giáo dục đào tạo
1.3.2. Hoạt động giảng dạy
Giảng dạy là sự điểu khiển tối ưu hóa quá trình sinh viên chiếm lĩnh khái niệm khoa
học, trong và bằng cách đó, phát triển và hình thành nhân cách.
Giảng dạy thường gồm 3 hoạt động chủ yếu sau:
+ Chuẩn bị đề cương môn học.
+ Phương pháp giảng dạy.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.
1.3.3. Đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên từ phía ngƣời học
Đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên hay ”Lấy ý kiến phản hồi từ phía người
học về hoạt động giảng dạy của giảng viên” là một sự rà soát, thẩm định trình độ chuyên
môn, khả năng sư phạm và ảnh hưởng của giảng viên với sinh viên, với nhà trường và cộng
đồng. Bản chất của đánh giá hoạt động giảng dạy từ phía người học là sự đo lường hiệu quả
giảng dạy của giảng viên thông qua tiếp nhận của người học với tư cách là chủ thể và đối
tượng của quá trình giáo dục.
1.3.4. Phƣơng pháp giảng dạy
PPGD là những con đường, cách thức hoạt động phối hợp của giáo viên và học sinh
nhằm thực hiện một nội dung dạy học đã được xác định và chủ thể của hoạt động dạy là giáo
viên, người tổ chức mọi hoạt động học tập của học sinh, chủ thể của hoạt động học là học
sinh, chủ thể tích cực trong nhận thức, rèn luyện và tu dưỡng bản thân.
1.3.4.1. Phƣơng pháp giảng dạy truyền thống
PPGD truyền thống là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và
được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản, PPGD này lấy hoạt động của người thầy là
trung tâm.
1.3.4.2. Phƣơng pháp giảng dạy tích cực

8
PPGD tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những

phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học. "Tích cực" trong PPGD tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động chủ động, trái
nghĩa với hoạt động thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.

1.3.5. Đổi mới phƣơng pháp giảng dạy
Đổi mới phương pháp dạy học là cải tiến những hình thức và cách thức làm việc kém
hiệu quả của giáo viên và học sinh, sử dụng những hình thức và cách thức hiệu quả hơn nhằm
nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực
của học sinh.
CHƢƠNG 2: SỰ THAY ĐỔI PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT ĐIỆN BIÊN TRONG NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY
2.1. Vài nét về Trƣờng Cao đẳng Kinh tế - Kỹ Thuật Điện Biên và việc lấy ý kiến phản
hồi của ngƣời học.
2.1.1. Sự thành lập và các ngành đào tạo.
Nêu tóm tắt sự thành lập, phát triển và các ngành nghề Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Điện Biên đang đào tạo.
2.1.2. Đội ngũ cán bộ, giảng viên trƣờng Cao đẳng Kinh tế - Kỹ Thuật Điện Biên.
Mô tả về số lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ, giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế
- Kỹ Thuật Điện Biên.
2.1.3. Việc đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên từ phía ngƣời học tại trƣờng
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ Thuật Điện Biên.
Công tác lấy ý kiến phản hồi từ phía người học về hoạt động giảng dạy của giảng viên
đã được Ban lãnh đạo Nhà trường quan tâm và triển khai thực hiện bắt đầu từ năm học 2009 –
2010. Tính đến tháng 6 năm 2011, Nhà trường đã tổ chức 4 lượt lấy ý kiến phản hồi từ người
học, tổng số giảng viên được lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên là 85 giảng viên giảng dạy ở 5
khoa, trong đó số giảng viên chưa được lấy ý kiến phản hồi là 15, giảng viên được lấy ý kiến
phản hồi 1 lần là 18, giảng viên được lấy ý kiến phản hồi 2 lần là 25, giảng viên được lấy ý
kiến phản hồi 3 lần là 25 và giảng viên được lấy ý kiến phản hồi 4 lần là 17.
Luận văn nêu rõ mục đích, nội dung và các quy trình lấy ý kiến phản hồi đang thực hiện

tại trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ Thuật Điện Biên.
2.2. Sự thay đổi phƣơng pháp giảng dạy của giảng viên trong những năm gần đây.
Trước khi xem xét chi tiết về việc sử dụng PPGD của giảng viên và sự đổi mới PPGD
của họ trước và sau năm học: 2009 - 2010 (năm Trường áp dụng việc lấy ý kiến phản hồi từ
phía người học), chúng tôi tiến hành xem xét tổng thể, kết quả tính toán được từ điều tra giảng

