Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.99 KB, 16 trang )

Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
State enterprises equitization in Vietnam in international economic integration
conditions
NXB H. : ĐHKT, 2012 Số trang 83 tr. +


Đặng Thanh Tâm


Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế; Mã số: 60.31.07
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Thanh
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Tổng hợp những vấn đề lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Phân
tích các chế độ, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong các giai đoạn khác
nhau ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
những năm qua. Tìm kiếm và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.

Keywords: Doanh nghiệp nhà nước; Cổ phần hóa; Hội nhập kinh tế; Kinh tế quốc tế

Content.

̉
ĐÂ
̀
U
1. Tính cấp thiết của đề tài


Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt nền kinh tế nước ta trước rất nhiều sức ép và
thách thức. Vấn đề có tính chất quyết định với nền kinh tế nước ta hiện nay là nâng cao nội lực, nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế mà khu vực kinh tế Nhà nước với vai trò là đầu tàu. Cổ phần hoá
(CPH) các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế của các DNNN. CPH các DNNN là trọng tâm trong nhiệm vụ đổi mới
doanh nghiệp ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi
mà nền kinh tế nước ta đã hội nhập kinh tế thế giới.
Hiện nay, trước tình hình mới, trên đà hội nhập kinh tế thế giới, quá trình CPH các DNNN vẫn
đang tiếp tục được đẩy mạnh, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả là không đơn giản, nhất là
trong bối cảnh số lượng DNNN phải CPH còn nhiều, quy mô, tính chất của các DNNN phải CPH
phức tạp hơn trước nhiều. Hội nhập kinh tế ở Việt Nam là yêu cầu khách quan của việc phải cơ cấu
lại sâu rộng hơn nữa khu vực DNNN, tiến tới xóa bỏ những bao cấp, đặc quyền của khu vực DNNN
nhằm đáp ứng đòi hỏi của việc mở cửa nền kinh tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, thực
thi các cam kết quốc tế và khu vực. Nhận thức được nhu cầu này, tôi đã quyết định chọn đề tài “Cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để
đánh giá tổng hợp và chi tiết về thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình CPH
các DNNN trong điều kiện hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu.
Về sách chuyên khảo, tạp chí có thể nêu: Giáo trình “Quy định mới về cổ phần hoá doanh
nghiệp” của Lê Phú Hoành – Nhà xuất bản Tài chính, 2005. “Cổ phần hóa – Kinh nghiệm thế giới”
của Hoàng Đức Tảo – Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội năm 1993. “Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa” của Trần Sửu – Nhà xuất bản Lao Động, 2006. “Trăm mối lo
hậu cổ phần hóa” của Ninh Kiều trên Thời báo kinh tế năm 2004. Nguyễn Hoàng Anh với bài “Một
số kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa”, đăng trên tạp chí Kinh tế và
phát triển số 9/2002…
Cũng có một số luận án, luận văn về CPH các DNNN như: Luận án “Nâng cao sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp ra đời từ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước” của Phạm Thị Huyền, trường đại
học Thương Mại năm 2009. Luận án “Sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong
hội nhập kinh tế quốc tế” của Lê Hữu Thành, trường đại học Kinh tế quốc dân năm 2004.
Nhìn chung, các nghiên cứu về CPH các DNNN ở Việt Nam không nhiều, chủ yếu do các Bộ,

ngành có trách nhiệm thực hiện nên chưa mang tính tổng hợp, chủ yếu phân tích về CPH DNNN,
nâng cao sức cạnh tranh nói chung, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về CPH các DNNN
ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, các cam kết về CPH DNNN khi nước ta gia
nhập WTO trùng với đề tài luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận, từ các số liệu thống kê thực tế đề xuất các
giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới. Để thực hiện mục tiêu này, luận văn sẽ giải quyết những
nhiệm vụ sau: Tổng hợp những vấn đề lý luận, chế độ, chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước trong các giai đoạn khác nhau ở Việt Nam; đánh giá thực trạng của hoạt động này những năm
qua; tìm kiếm và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước
ta. Về phạm vi thời gian, luận văn nghiên cứu quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam từ năm 1992 cho đến nay và định hướng những năm tới – khi nền kinh tế hội nhập sâu vào nền
kinh tế quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trước hết luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích tính tất yếu của việc cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Bên cạnh đó, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải quy nạp được sử dụng nhằm nêu rõ quá
trình triển khai thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Các phương pháp so sánh cũng được sử dụng để làm nổi bật tính đặc thù của cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước tại Việt Nam. Đồng thời, phương pháp thống kê được sử dụng như là một công cụ
phân tích số liệu để minh chứng cho các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Phát hiện những vấn đề vướng mắc, bất cập trong cổ phần hóa mới phát sinh trong điều kiện phát
triển kinh tế hiện nay.
Đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà

nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
7. Kết cấu, nội dung của luận văn.
Ngoài Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam từ năm 1992 đến nay.
Chương 3. Định hướng và giải pháp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƢỚC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Cổ phần hóa các DNNN là biện pháp có tính đặc thù của quá trình đổi mới các DNNN, là quá
trình chuyển các DNNN thành công ty cổ phần. Đó là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở
hữu Nhà nước sang sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó tồn tại một phần sở hữu của Nhà nước; là quá
trình huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, xử lý và khắc phục những tồn tại hiện thời
của DNNN; tạo điều kiện cho người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Tất
cả nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và giảm nhẹ gánh nặng
của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
1.1.2. Bản chất và vai trò của cổ phần hóa DNNN
Xét về mặt bản chất, CPH DNNN chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình
thức kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều
chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp nền kinh tế thị trường, đáp ứng với yêu cầu của
kinh doanh hiện đại.
CPH giữ một vai trò quan trọng được thể hiện trên các mặt sau:
- CPH nhằm chuyển đổi một phần sở hữu của Nhà nước trong doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ
chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm thu hút được nguồn vốn để đầu tư phát
triển doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế đất nước, đồng thời khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển, tạo sự cân bằng giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, nâng cao tính cạnh tranh của toàn bộ

nền kinh tế.
- Tiến hành CPH DNNN sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các DNNN sau khi CPH có khả năng cạnh tranh với các DN thuộc
các thành phần kinh tế khác. Quá trình CPH tạo cho mọi người lao động được thực sự làm chủ DN
- Cổ phần hoá sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình thành lập thị trường chứng khoán. Việc một
thị trường chứng khoán đi vào hoạt động bền vững sẽ là điều kiện tốt để thúc đẩy quá trình CPH, thu
hút được nguồn vốn trong và ngoài nước
1.1.3. Phân biệt cổ phần hóa và tư nhân hóa
Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN là góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN,
huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, đồng thời thông
qua CPH mà phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động. Trong khi đó, tư nhân hóa mục tiêu
là xóa bỏ hẳn những DNNN mà Nhà nước xét thấy không cần thiết nắm giữ. Về hình thức, CPH đối
với các DNNN được thực hiện tùy thuộc vào hình thức cụ thể mà DN lựa chọn trong những hình
thức mà Nhà nước hướng dẫn rồi đề xuất lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt ra quyết
định. Hình thức tư nhân hóa DNNN lại chỉ là bán toàn bộ tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ở các
DNNN cho tư nhân và xóa bỏ luôn DNNN này. Về nội dung, tư nhân hoá là chuyển sở hữu tài sản
của Nhà nước vào tay tư nhân hay nói rộng hơn là chuyển các lĩnh vực hoạt động trước đây do Nhà
nước độc quyền sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Cổ phần hoá là chuyển sở hữu tài sản và
lĩnh vực trước đây do Nhà nước nắm giữ vào tay các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có cả
thành phần kinh tế Nhà nước. Kết quả cuối cùng của CPH là chuyển từ một doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước thành một Công ty cổ phần hoạt động
theo Luật công ty (nay là Luật Doanh nghiệp).
1.2. Tính tất yếu của việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Cổ phần hóa, một yêu cầu bức thiết của các DNNN
Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tuyệt đối hoá kinh tế Nhà nước,
coi kinh tế Nhà nước đồng nhất với DNNN, nên trong một thời gian dài đã phát triển hệ thống
DNNN với số lượng lớn, đầu tư tràn lan. Trong quá trình hoạt động, DNNN đã bộc lộ những yếu
kém, bất cập, đưa đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Chính vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN là một đòi hỏi tất yếu. Việc định hướng

xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường, hội nhập KTQT đòi hỏi phải tạo ra cho nền kinh tế sức mạnh
thực sự, trong đó DNNN là nòng cốt, để đủ khả năng dẫn dắt, điều tiết và đinh hướng các thành phần
kinh tế khác.
1.2.2. Yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Cổ phần hóa DNNN là tiêu chí chủ đạo trong xu thế hội nhập. Một khi các DNNN được cổ phần
hóa, mục tiêu và gánh nặng tăng trưởng cổ tức sẽ phá tan lề lối làm việc cố hữu, không mấy hiệu quả
của những DNNN. Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng và những thay đổi thể chế đối với DNNN do
việc hội nhập KTQT đã khiến cho các DNNN đứng trước yêu cầu tự đổi mới nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động để có thể cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác.
1.3. Đối tƣợng và các hình thức cổ phần hóa DNNN
1.3.1. Đối tượng CPH DNNN
Loại doanh nghiệp Nhà nước hiện có, chưa tiến hành cổ phần hóa là những DNNN hoạt động
công ích. Loại doanh nghiệp Nhà nước hiện có, Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt khi tiến hành cổ phần hóa. Các loại DNNN hiện có không thuộc các đối tượng trên đều có thể
thực hiện cổ phần hóa và áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác.
1.3.2. Các hình thức cổ phần hóa DNNN
Một là: Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
Hai là: Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Ba là: Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Bốn là: Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty
cổ phần.
1.4. Cổ phần doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Trung Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam
1.4.1. Khái quát về cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc
Trung Quốc tận dụng triệt để được thời cơ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại bằng
cách cải cách DNNN, đặc biệt là thực hiện việc đa nguyên hóa, CPH các DNNN do Nhà nước khống
chế cổ phần. Các CTCP của Trung Quốc ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của thị trường
chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng.
Trung Quốc đã thực hiện CPH DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN.
Thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành
nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ DN, tối ưu hóa kết cấu quản trị DN. Đây là
lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cải cách, CPH các DNNN ở Trung Quốc.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sự thành công của CPH các DNNN ở Trung Quốc hiệu quả hơn so với Việt Nam là vì Trung
Quốc đã đi khá xa chúng ta trên nhiều phương diện quan trọng như tỷ phần kinh tế của khu vực công
trên nền kinh tế quốc gia, số DNNN có qui mô lớn được CPH tại Trung Quốc cũng diễn ra sớm hơn,
bắt đầu từ năm 1998 và điều này mới chỉ xảy ra rất gần đây tại Việt Nam. Ngoài ra, định chế tài
chính quan trọng hỗ trợ cho sự thành công của chương trình CPH ở Trung Quốc là thị trường chứng
khoán ở Trung Quốc cũng phát triển sớm và ổn định hơn ở Việt Nam, hiện chiếm khoảng 40% tổng
sản phẩm quốc gia, trong khi đó thị trường chứng khoán ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ, chưa ổn định.

