Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích tình hình nhập khẩu Việt Nam từ năm 2001 đến nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.46 KB, 15 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Nhập khẩu bản thân là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Đối với nền
kinh tế Việt Nam, vai trò của nhập khẩu lại càng quan trọng hơn: Nhập khẩu không chỉ tạo
điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá đất nước mà còn giúp
bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế, qua đó góp phần cải thiện đời sống
nhân dân; đặc biệt, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu phát triển.Do đó, tình
hình nhập khẩu đã trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách,
các nhà nghiên cứu kinh tế và giới doanh nhân. Đặc biệt thời gian gần đây, đề tài này trở
nên “nóng” hơn bao giờ hết khi tất cả các số liệu đều cho thấy nhập khẩu và nhập siêu
nước ta có mức tăng đại nhảy vọt.
Chính vì vậy, qua đề tài “Phân tích tình hình nhập khẩu Việt Nam từ năm 2001
đến nay”, nhóm nghiên cứu xin được đưa ra bức tranh bao quát nhất về tình hình nhập
khẩu của nước ta những năm gần đây, hệ thống hoá các vấn đề chung về nhập khẩu, chỉ rõ
một số nguyên nhân biến động chính và đề ra một số giải pháp.
Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa, không đề cập đến lĩnh vực nhập
khẩu dịch vụ. Trong nhập khẩu hàng hóa, nghiên cứu cũng chỉ đi sâu vào phân tích một số
vấn đề chủ yếu: tổng kim ngạch nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường
nhập khẩu, và đề xuất một số giải pháp cho nhập khẩu của Việt Nam.
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp phân tích, thống kê. Nghiên cứu sử
dụng rất nhiều số liệu từ các nguồn khác nhau. Các số liệu dùng để phân tích tình hình
nhập khẩu được tổng hợp chủ yếu từ nguồn đã được Tổng cục thống kê, Bộ Công thương,
Bộ Ngoại giao công bố.
Trong phạm vi cho phép hạn hẹp, tiểu luận này chỉ có thể nêu lên các vấn đề được
nghiên cứu, những kết quả khái quát nhất từ việc phân tích, thống kê số liệu; hạn chế tối đa
số lượng các bảng, biểu đồ. Do giới hạn về kiến thức và phương pháp nghiên cứu nên
nhóm thuyết trình không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy
cô và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 2001
ĐẾN NAY
II.1. Theo tổng kim ngạch nhập khẩu, tình hình nhập siêu
Bảng 1 : Kim ngạch nhập khẩu và tình hình nhập siêu từ 2001 đến nay


(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Đơn vị : Triệu USD
Năm Giá trị xuất khẩu Giá trị nhập khẩu Giá trị nhập siêu
2001 15029.2 16217.9 118.7
2002 16706.1 19745.6 3039.5
2003 20149.3 25255.8 5106.5
2004 26485.0 31968.8 5483.8
2005 32447.1 36761.1 4314.0
2006 39826.2 44891.1 5064.9
2007 48561.4 62682.2 14120.8
2 quý đầu 2008 30630.0 44470.0 14775.0
Biểu đồ 1: Tình hình XNK và nhập siêu từ 2001 đến nay
II.1.1. Tổng kim ngạch nhập khẩu
a. Giai đoạn từ 2001 – 2007
Từ những số liệu thống kê và đồ thị trên, có thể thấy kim ngạch nhập khẩu (KNNK)
của Việt Nam tăng không đều qua các năm. Năm 2002, kim ngạch (KN) là 19.746 tỷ USD,
tức tăng 21.8% so với năm 2001. Tốc độ này tăng cao vào 2 năm tiếp theo, xấp xỉ 27-28%
và đột ngột xuống thấp vào năm 2005, chỉ còn 15.2% với KNNK đạt 36.881 tỷ USD.Năm
2006, KN cả năm đạt trên 44,9 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2005, vượt 4,5% so với dự
báo từ đầu năm. Đặc biệt, năm 2007 chứng kiến sự bứt phá với tốc độ tăng KN lên tới
37%, với tổng giá trị vào khoảng 62.682 tỷ USD. Con số này đánh dấu 1 năm Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
b. 6 tháng đầu 2008
Tính chung 6 tháng đầu năm 2008, KNNK hàng hoá ước tính đạt 44,5 tỷ USD, tăng
60,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 30,6 tỷ USD,
tăng 69,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,9 tỷ USD, tăng 42,7%. Có thể thấy,
chỉ trong 6 tháng đầu năm 2008 mà tổng KNNK đã vượt con số của cả năm 2006 và gần đạt
tới mức của năm 2007. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng KNNK đã có chiều hướng chững lại trong
những tháng gần đây.