9
viên như sau: Các PPGD của giảng viên có mức tối thiểu là 16 điểm trong khi đó mức tối đa
là 42 điểm. Mức điểm trung bình dao động từ 30.67 đến 33.16 điểm. Kết quả này sơ bộ cho
chúng ta thấy mức độ thay đổi PPGD của giảng viên đã có những chuyển biến trước và sau
năm học 2009- 2010.
2.2.1. Phƣơng pháp Thầy đọc – Trò ghi
Kết quả khảo sát viêc sử dụng phương pháp Thầy đọc - Trò ghi trong năm 2008 – 2009
(khi chưa lấy ý kiến phản hồi) cho thấy rằng việc giảng viên đọc và sinh viên ghi là PPGD
phổ biến trong năm 2008 – 2009. Hiện nay, mức độ sử dụng phương pháp Thầy đọc – Trò ghi
giảm mạnh so với trước kia, đa số giảng viên hiếm khi sử dụng phương pháp này.
2.2.2. Phƣơng pháp Thuyết trình
Điểm trung bình về mức độ sử dụng phương pháp Thuyết trình của giảng viên thời điểm
trong năm 2008 – 20 là 3,850 thời điểm sau khi lấy ý kiến phản hồi là 3,72 chứng tỏ hiện nay
mức độ sử dụng phương pháp Thuyết trình của giảng viên có giảm so với trước kia, tuy vậy
vẫn ở mức khá thường xuyên.
2.2.3. Phƣơng pháp Đàm thoại (Vấn đáp)
Điểm trung bình về mức độ sử dụng phương pháp Đàm thoại thời điểm trong năm 2008
– 2009 là 3,100 thời điểm sau khi lấy ý kiến phản hồi là 3,660 chứng tỏ hiện nay mức độ sử
dụng phương pháp Đàm thoại tăng đáng kể so với trước kia, đa số giảng viên khá thường
xuyên sử dụng phương pháp này trong giảng dạy.
2.2.4. Phƣơng pháp giảng dạy Sử dụng phƣơng tiện trực quan
Điểm trung bình về mức độ sử dụng phương pháp Sử dụng phương tiện trực quan của
giảng viên thời điểm trong năm học 2008 – 2009 là 2,560 thời điểm sau khi lấy ý kiến phản
hồi là 3.070 điều này cho thấy hiện nay mức độ sử dụng phương pháp Sử dụng phương tiện

trực quan tăng so với trước kia, tuy nhiên đa số giảng viên chỉ thỉnh thoảng sử dụng phương
pháp này.
2.2.5. Phƣơng pháp dạy học Đặt và Giải quyết vấn đề
Điểm trung bình về mức độ sử dụng phương pháp Đặt và Giải quyết vấn đề của giảng
viên thời điểm trong năm học 2008 – 2009 là 3,140 thời điểm sau khi lấy ý kiến phản hồi là
3.590 điều này cho thấy hiện nay mức độ sử dụng phương pháp Đặt và Giải quyết vấn đề tăng
so với trước kia, năm học 2009 – 2010 đa số giảng viên thỉnh thoảng sử dụng đến nay đa số
giảng viên khá thường xuyên sử dụng phương pháp này.
PPGD này đang được sử dụng phổ biến ở cả 5 khoa trong đó chúng tôi thấy PPGD này
được giảng viên ở các khoa: Kinh tế, Kỹ thuật và Cơ sở áp dụng một cách khá thường xuyên.
Cùng với sự đổi mới phương pháp giảng dạy thì giảng viên cũng chú trọng đến việc sử dụng các
phương tiện hỗ trợ giảng dạy để góp phần làm cho bài giảng phong phú, hấp dẫn. Thống kê cho
thấy hiện nay phần lớn giảng viên của các khoa thường xuyên sử dụng máy chiếu Projecter, gần

10
như 100% giảng viên sử dụng máy tính để soạn giảng và thường xuyên sử dụng Internet để khai
thác thông tin phục vụ cho giảng dạy, chỉ có việc sử dụng Ti vi và Đài là không phổ biến ở các
khoa bởi do đặc thù bộ môn, khoa Cơ sở có bộ môn Ngoại ngữ vì vậy các giảng viên Ngoại ngữ
thường xuyên sử dụng đài và tivi để giảng dạy.

2.2.6. Phƣơng pháp
Dạy học Dự án
Điểm trung bình về mức độ sử dụng phương pháp dạy học Dự án của giảng viên thời
điểm năm học 2008 – 2009 là 2,73, thời điểm hiện nay là 3,22 chứng tỏ hiện nay mức độ sử
dụng phương pháp dạy học Dự án đã tăng so với trước kia, tuy nhiên đa số giảng viên chỉ
thỉnh thoảng sủ dụng phương pháp này.
2.2.7. Phƣơng pháp Nghiên cứu trƣờng hợp
Điểm trung bình về mức độ sử dụng
Phương pháp Nghiên cứu trường hợp của
giảng

viên

thời điểm năm học 2008 – 2009 là 2.700 thời điểm hiện nay là 2.980 điều này cho thấy
hiện nay mức độ sử dụng
Phương pháp Nghiên cứu trường hợp