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1992 ĐẾN NAY
2.1. Về cơ chế chính sách Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nƣớc của Việt Nam trong thời
gian qua
2.1.1. Cơ chế chính sách về CPH DNNN khi hội nhập KTQT
Là một bộ phận của chương trình cải cách DNNN, quá trình CPH ở nước ta được bắt đầu với
chương trình thử nghiệm vào năm 1992 bằng QĐ số 202- CT ngày 08/06/1992 và QĐ số 84/Ttg
ngày 04/04/1993. Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO,
nhận thấy cần thiết phải có giải pháp CPH mạnh hơn, ngày 07/05/1996, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 28-CP “Chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần”. Tiếp theo đó là
Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, số 64/2002/NĐ-CP, số 187/2004/NĐ-CP, số 109/2007/NĐ-CP. Năm
2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2011/NĐ-CP nhằm cung cấp các hướng dẫn đối với
việc chuyển DN 100% vốn Nhà nước thành CTCP. Cùng với đó là việc thành lập và chính thức hoạt
động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
2.1.2. Các cam kết về cổ phần hóa các Doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam khi hội nhập
KTQT
Trong quá trình hội nhập KTQT, thế giới đã tập trung nhiều chú ý vào sự tồn tại và hoạt động của

các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát tại Việt Nam. Khi gia nhập WTO, WTO
không đưa ra các quy tắc đối với các Thành viên về việc ưu tiên một hình thức sở hữu nào đó hay
trong việc thành lập và vận hành các DNNN. Điều này nghĩa là WTO không đưa ra yêu cầu bắt buộc
phải CPH các DNNN. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo nguyên tắc minh bạch hóa, nghị định thư gia nhập
của tất cả các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi đều có nghĩa vụ thông báo hàng năm cho các
Thành viên WTO khác về các chương trình CPH của họ. Giống như các nền kinh tế chuyển đổi mới
gia nhập khác, Việt Nam cam kết sẽ đảm bảo tính minh bạch tối đa của các chương trình CPH đang
thực hiện, và để thực hiện mục tiêu này, kể từ thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cung cấp cho
các thành viên WTO báo cáo thường niên về tình trạng chương trình CPH ở Việt Nam và tình trạng
CPH các DNNN.


2.2. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam từ năm 1992 đến
nay
2.2.1. Tổng quan về số lượng:
Quá trình CPH DNNN bắt đầu thí điểm năm 1992 và trải qua các giai đoạn. Giai đoạn 1 (1990-
4/1996): Đây là giai đoạn thí điểm, cổ phần hóa tự nguyện. Kết quả là có 7 DNNN được cổ phần hóa.
Giai đoạn 2 (5/1996-6/1998): Sau khi đánh giá kết quả của chương trình thí điểm, Chính phủ quyết
định mở rộng chương trình này. Kết quả là có 25 DNNN được CPH, và một lần nữa không đáp ứng
được kỳ vọng. Giai đoạn 3 (7/1998-2001): kế hoạch CPH kiên quyết hơn với sự ban hành Nghị định
số 44/1998/NĐ-CP và các văn bản có liên quan. Đây có thể nói là khuôn khổ pháp lý đầu tiên về cổ
phần hóa ở Việt Nam. 745 DNNN được CPH. Số lượng DNNN CPH giai đoạn này đã bằng 149 lần
so với giai đoạn thí điểm và bằng gần 30 lần so với giai đoạn mở rộng thí điểm CPH các DNNN.
Giai đoạn 4 (2002-2005): Chính phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty Nhà nước
thành công ty cổ phần. Tính đến 31/5/2005, cả nước đã CPH được 2.935 DNNN. Giai đoạn 5 (2006
đến nay): Sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN mà trọng tâm là CPH DNNN được coi là xương sống
của công cuộc đổi mới về kinh tế. Giai đoạn 2006 đến nay được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị
định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007, số 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty
Nhà nước thành công ty cổ phần. Tính đến năm 2011, cả nước đã CPH được 3.953 DNNN. Và còn
lại 1.309 DNNN.