tăng so với trước kia, tuy vậy
vẫn dừng ở mức thỉnh thoảng sử dụng.
2.2.8. Phƣơng pháp Dạy học nhóm
Điểm trung bình về mức độ sử dụng Phương pháp dạy học Nhóm của giảng viên thời
điểm năm học 2008 – 2009 là 3,150, thời điểm hiện nay là 3,860 điều này cho thấy hiện nay
mức độ sử dụng Phương pháp dạy học nhóm tăng mạnh so với trước kia, từ chỗ đa số giảng
viên thỉnh thoảng sử dụng đến nay đa số giảng viên khá thường xuyên sử dụng. Điều này cho
chúng ta thấy đây là một trong số các phương pháp có hiệu quả cao, phù hợp với nhiều
chuyên ngành và đối tượng sinh viên.
PPGD dạy học Nhóm đang được sử dụng phổ biến ở cả 5 khoa trong đó giảng viên ở các
khoa Kinh tế, Kỹ thuật, Mác Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh áp dụng PPGD nhóm một cách
khá thường xuyên. Tỷ lệ giảng viên sử dụng PPGD này 74% khá thường xuyên sử dụng và
thường xuyên sử dụng, thỉnh thoảng sử dụng và hiếm khi sử dụng là 20%. Chỉ có 6% giảng
viên không sử dụng PPGD này. Như vậy một lần nữa khẳng định phương pháp này hiện nay
là phương pháp các giảng viên đang sử dụng rộng rãi.

2.2.9. Phƣơng pháp Động não (Công não)

Điểm trung bình về mức độ sử dụng
Phương pháp Công não

của
giảng viên thời điểm
năm học 2008 – 2009 là 3,040, thời điểm hiện nay là 3,390 điều này cho thấy hiện nay mức

độ sử dụng
Phương pháp công não
tăng so với trước kia, tuy nhiên đa số giảng viên chỉ thỉnh
thoảng sử dụng phương pháp này trong giảng dạy.
2.2.10. Phƣơng pháp Đóng vai

11
Điểm trung bình về mức độ sử dụng
Phương pháp Đóng vai

của
giảng viên thời điểm
năm học 2008 – 2009 là 2,760, thời điểm hiện nay là 3,360 điều này cho thấy hiện nay mức
độ sử dụng Phương pháp đóng vai tăng mạnh so với trước kia, đa số giảng viên khá thường
xuyên sử dụng phương pháp này.
PPGD này đang được sử dụng phổ biến ở 2 khoa khoa Kinh tế và khoa Cơ sở. Tỷ lệ
giảng viên sử dụng PPGD này ở 5 Khoa là 54% khá thường xuyên sử dụng và thường xuyên
sử dụng; thỉnh thoảng sử dụng và hiếm khi sử dụng là 32% và có tới 14% giảng viên không sử
dụng PPGD này.
Kết luận Chương 2: Qua phân tích số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy rằng việc lấy ý
kiến phản hồi về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Điện Biên trong thời gian vừa qua đã tác động đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của
giảng viên, hiện tượng đọc – ghi, lý thuyết xuông gần như không còn nữa thay vào đó là
PPGD theo hướng phát huy tính tích cực, tư duy độc lập của Sinh viên ngày càng được giảng
viên sử dụng nhiều hơn như: phương pháp Đặt và Giải quyết vấn đề, phương pháp Dạy học
nhóm, phương pháp Đàm thoại, phương pháp dạy học Dự án…, bên cạnh việc đổi mới
phương pháp giảng dạy giảng viên cũng chú trọng đến việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ
giảng dạy và tích cực để phù hợp với sự phát triển của xã hội, phù hợp với những đòi hỏi
ngày càng cao của sinh viên từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC LẤY Ý KIẾN PHẢN HỒI TỪ PHÍA NGƢỜI HỌC

TỚI VIỆC ĐỔI MỚI PPGD CỦA GIẢNG VIÊN
3.1. Nghiên cứu những trƣờng hợp điển hình
Sau khi điều tra 100 giảng viên đang giảng dạy tại trường chúng tôi đã tìm ra được 5
giảng viên có mức độ đổi mới phương pháp tốt và 5 giảng viên có mức độ đổi mới phương
pháp kém nhất nhất trong thời gian qua. Chúng tôi tiến hành khảo sát, phỏng vấn sâu sinh
viên, giảng viên để tìm hiểu nguyên nhân của việc đổi mới tốt và kém ở giảng viên.
Kết quả cho thấy, nhìn chung sau khi có hoạt động lấy ý kiến phản hồi của sinh viên
giảng viên đã có những thay đổi nhất định về các hoạt động giảng dạy, đặc biệt những hoạt
động nằm trong phần đánh giá của sinh viên về giảng viên mà phương pháp giảng dạy là một
nội dung quan trọng. Những thay đổi này đều nhằm hướng tới làm thỏa mãn nhu cầu của sinh
viên trong học tập (thỏa mãn nhu cầu khách hàng) và tự hoàn thiện bản thân của giảng viên
với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng giảng dạy giúp sinh viên nắm vững kiến thức,
kỹ năng. Tuy vậy bên cạnh số đông giảng viên luôn tích cực đổi mới hoạt động giảng dạy thi
vẫn còn một số ít giảng viên còn quan niệm phong kiến về hoạt động lấy ý kiến phản hồi nên
chậm đổi mới, điều này ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giảng dạy và uy tín của giảng
viên.

12
3.2. Tác động của hoạt động lấy ý kiến phản hồi của sinh viên đối với việc đổi mới PPGD
của giảng viên
Bên cạnh việc khảo sát sự đổi mới phương pháp của giảng viên khi triển khai hoạt
động lấy ý kiến phản hồi của sinh viên chúng tôi cũng khảo sát ý kiến của sinh viên và giảng
viên về tác động của việc lấy ý kiến phản hồi đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Kết quả thống kê cho thấy có 89% giảng viên và 82.5% sinh viên đều nhận xét việc
lấy ý kiến phản hồi có ảnh hưởng đến việc đổi mới PPGD của giảng viên và rất ít giảng viên
và sinh viên cho rằng hoạt động này không có ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp
giảng dạy của giảng viên.
Để làm rõ tác động của việc lấy ý kiến phản hồi đối với việc đổi mới PPGD của giảng
viên tác giả đã xét mối quan hệ giữa biến ”PPGD của giảng viên” với biến ”Số lần lấy ý kiến
phản hồi” ở thời điểm sau khi lấy ý kiến phản hồi. Kết quả cho thấy khi giảng viên được lấy ý

kiến phản hồi nhiều lần đã giảm hẳn việc đọc ghi và thuyết trình bài giảng đồng thời tăng mức
độ sử dụng nhóm phương pháp giảng dạy hiện đại.
Tuy nhiên, để có kết luận chắc chắn về mối quan hệ giữa 2 biến “Số lần lấy ý kiến phản
hồi” và biến “PPGD của giảng viên” chúng tôi tiến hành xét mối tương quan tuyến tính giữa
hai biến và phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến để chỉ ra mức độ tác động của số lần lấy ý
kiến phản hồi đối với PPGD của giảng viên.
Kết quả thống kê cho thấy Hệ số tương quan r giữa số lần lấy ý kiến phản hồi với PPGD
của giảng viên là 0,838, Sig (2 – tailed) = 0,000 < 0,05. Giá trị này cho ta thấy rằng giữa số
lần lấy ý kiến phản hồi và PPGD của giảng viên có mối tương quan thuận chặt chẽ.
Để chỉ ra mức độ tác động của số lần lấy ý kiến phản hồi đối với PPGD của giảng viên
chúng tôi tiến hành phân tích hồi quy tuyến tính đơn (chỉ ra mối quan hệ nhân quả). Kết quả
thống kê như sau: Tìm được các hệ số của phương trình hồi quy tuyến tính đơn biến B0 =
27,378; B1 = 2,740, độ dốc của đường hồi quy (có nhãn Beta) = 0,838.
Khi đó ta viết được phương trình hồi quy tuyến tính đơn biến:
PPGD của giảng viên = 27,378 + 2,740* Số lần lấy ý kiến + ε
Như vậy, khi các điều kiện khác không thay đổi thì khi số lần lấy ý kiến phản hồi tăng
thêm 1 đơn vị sẽ làm cho PPGD của giảng viên thay đổi tương ứng là tăng thêm 2,740 đơn
vị.
Bình phương hệ số tương quan R
2
= 0,701. Điều này có ý nghĩa rằng số lần lấy ý kiến
phản hồi giải thích đến 70,1% sự biến thiên của biến PPGD của giảng viên, gần 30% còn lại
là do các nguyên nhân khác.

13
Qua phân tích thống kê trên chúng ta thấy số lần lấy việc ý kiến phản hồi đã tác động
đến mức độ áp dụng phương pháp giảng dạy của giảng viên, hay nói cách khác càng nhiều lần
có ý kiến phản hồi thì phương pháp giảng dạy càng thay đổi nhiều.
3.3. Sử dụng kết quả lấy ý kiến phản hồi ảnh hƣởng đến việc đổi mới hoạt động giảng
dạy của giảng viên.

Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ giảng viên đồng ý và hoàn toàn đồng ý lấy kết quả ý kiến
phản hồi của sinh viên làm tiêu chí để nâng lương sớm là 95%, chỉ có 5% giảng viên còn đang
phân vân giữa đồng ý và đồng ý một phần, tỉ lệ này ở sinh viên 95%. Như vậy khi kết quả lấy
ý kiến phản hồi trở thành một tiêu chí để hưởng chế độ chính sách là một trong những động
lực để giảng viên phấn đấu và điều này được sinh viên đồng tình ủng hộ;
Tỉ lệ giảng viên đồng ý và hoàn toàn đồng ý lấy kết quả ý kiến phản hồi của sinh viên là
một trong những tiêu chí để công nhận danh hiệu chiến sỹ thi đua là 93%, tỉ lệ này ở sinh viên
cũng là 100%. Như vậy việc sử dụng kết quả lấy ý kiến phản hồi của sinh viên để xét thi đua
khen thưởng là việc nên làm để khuyến khích giảng viên thi đua giảng dạy tôt.
Tỉ lệ giảng viên đồng ý và hoàn toàn đồng rằng giảng viên được đánh giá quá thấp sẽ bị
đình chỉ giảng dạy là 75%, phân vân giữa đồng ý một phần và cơ bản đồng ý là 11%, chỉ đồng
ý một phần là 14%, trong khi đó tỉ lệ sinh viên đồng ý về cơ bản và hoàn toàn đồng ý là
100%. Như vậy ta thấy đa số ý kiến của giảng viên và sinh viên đều đồng tình với quan điểm
sẽ đình chỉ những giảng viên có chất lượng giảng dạy kém, khi thực hiện được điều này buộc
giảng viên phải cố gắng đổi mới hoạt động giảng dạy để đáp ứng nhu cầu người học và để tồn
tại.
Tỉ lệ giảng viên hoàn toàn đồng ý rằng kết quả phản hồi được công bố công khai cho
giảng viên toàn trường và cho toàn thể sinh viên 88%, tỉ lệ này ở sinh viên là 100%. Như vậy
ta thấy việc công khai kết quả lấy ý kiến phản hồi là cần thiết để cả sinh viên và giảng viên
cùng biết, hoạt động này vừa đảm bảo quyền dân chủ cho sinh viên (người học được tôn
trọng) và giảng viên vừa tác động đến hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Có thể thấy rằng giảng viên rất tích cực trong việc chuyển biến bản thân khi nhận được
kết quả đánh giá, đây là sự tự nguyện thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới, đáp ứng nhu
cầu tự khẳng định bản thân qua đánh giá của sinh viên, tuy vậy sự chuyển biến sẽ mạnh mẽ
hơn nữa khi kết quả lấy ý kiến phản hồi được nhà quản lý sử dụng đúng mục đính và phù hợp
với nhu cầu của người học và mong muốn của người dạy.
Kết luận chương 3: Đa số giảng viên và sinh viên thấy được sự cần thiết và vai trò quan
trọng của việc lấy ý kiến phản hồi đối với việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng
viên. Càng nhiều lần có ý kiến phản hồi thì phương pháp giảng dạy càng thay đổi nhiều. Sự
đổi mới phương pháp giảng dạy này hướng tới làm thỏa mãn nhu cầu của sinh viên trong học

tập và tự hoàn thiện bản thân của giảng viên nhằm mục đích nâng cao chất lượng giảng dạy

14
giúp sinh viên nắm vững kiến thức, kỹ năng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà
trường. Do vậy việc tiếp tục duy trì hoạt động này đồng thời thay đổi việc sử dụng kết quả lấy
ý kiến phản hồi sẽ có tác động mạnh mẽ hơn nữa đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy
của giảng viên.

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả phân tích trên có thể kết luận về tác động của việc lấy ý kiến phản hồi từ
người học đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế -
Kỹ thuật Điện Biên như sau:
Nhìn chung giảng viên đã có những đổi mới nhất định trong phương pháp giảng dạy,
phát huy, đổi mới và tăng cường sử dụng những phương pháp được sinh viên đánh giá là có
hiệu quả đối với môn học, không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng những phương pháp sinh viên
đánh giá không tốt.
- Giảm việc sử dụng phương pháp Đọc – ghi, Thuyết trình suông, tăng mức độ áp dụng
các phương pháp phát huy tư duy độc lâp, chủ động sáng tạo của sinh viên: phương pháp Đặt
và giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học Nhóm, phương pháp dạy học Dự án, phương pháp
Công não
- Kết hợp đổi mới phương pháp giảng dạy với việc tăng cường sử dụng phương tiện hỗ
trợ giảng dạy để nâng cao hiệu quả giảng dạy tạo sự hấp dẫn, thu hút người học.
Số lần lấy việc ý kiến phản hồi đã tác động mạnh mẽ đến mức độ đổi mới phương pháp
giảng dạy của giảng viên, càng nhiều lần có ý kiến phản hồi thì phương pháp giảng dạy càng
thay đổi nhiều. Sự đổi mới phương pháp giảng dạy này hướng tới làm thỏa mãn nhu cầu của
sinh viên trong học tập và tự hoàn thiện bản thân của giảng viên nhằm mục đích nâng cao chất
lượng giảng dạy giúp sinh viên nắm vững kiến thức, kỹ năng góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường.
Đa số giảng viên và sinh viên thấy được vai trò quan trọng của việc lấy ý kiến phản hồi