2.2.2. Tổng quan về qui mô vốn
Về qui mô vốn của các DNNN được CPH, nếu như giai đoạn đầu năm 2002 chỉ có 37% DN có
qui mô vốn từ 10 tỉ đồng trở lên thì năm 2003 là 35%, năm 2004 là 41%, năm 2005 là 44%, năm
2006 là 50% trong những DNNN được CPH có vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng thì giai đoạn 10 năm
sau khi chính thức thí điểm chương trình CPH, 1992-2002, chỉ có 2 DNNN được CPH có vốn điều lệ
trên 1000 tỷ đồng (chiếm 12%). Giai đoạn 2006-2010, tuy số lượng các DNNN được CPH giảm
mạnh nhưng qui mô của các DNNN lại lớn hơn thậm chí là rất lớn, cụ thể trong giai đoạn này tập
trung đến 70% các DNNN lớn. Thời gian qua, Nhà nước luôn giữ một tỷ lệ cổ phần cao trong các
DNNN cổ phần hóa và giai đoạn gần đây tỷ lệ này có xu hướng tăng lên và ổn định.
2.2.3. Tổng quan về tình hình sản xuất, kinh doanh
Số doanh nghiệp sau CPH có lãi chiếm từ 84% đến 90%. Số công ty có lãi có xu hướng giảm và
chững lại, trong khi đó số công ty thua lỗ có xu hướng tăng từ 8% những năm đầu lên 15% giai đoạn
sau này.
Xét về các mức độ khác nhau, hầu hết các DNNN sau CPH hoạt động có hiệu quả hơn. Hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau CPH thể hiện trên tất cả các chỉ tiêu về vốn, giá trị tài
sản, doanh thu, lợi nhuận… Chi phí Nhà nước chi ra để thực hiện cái cách, chuyển đổi DNNN thành
công ty cổ phần thấp hơn nhiều so với lợi nhuận DN thu được sau 2 năm hoạt động theo hình thức cổ
phần.
Một số các chỉ tiêu khác như năng suất lao động tăng 18,3%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của
doanh thu. Đầu tư tài sản cố định tăng bình quân 16,4%, đạt tốc độ tăng trưởng tương đương mức
trung bình của toàn bộ khu vực doanh nghiệp tư nhân, nhưng thấp hơn mức tăng trưởng của các
DNNN. Điều này cho thấy nguồn lực tài chính để đầu tư của các DN sau CPH còn hạn chế so với
DNNN. Tuy nhiên, nếu như mức tăng trưởng này xuất phát từ đầu tư mới và lợi nhuận tái đầu tư thì
càng chứng tỏ tính bền vững của tăng trưởng trong các DN sau CPH. Lương bình quân tăng 11,4%,
phù hợp với tốc độ tăng trưởng doanh thu và lao động.
2.3. Đánh giá kết quả của quá trình CPH các DNNN ở Việt Nam khi hội nhập KTQT
2.3.1. Kết quả đạt được
Kết quả đầu tiên và cũng là thành tựu cơ bản nhất của tiến trình CPH các DNNN ở nước ta là việc
cơ cấu lại hệ thống DNNN với kết quả là đã sắp xếp lại, thu gọn số lượng DNNN, qua đó nâng mức
vốn bình quân của một DNNN lên. Sau gần 20 năm triển khai, đến hết năm 2011, cả nước đã CPH

được gần 4.000 DNNN (chiếm 70% số DNNN tái cơ cấu) góp phần cơ bản vào việc xắp xếp DNNN,
từ chỗ DNNN trước đây là 12.000, xuống còn 1.309. Thông qua CPH, không những giảm số lượng
DNNN mà quy mô cũng tăng.
90% DNNN sau CPH có kết quả tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này chứng tỏ tính
đúng đắn của chủ trương CPH DNNN mà chúng ta đang thực hiện.
Không có DNNN nào sa thải người lao động khi thực hiện CPH. Việc sắp xếp lao động và giải
quyết chính sách đối với lao động dôi dư được thực hiện đúng theo quy định hiện hành tại Nghị định
số 41/2002/NĐ-CP. Thu nhập của người lao động sau khi doanh nghiệp được CPH tăng 11,4%.
Ngoài ra, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần, hàng năm còn được nhận cổ tức từ
phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Về chính sách hỗ trợ người lao động mua cổ phần với giá
ưu đãi là 60% giá đấu thấp nhất (thay vì giá ưu đãi 60% giá đấu giá thành công bình quân).
2.3.2. Những khó khăn của quá trình CPH DNNN
- Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta đó là sự nhỏ bé và yếu ớt của khu
vực tư nhân. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của
nền kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ
biến. Do đó, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người nên thiếu nguồn cung cấp
thông tin trung thực, đáng tin cậy về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Song song với sự yếu ớt
và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính lành mạnh, công khai
là thị trường chứng khoán.
- Sau khi tiến hành cổ phần hóa, một số doanh nghiệp vẫn trong tình trạng cũ, ít có sự thay đổi về
cơ cấu ban lãnh đạo, cơ chế quản lý, chiến lược sản phẩm… Một mặt nữa là do tỷ lệ sở hữu của cổ
đông nhỏ lẻ khá thấp nên họ hầu như không có quyền nào trong kiểm soát, mặt khác một số DNNN
tuy không nắm giữ cổ phần chi phối nhưng tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của Nhà nước vẫn đến 51% dẫn
đến việc CPH vẫn có thể sẽ hoạt động theo định hướng cũ.
- Khó khăn trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tính toán
không chính xác, tình trạng CPH khép kín những năm trước đây cũng để lại những hậu quả không
nhỏ. Điều này bộc lộ rất rõ trong việc giá trị quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp CPH chưa có
hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai, đặc biệt là mức giá áp dụng,
trình tự thủ tục…
- Khó khăn trong việc tìm nhà đầu tư chiến lược. Nhà đầu tư chiến lược có thế mạnh về vốn, công