đối với việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên. Do vậy việc tiếp tục duy trì hoạt
động này đồng thời thay đổi việc sử dụng kết quả lấy ý kiến phản hồi sẽ có tác động mạnh mẽ
hơn nữa đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên.
2. Khuyến nghị
Hoạt động sinh viên đánh giá giảng viên không còn là vấn đề quá mới mẻ đối với giáo
dục Đại học nước ta, đã có nhiều trường Đại học và Cao đẳng lớn áp dụng và đem lại những
hiệu quả nhất định cho đào tạo. Tuy nhiên với trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên
– một trường Cao đẳng khiêm tốn vừa được nâng cấp từ trường trung cấp cách đây 4 năm
thuộc miền núi phía Bắc – thì đây là một hoạt động hoàn toàn mới mẻ, nếu áp dụng không

15
đúng cách sẽ không có tác dụng. Có thể thấy nhà trường đã rất quan tâm đến hoạt động này và
triển khai thực hiện khá tốt trong thời gian qua, tuy vậy vì là hoạt động mới nên việc áp dụng
vẫn còn một số hạn chế nhất định. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, thông qua phỏng vấn sâu
giảng viên, sinh viên, trưởng khoa và lãnh đạo nhà trường chúng tôi xin đưa ra một số khuyến
nghị nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả việc lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động
giảng dạy của giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Điện Biên.
2.1. Đối với nhà trƣờng
Nhà trường cần tổ chức những buổi tuyên truyền, tập huấn cho giảng viên, sinh viên về
nội dung của hoạt động lấy ý kiến phản hồi từ người học nói riêng và về công tác đảm bảo
chất lượng nói chung để giảng viên và sinh viên hiểu sâu và nhận thức đúng đắn về hoạt động
này.
Việc lấy ý kiến phản hồi nên được tiến hành đúng thời điểm, ngay sau buổi học cuối
cùng của học phần kết thúc không nên dồn việc lấy ý kiến phản hồi của tất cả các môn vào
cuối học kì như hiện nay.
Thời gian để sinh viên trả lời vào phiếu phản hổi cũng phải đảm bảo. Vì sinh viên cần có
đủ thời gian để đọc phiếu, suy nghĩ và điền phiếu nếu thời gian không đảm bảo sinh viên sẽ
điền bừa, kết quả sẽ không chính xác.
Nên phản hồi kịp thời ý kiến của sinh viên cho giảng viên biết để họ điều chỉnh ngay
cho phù hợp qua đó thể hiện cho giảng viên biết nhà trường rất quan tâm, chú trọng đến hoạt

động này.
Kết quả phản hồi cần được sử dụng hợp lý để tăng hiệu quả tác động, có thể dùng làm
một trong những tiêu chí để tăng lương sớm; là một trong những tiêu chí công nhận danh hiệu
chiến sỹ thi đua; là điều kiện để tiếp tục hoặc đình chỉ hoạt động giảng dạy. Nếu thực hiện
được điều này thì hiệu quả giảng dạy sẽ thay đổi, giảng viên sẽ có động lực để đổi mới hoạt
động giảng dạy.
Kết quả phản hồi cũng cần được công bố rộng rãi trong toàn trường, trên Website của
nhà trường để cả giảng viên và sinh viên đều biết. Đồng thời thể hiện cho sinh viên biết ý kiến
của họ được nhà trường quan tâm, lắng nghe, thấu hiểu và tôn trọng có như vậy sinh viên mới
nghiêm túc trong cho ý kiến phản hồi từ đó chất lượng ý kiến phản hồi sẽ tốt hơn.
2.2. Đối với khoa
Trưởng Khoa nên chủ động tìm hiểu kết quả phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng
dạy của giảng viên trong khoa sau mỗi đợt lấy ý kiến phản hồi để kịp thời tác động tới giảng
viên.
Có biện pháp phù hợp, kịp thời để tác động tới những giảng viên có kết quả phản hồi
không tốt, có chính sách nêu gương, khen thưởng kịp thời đối với những giảng viên được sinh
viên đánh giá tốt.

16
Nên có kế hoạch, biện pháp cụ thể để theo dõi, điều chỉnh và cải tiến hoạt động giảng
dạy của giảng viên. Với những giảng viên có ý kiến phản hồi không tốt sau nhiều lần trao đổi,
nhắc nhở, dự giờ mà vẫn không cải tiến hoạt động giảng dạy, Trưởng khoa có thể kiến nghị
với lãnh đạo Nhà trường tạm đình chỉ hoạt động giảng dạy để bồi dưỡng thêm.
Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến về hoạt động lấy ý kiến phản hồi cho giảng viên
trong khoa biết, nhất là những giảng viên mới nhận công tác.
2.3. Đối với Giảng viên
Giảng viên nên chủ động tìm hiểu về hoạt động lấy ý kiến phản hồi của nhà trường và
tìm hiểu thêm về hoạt động này qua sách báo, mạng Internet để có hiểu biết và nhận thức
đúng đắn về hoạt động này.
Tìm hiểu kĩ nội dung phiếu phản hồi, đối tượng sinh viên chuẩn bị giảng dạy để có

những điều chỉnh hoạt động giảng dạy cho phù hợp.
Không ngừng học hỏi, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của sinh viên.
Có ý kiến góp ý kịp thời về những hạn chế của hoạt động lấy ý kiến phản hồi để hoạt
động này ngày càng có hiệu quả cao.
2.4. Đối với Sinh viên
Sinh viên nên chủ động tìm hiểu về hoạt động lấy ý kiến phản hồi của nhà trường và
tìm hiểu thêm về hoạt động này qua sách báo, mạng Internet để có hiểu biết và nhận thức
đúng đắn về hoạt động này.
Nên đọc kĩ nội dung phiếu phản hồi trước khi đưa ra ý kiến.
Việc cho ý kiến phản hồi vừa là trách nhiệm vừa là quyền lợi của người học, vì vậy sinh
viên nên đưa ra ý kiến trung thực, khách quan và mang tính xây dựng góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy của nhà trường.
2.5. Hạn chế của nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ nghiên cứu tác động của việc lấy ý kiến phản hồi đến
việc đổi mới PPGD của giảng viên, tuy nhiên PPGD của giảng viên thay đổi có thể do những
yếu tố chủ quan khác như trình độ giảng viên thay đổi, ý thức nhận thức thay đổi, nhu cầu xã
hội hoặc có thể do tuổi tác của đội ngũ giảng viên được trẻ hóa…
2.6. Hƣớng nghiên cứu tiếp theo
Những yếu tố chưa được nghiên cứu hết trong đề tài này sẽ là hướng mở rộng
nghiên cứu tiếp theo của đề tài. Nếu có điều kiện nghiên cứu cao hơn tác giả luận văn sẽ mở
rộng nghiên cứu tiếp tác động của việc lấy ý kiến phản hồi đến chất lượng đào tạo của các
trường Cao đẳng, Đại học khu vực Tây Bắc.

References

17
Tài liệu tiếng Việt
1. Vũ Thị Phương Anh (2005), Thực hiện thu thập và sử dụng ý kiến sinh viên trong đánh giá
chất lượng giảng dạy: Kinh nghiệm từ Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Giáo dục đại học

chất lượng và đánh giá. Tr48-tr63, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005.
2. Nguyễn Phương Anh, Sinh viên đánh giá giảng viên: Tỷ lệ phản hồi nào là phù hợp?

3. TS. Nguyễn Đình Bình (2005), Năng lực sư phạm và đánh giá năng lực sư phạm của giáo
viên, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của
giảng viên của ĐHQG. Tr1-tr5, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005.
4. Báo tự đánh giá của trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Điện Biên tháng 5 năm 2012.
5. Báo cáo tình hình giảng dạy của giảng viên năm học 2008 - 2009 của trường Cao đẳng
Kinh tế Kỹ thuật Điện Biên.
6. Báo cáo tình hình giảng dạy của giảng viên năm học 2010 - 2011 của trường Cao đẳng
Kinh tế Kỹ thuật Điện Biên.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Công văn số 1276/BGD-ĐT/NG ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng
Giáo dục và Đào tạo về việc “Hướng dẫn tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ sinh viên về hoạt
động giảng dạy của giảng viên”.
8. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier, Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp giảng
dạy ở trường phổ thông, Berlin/Hà Nội 2010.
9. PGS.TS. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, NXB
Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2002.
10. PGS.TS. Ngô Doãn Đãi (2005), Tác động của chuẩn hoá đánh giá giảng viên tới công tác
tổ chức và quản lý giảng viên, kỷ yếu Hội thảo quốc gia đánh giá hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của giảng viên của ĐHQG. Tr10-tr15, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2005.
11. Nguyễn Thị Thu Hương, Sự thích ứng của giảng viên đối với hoạt động sinh viên đánh
giá giảng viên tại ĐH Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ.
12. Cấn Thị Thanh Hương (2005), Đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học quốc gia Hà
Nội,Tr35-tr39, kỷ yếu Hội thảo quốc gia đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
học của giảng viên của ĐHQG. Tr10-tr15, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005.

18
13. TS. Lê Văn Hảo (2005), Lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy: một vài kinh nghiệm

thế giới và tại Trường đại học Nha Trang, kỷ yếu Hội thảo Quốc gia đánh giá hoạt động
giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên. Tr24-tr29, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2005.
14. Nguyễn Chí Hòa (2010), thực tiễn đánh giá bài giảng của giảng viên tại trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tr119 - tr131, GDĐH, đảm bảo, đánh giá và kiểm định chất
lượng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Lê Văn Hảo, Trường ĐH Nha Trang, Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua PPGD dựa
trên vấn đề.
16. PGS.TS. Vũ Hồng Tiến, Một số phương pháp dạy học tích cực,