nghệ, trình độ quản lý và thị trường…sẽ góp phần làm đổi mới nhân sự và làm cho Hội đồng quản trị
mạnh lên, bổ sung và nâng cao tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa
nhưng chúng ta chưa có kinh nghiệm tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược. Các văn bản pháp lý điều tiết
việc CPH DNNN đã được thay đổi rất nhiều lần nhưng vẫn bất cập về giá bán và số lượng.
- Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả
năng cạnh tranh thấp
- Nợ của DNNN: Các DNNN sau CPH vẫn còn ôm những món nợ do khi chuyển đổi không xác
định rõ trách nhiệm người phải trả.
- Lao động dôi dư: Lao động dôi dư là lực cản không nhỏ với sự phát triển của DN sau CPH, làm
tăng thêm những khoản chi như đào tạo lại cho người có trình độ thấp mà nếu không có nó, DN có
thể đầu tư mở rộng sản xuất hoặc tăng lương cho những người có chuyên môn cao để từ đó khuyến
khích họ tích cực lao động và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của DN.
- Về tư tưởng và tâm lý của đại đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ
này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực của
Nhà nước.
- Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần
thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến chương trình cổ phần hóa.
2.3.3. Nguyên nhân của những thuận lợi và khó khăn trong quá trình CPH DNNN
- Điều kiện về môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt
động theo cơ chế thị trường, hàng loạt các văn bản luật và dưới luật khác nhau nhằm thực hiện một
cách công khai và có kế hoạch chương trình cổ phần hóa.
- Nền kinh tế của nước ta đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực, giá cả thị trường đã được duy
trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được giữ giá, lãi suất
đã ở mức khuyến khích, thu nhập của người dân được nâng cao.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà
quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh, người lao động trong các DN đã có ý thức, tác phong
và hiệu quả công việc
- Cùng với Luật Đầu tư nước ngoài là sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của
nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường lành mạnh và điều kiện thuận lợi để Nhà nước
tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện CPH các DNNN tại Việt Nam.

Về phía khách quan:
Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ
sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và
nền kinh tế thị trường lại mới hình thành
Mặt khác, do xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ nên trình độ
kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề chưa thích ứng được với cơ chế mới.
Về phía chủ quan:
Thứ nhất, chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
của Đảng và Chính Phủ. Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực
chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá nó sẽ làm chệch định hướng xã hội chủ
nghĩa, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc
phối hợp giữa các cấp chính quyền không đồng bộ, thiếu thống nhất làm cho CPH bị chậm chễ ngay
từ khâu xây dựng phương án từ cơ sở.
Thứ hai, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một
số nội dung trong các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống.
Thứ ba, chế độ chính sách trong các doanh nghiệp chậm được ban hành sửa đổi và chưa đủ sức
hấp dẫn.

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CPH DNNN TRONG BỐI
CẢNH VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1. Quan điểm và phƣơng hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc về Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nƣớc.
3.1.1. Quan điểm tiếp tục cổ phần hóa DNNN
Chức năng của Nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Cổ phần hóa không phải là hạn chế, làm
giảm vai trò mà phải làm cho DNNN mạnh hơn, thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế Nhà nước,
góp phần để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
CPH DNNN phải thực hiện trên cả phương diện vĩ mô (điều chỉnh lại chính sách, khung pháp lý,
phân bổ lại nguồn lực, cơ cấu sở hữu, quản lý của khu vực DNNN) và cả phương diện vi mô (điều
chỉnh lại sở hữu, mô hình, cơ chế hoạt động, quản trị, bố trí lại nguồn lực ở từng tập đoàn kinh tế,

Tổng công ty Nhà nước), đồng thời phải gắn với tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-
2020.
Vừa thực hiện tái cấu trúc hệ thống DNNN (trên 5 phương diện chủ yếu: ngành nghề; tài chính;
quản trị DN; quản lý Nhà nước; hệ thống pháp luật) vừa thực hiện tái cấu trúc theo thực thể (tại mỗi
tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước).
Kiên định về mục tiêu và nguyên tắc, mềm dẻo trong hình thức và phương thức tổ chức thực hiện;
không tuyệt đối hóa, duy ý chí, không sử dụng mệnh lệnh hành chính trong quá trình tái cấu trúc
trong bán, giải thể, sáp nhập, phá sản và thành lập mới DNNN.
3.1.2. Phương hướng tiếp tục CPH DNNN
Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, chú trọng vào các tập đoàn kinh tế, TCT Nhà nước theo hướng
giảm số lượng DNNN và giảm vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; thu hút các nhà đầu tư chiến lược tư
nhân lớn trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào DNNN.
Đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của DNNN theo hướng chuyển sang tổ chức và hoạt động
theo mô hình công ty cổ phần.
Thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của DNNN
Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập KTQT, Chính phủ đặt ra phương hướng cần thực hiện là hoàn
thành chương trình CPH DNNN năm 2015 – 2020. Thực hiện thoái vốn ở các DN đã CPH mà Nhà
nước, tập đoàn, TCT không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Việc thoái vốn phải thực hiện công khai,
minh bạch, theo nguyên tắc thị trường.
3.2. Các giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc trong thời gian tới.
3.2.1. Giải pháp chung
- Nhà nước cần phải thiết lập một kênh thông tin hiệu quả giữa các ngành, địa phương, giữa khối
doanh nghiệp với các nhà hoạch định chính sách.
- Tăng cường tuyên truyền phổ biến các kiến thức cơ bản và lợi ích của việc CPH DNNN trên các
phương tiện thông tin đại chúng để mọi đối tượng trong xã hội hiểu được ý nghĩa, mục đích của
CPH.
- Củng cố, chấn chỉnh lại bộ máy giúp việc cho công tác CPH từ trung ương đến địa phương, chú
trọng đến năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ trong bộ máy.
- Nhà nước cần phải chuẩn bị một nguồn tài chính đủ mạnh để giải quyết hàng loạt các vấn đề

liên quan đến chương trình CPH.
- Nhà nước phải qui định cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong
việc xử lý các vướng mắc trong doanh nghiệp để tạo điều kiện cho cán bộ các cấp các ngành có thể
giải quyết nhanh chóng các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện CPH ở từng doanh
nghiệp.
3.2.2. Giải pháp về cơ chế chính sách
3.2.2.1 Hệ thống hóa các qui định về Cổ phần hóa, nâng lên thành hệ thống Luật Cổ phần hóa.
Trải qua gần 20 năm triển khai lộ trình CPH các DNNN khi hội nhập KTQT, sau 7 Nghị định của
Chính phủ về vấn đề này, Chính phủ đã phần nào hướng dẫn các DNNN thực hiện công việc của
mình, và Nghị định mới sửa đổi đã thay thế được các Nghị định cũ. Giống như hoạt động đầu tư,
hoạt động xây dựng,… nên chăng Nhà nước cũng nên luật hoá các qui định về CPH, sớm ban hành
về Luật Cổ phần hóa. Hệ thống hóa các Nghị định, Thông tư,… thành văn bản Luật Cổ phần hóa sẽ
giúp cho doanh nghiệp có một hướng nhìn thấu đáo hơn về CPH. Tạo tâm lý an tâm không chỉ cho
DN mà còn cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong khi hoàn thiện các cơ chế, chính sách,
từng bước tiến tới luật hóa các hướng dẫn của Nhà nước để đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp
DNNN, đặc biệt là tiến trình CPH DNNN, Nhà nước cần chú ý tới yếu tố công khai, minh bạch mọi
thông tin trước khi bán cổ phần.
3.2.2.2. Thu hút nhà đầu tư chiến lược
Chọn lựa một nhà đầu tư chiến lược thích hợp không chỉ giúp DN có thêm nguồn vốn mới mà
quan trọng hơn là hỗ trợ DN nâng cao công tác quản trị, phát triển sản phẩm, mở rộng thị
trường Theo đó, việc CPH DNNN nên theo phương thức mới: DN tiến hành đàm phán cho nhà đầu
tư chiến lược trước, sau đó sẽ bán cho cán bộ công nhân viên, rồi chuyển thành Công ty cổ phần. Sau
khi hoạt động theo hình thức CTCP, DN mới tiến hành bán cổ phần ra công chúng. Đặc biệt, việc
đàm phán bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược sẽ theo nguyên tắc thỏa thuận, dựa trên những yêu
cầu của cả 2 bên.
3.2.2.3 Giải quyết chính sách đối với người lao động
Nhiều DNNN vì chưa biết bố trí cán bộ đi đâu nên không dám mạnh tay tiến hành CPH. Để giải
quyết vấn đề này, trước mắt cần coi cán bộ quản lý DNNN như là những người hành nghề chuyên
môn, đã là hành nghề chuyên môn thì sẽ được DN bù đắp bằng lương bổng hàng tháng. Khi DN cần
tái cơ cấu, nếu các cán bộ quản lý DN đảm bảo đủ khả năng và uy tín thì sẽ được chính cổ đông bầu