17. Trịnh Khắc Thẩm (2005), Đổi mới phương pháp dạy-học và kiểm tra, đánh giá - giải
pháp hàng đầu để nâng cao chất lượng đào tạo. Tr160-tr175, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2005.
18. Trần Mạnh Trung (2008), “Giáo dục phổ thông cần có “Một cuộc cách mạng” về phương
pháp giảng dạy” - Tạp chí dạy và học ngày nay tháng 04 năm 2008.
19. Bùi Kiên Trung (2005), hiệu quả công tác đánh giá giảng viên, Tr103-tr109, Giáo dục đại
học chất lượng và đánh giá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005.
20. Đoàn Quang Thọ, Giáo trình triết học, NXB Chính trị - Hành chính.
21. Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục, ĐHQG Hà Nội
(2005), Giáo dục đại học, chất lượng và đánh giá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Lã Văn Mến (2005), Đánh giá phương pháp giảng dạy của giảng viên, Giáo dục và đại
học - chất lượng và đánh giá. Tr110-tr119, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2005.
23. Một số kỹ thuật dạy học tích cực, tài liệu tập huấn Dự án Việt Bỉ.
24. PGS.TS. Nguyễn Phương Nga (2005), Quá trình hình và phát triển việc đánh giá giảng
viên, Giáo dục đại học, một số thành tố của chất lượng. Tr180-tr237, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2005.
25. PGS.TS. Nguyễn Phương Nga và Bùi Kiên Trung (2005), Sinh viên đánh giá hiệu quả
giảng dạy. Giáo dục đại học chất lượng và đánh giá. Tr120-tr139, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2005.


19
26. PGS.TS. Nguyễn Phương Nga (2007), Sinh viên đánh giá giáo viên - thử nghiệm công cụ
và mô hình, Giáo dục đại học, một số thành tố của chất lượng. Tr180-tr237, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2007.
27. PGS.TS Nguyễn Phương Nga, PGS.TS. Nguyễn Qúy Thanh (2010), GDĐH, đảm bảo,
đánh giá và kiểm định chất lượng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. PGS.TS. Nguyễn Phương Nga, PGS.TS. Nguyễn Qúy Thanh (2007), Giáo dục đại học,
một số thành tố của chất lượng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Vũ Thị Quỳnh Nga, Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc đánh giá của sinh viên đối với hoạt
động giảng dạy, Luận văn Thạc sỹ.
30. Phượng Nguyên, “Trò chấm thầy”: Rút ngắn khoảng cách thầy trò,
tro/75165253/203/.
31. Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng GDĐH, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. PGS. TS. Lê Đức Ngọc (2005), Giáo dục đại học phương pháp dạy và học, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
33. Trần Thị Bích Liễu (2007), Đánh giá chất lượng giảng dạy-Nội dung- Phương pháp- Kỹ
thuật, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2007.
34. Lê Chi Lan, Tác động của các biện pháp đảm bảo chất lượng giáo dục tới phương pháp
giảng dạy của giảng viên (nghiên cứu tại trường Đại học Sài Gòn). Luận văn Thạc sỹ.
35. Th.S. Mai Thị Quỳnh Lan (2005), Một số ưu và nhược điểm của việc sinh viên đánh giá
giảng viên, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học
của giảng viên của ĐHQG. Tr56-tr60, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2005.
36.Th.S. Nguyễn Quang Giao (2005), Bàn về phương pháp đánh giá hoạt động giảng dạy của
giảng viên thông qua đánh giá của sinh viên, kỷ yếu Hội thảo Quốc gia đánh giá hoạt động
giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên. Tr24-tr29, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2005.
37. PGS.TS. Phạm Văn Quyết, PGS.TS. Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên
cứu xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. PGS.TS. Phạm Văn Quyết (2009), Thiết kế công cụ đo lường và khảo sát cho nghiên cứu
định lượng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

39. PGS. TS. Phạm Văn Quyết, Lê Thị Hồng Duyên (2011) ”Văn hóa ứng sử trong lấy ý kiến
phản hồi của người học về hoạt động giảng dạy của giáo viên”. Kỉ yếu hội thảo khoa học
Văn hóa chất lượng trong trường Đại học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011.

20
40. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, NXB Đại học Quốc gia năm 2000.
Tài liệu tiếng Anh
41. Deborah DeZure (1999), Evaluating Teaching Through Peer Classroom Observation,
Changing Practices in Evaluating Teaching, tr70-tr96.
42. Michele Marincovic (1999), Using Student Feedback to Improve Teaching, Changing
Practices in Evaluating Teaching, tr45-tr69.
43. NGA Center for Best Practices, Improving Teacher Evaluation to Improve Teaching
Quality, Education Policy Studies Division, December 9, 2002.
44. Sylvia Chong, Quality teaching and learning: a quality assurance framework for initial
teacher preparation.
45. Jacqueline Douglas và Alex Douglas, Evaluating Teaching Quality, Quality in Higher
Education, Vol12, No.1, April 2006.
46. Joseph C. Moreale (1999), Post - Tenure Review: Evaluating, Changing Practices in
Evaluating Teaching, tr116-tr138.
47. Robert E.Stake (1998) Teacher Evaluation: University of Illinois, Urbana-Champaign.
48. William E. Cashin (1999), Student Ratings of teaching: Uses and Misuses, Changing
Practices in Evaluating Teaching tr25-tr44.

×