vào chức vụ mới ở CTCP (cổ đông sẽ chịu trách nhiệm cho sự lựa chọn của mình). Khi không còn đủ
năng lực và uy tín (năng lực, trình độ không còn phù hợp với cơ chế mới) thì họ cũng phải được xem
xét như các lao động dôi dư khác.
3.2.2.4. Giải quyết các vấn đề đất đai, công nợ
Để giải quyết khó khăn về vấn đề đất đai, Chính phủ cần yêu cầu các bộ, địa phương, tập đoàn
phải công bố công khai lộ trình và danh sách các DNNN thực hiện CPH hàng năm, làm cơ sở cho các
cơ quan xây dựng lộ trình triển khai phê duyệt phương án sắp xếp nhà đất theo quy định.
Về vấn đề đối chiếu công nợ, Chính phủ vẫn nên yêu cầu DNNN CPH thực hiện đối chiếu toàn
bộ các khoản công nợ phải thu, phải trả đến thời điểm xác định giá trị DN để phản ánh đầy đủ, đúng
toàn bộ giá trị DN.
3.2.2.5. Hoàn thiện, phát triển các yếu tố của kinh tế hội nhập, nhất là thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một kênh thu hút vốn quan trọng từ xã hội để đầu tư phát triển các DN
Việt Nam nói chung và các DNNN nói riêng hiện đang rất thiếu vốn, đặc biệt là đứng trước nhu cầu
đầu tư để hiện đại hóa công nghệ sản xuất, cần phải và không nên bỏ qua kênh tạo vốn ngày càng có
ý nghĩa quan trọng này.
+ Phải duy trì tốc độ kinh tế cao của cả nước, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái.
+ Tăng số lượng và nâng cao chất lượng hàng hóa cho TTCK để huy động vốn rộng rãi hơn và
bán được giá cao hơn.
+ Xây dựng hệ thống văn bản pháp lý cho thị trường chứng khoán.
+ Coi trọng việc đào tạo cán bộ nhân viên cho TTCK.

KẾT LUẬN
DNNN có vị trí rất quan trọng, là lực lượng chủ yếu trong kinh tế Nhà nước. Trong những năm
qua, kết quả hoạt động của DNNN đã đạt được một số thành tựu quan trọng nhưng chưa tương xứng
với yêu cầu và năng lực sẵn có của DNNN. Khi nền kinh tế chuyển sang thời kỳ hội nhập, DNNN
càng bộc lộ nhiều yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN không cao và ngày càng bộc lộ
nhiều nhược điểm.
Hiện nay, hội nhập kinh tế là một quá trình đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, nó có ảnh hưởng
tới hầu hết các quốc gia. Chúng ta mở cửa hội nhập nhằm mục đích thu hút các tiềm lực bên ngoài về
vốn đầu tư, về kỹ thuật công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức sản xuất để phát triển nền kinh tế đất

nước. Song muốn thực hiện điều đó thì bản thân nền kinh tế trong nước phải có sự chuẩn bị, hay nói
khác hơn là phải có sự chuyển mình bằng cách cải tổ nền kinh tế, thực hiện cải cách DN đặc biệt là
DNNN. Để đổi mới DNNN, điều đầu tiên là phải đổi mới về chế độ sở hữu (từ đơn sở hữu đến đa sở
hữu), tiếp đó là đổi mới về cơ chế quản lý và hàng loạt vấn đề khác. Quá trình chuyển DNNN sang
DNNN CPH ở Việt Nam không những làm thay đổi về sở hữu, mà còn thay đổi căn bản trong công
tác quản lý doanh nghiệp và quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quyền chủ động quyết định những vấn đề
liên quan đến đầu tư vào sản xuất – kinh doanh hoàn toàn thuộc về doanh nghiệp. Việc sắp xếp lại
DNNN theo hướng CPH mà Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối một số lĩnh vực then chốt…
không chỉ là giải pháp củng cố, đổi mới và phát triển DNNN, mà còn là giải pháp nhằm cơ cấu lại
nền kinh tế quốc dân.
Việc thực hiện thành công CPH các DNNN đạt được các mục tiêu: Huy động vốn của toàn xã hội
cả trong và ngoài nước để thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, đổi mới
công nghệ, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, chính sách làm chủ doanh nghiệp của người lao
động, nâng cao sức cạnh tranh, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong điều kiện Việt Nam
chủ động và tích cực hội nhập KTQT cũng như chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm
kinh tế toàn cầu thì CPH các DNNN như là chiến lược vận hành cần được thực hiện để phù hợp với
vai trò và vị trí của nó cũng như bối cảnh cạnh tranh quốc tế.
Để đóng góp về hiệu quả của CPH các DNNN để gia tăng chủ động hội nhập KTQT, luận văn đã
nêu rõ về cơ sở lý luận, thực trạng, các cam kết quốc tế về CPH DNNN, ưu nhược điểm và một hệ
thống các giải pháp đẩy mạnh CPH các DNNN. Tuy nhiên do tính phức tạp của đề tài, đề cập đến
vấn đề lớn trong nền kinh tế và của cả hệ thống các DNNN nên lập luận và những giải pháp nêu
trong luận văn cần phải có thời gian kiểm nghiệm và hoàn chỉnh; bên cạnh đó cùng với kinh nghiệm
còn hạn chế của cá nhân, thời gian và kinh phí hạn hẹp nên không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học và độc giả để nội dung luận văn được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

References.
Tiếng Việt
1. Bùi Quốc Anh (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Cổ phần hóa và sau Cổ phần hóa các

DNNN ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
2. Nguyễn Hoàng Anh (2002), “Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp sau
CPH”, Kinh tế và dự báo, 9, (6), tr. 19-20.
3. Trương Văn Bân (1996), Bàn về cải cách DNNN, Sách dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban dự án tư vấn chính sách tài chính (2010), Một bức tranh sáng màu, Chuyên đề nghiên cứu
kinh tế Bộ Tài Chính, tr.1-5.
5. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2010), Báo cáo kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển
DNNN và phương hướng nhiệm vụ 2006-2010.
6. Bộ Tài chính (2006), Báo cáo kết quả sắp xếp đổi mới các DNNN, Hội nghị về sắp xếp đổi mới
DNNN ngày 7/10/2006, Hà Nội.
7. Chính phủ (2006), “Báo cáo kết quả và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp cổ phần hóa DNNN 5
năm 2006-2010”, Báo cáo Chính phủ, (133), tr1-3
8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1992), Quyết định số 202 ngày 8/6/1992 của Chính phủ về
việc thí điểm chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
9. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1996), Nghị định số 28/1996/NĐ-CP ngày 7/5/1996 của
Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1998), Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của
Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
11. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2002), Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của
Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
12. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004
của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
13. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007), Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của
Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
14. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2011), Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2007 của
Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
15. Nguyễn Kim Đức (2012), “Tái cấu trúc DNNN dưới góc nhìn của hoạt động thẩm giá trị doanh
nghiệp”, Phát triển và hội nhập, (5), tr. 29-38.
16. Võ Đại Lược và Cốc Nguyên Đường (1997), Cải cách DNNN ở Trung Quốc, so sánh với Việt
Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội.

17. Phạm Thị Huyền (2009), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp ra đời từ CPH DNNN
ở Hải Phòng, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh.
18. Lê Phú Hoành (2005), Quy định mới về cổ phần hoá doanh nghiệp, Nxb Tài Chính, Hà Nội.
19. Đan Đức Hiệp (2005), “Một số vấn đề đặt ra khi CPH DNNN có góp vốn tham gia liên doanh với
nước ngoài”, Kinh tế và dự báo, (2), tr35-36.
20. Phan Đức Hiếu (2007), CPH và chuyển đổi DNNN – các quy định mới nhất, NXB Tài Chính, Hà
Nội.
21. Ninh Kiều (2004), “Trăm mối lo hậu CPH”, Thời báo Kinh tế, (5)
22. Thủy Lưu (2007), “CPH DN, bước vào giai đoạn nước rút”, Pháp luật Việt Nam, (2) tháng
3/2007.
23. Phạm Viết Muôn (2011), “Phương hướng và giải pháp tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011-2015”,
Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2011, (4), năm 2011.
24. Phan Thanh Phố (2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Năng Phúc (2006), Phân tích tài chính công ty cổ phần, Nxb Tài Chính, Hà Nội.
26. Tào Hữu Phùng (1998), “Cổ phần hóa nhiệm vụ quan trọng và bức bách”, Tạp chí cộng sản, (13),
tr.11-13,24.
27. Nguyên Quân (2005), “Định hướng quản trị DNNN”, Thời báo kinh tế Việt Nam, (133).
28. Chu Đức Quý (1998), “Trung Quốc điều chỉnh chế độ sở hữu và cổ phần hóa DNNN”, Tạp chí
Cộng sản (14), tr.56-59.
29. Tô Huy Rứa (2006), “CPH các DNNN dưới góc nhìn phát triển kinh tế - xã hội bền vững”, Tạp
chí Cộng sản, (10), tr.3-7.
30. Trần Sửu (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa, Nxb Lao
động, Hà Nội.
31. Đỗ Bình Trọng (1998), “Một số suy nghĩ về cổ phần hóa DNNN”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, tr
31-34.
32. Mai Hữu Thực (1993), “Cổ phần hóa DNNN: Thực chất, mục tiêu, vấn đề và giải pháp”, Thông
báo khoa học, trường Đại học Kinh tế quốc dân, tr.33-35.
33. Lê Văn Tâm (2004), CPH và quản lý DNNN sau CPH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Hoàng Đức Tảo (2003), CPH – Kinh nghiệm thế giới, Nxb Thống kê, Hà Nội.
35. Lê Hữu Thành (2004), Sức cạnh tranh của DNNN ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận
văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
36. Tổng cục thống kê (2005), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2003, 2004, 2005,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
36. Tổng cục thống kê (2008), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2006, 2007, 2008,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
36. Tổng cục thống kê (2011), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2009, 2010, 2011,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
37. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 174/2002/QĐ-TTg ngày 02/12/2002 về tổ chức và hoạt động
của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá các DNNN.
38. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định sô 224/2006/QĐ-TTg ngày 6/10/2006 về Quy chế giám sát và
đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN.
39. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 4/3/2011 về ban hành tiêu chí, danh
mục phân loại DNNN
40. Tổ chức thương mại thế giới (2007), WT/ACC/10/Rev.3.
41. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (2008), giải thích các điều kiện gia nhập,
MutrapII (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên), Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.
41. Leila Webster và Reza Amin (2003), Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - Kinh nghiệm
hiện tại, Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân.
Các trang tin điện tử




×