II.1.2. Tình hình nhập siêu

a. Giai đoạn từ 2001 – 2007
Tuy phải đối mặt với nhiều bất lợi, khi tham gia ngày càng nhiều vào thương mại
quốc tế, gồm những rào cản thương mại như việc áp đặt hạn ngạch dệt may, vụ kiện bán
phá giá tôm, giá cả thế giới tăng cao, và những khó khăn trong nước như dịch cúm gia
cầm…nhưng tựu chung lại kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này
tăng đáng kể. Nếu như năm 2001, giá trị xuất khẩu mới chỉ đạt 15 tỷ USD thì đến năm
2007 giá trị này đã lên tới 48.6 tỷ USD, tăng 320%. Giá trị nhập khẩu (NK) tăng với mức
ấn tượng hơn, từ 16.2 tỷ USD năm 2001 lên tới 62.7 tỷ USD (gấp gần 4 lần).
Hoạt động NK đã đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu cho các
ngành kinh tế và nhu cầu tiêu dùng của xã hội đối với một số mặt hàng trong nước chưa
sản xuất được, cũng như nhằm bảo hộ một số ngành trong nước và phù hợp với tiến trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Từ 2001- 2005, tình hình nhập siêu có xu hướng tăng, nhưng đến 2005 con số này
đã giảm xuống còn 4,56 tỷ USD. Sang năm 2006 tăng nhẹ lên 5,06 tỷ và đặc biệt năm 2007
thì tăng vọt lên 12,45 tỷ. Nhờ xuất khẩu đạt quy mô và có tốc độ tăng khá , nên NK có điều
kiện tăng tốc và đạt quy mô khá, phục vụ đổi mới kỹ thuật - công nghệ, sản xuất và tiêu
dùng ở trong nước cũng như sản xuất hàng xuất khẩu. Nhập siêu 9 tháng đầu năm 2007 đã
lên đến 7,6 tỷ USD, tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước (gấp 2,3 lần). Nguyên nhân chủ
yếu của nhập siêu là do các nhóm hàng có giá trị gia tăng cao lại có mức tăng không lớn và
giá trị không cao, trong khi những mặt hàng có tỷ lệ gia công thấp lại tăng cao; do nội địa
hoá và phát triển công nghiệp phụ trợ chậm; do hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp.
b. 6 tháng đầu năm 2008
Tính đến hết quý II, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 29.695 tỷ USD, xấp xỉ trị giá
xuất khẩu của cả năm 2005 và có tốc độ tăng 35,9%, cao nhất từ trước tới nay. Kim ngạch
NK là 44.47 tỷ, tăng 61,7% so với cùng kỳ năm trước. Mức nhập siêu 6 tháng là 14,8 tỷ
USD, bằng 46,5% xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này của 4 tháng đầu năm (khoảng
64%). Ngược lại với xuất khẩu, NK tháng 6 là 6,93 tỷ USD, giảm rất mạnh (9,7%) so với
tháng 5. Các nhóm hàng chủ lực đều đã giảm mạnh (trừ xăng dầu, tân dược và thức ăn gia
súc).
- Trong tháng 1 năm nay, Việt Nam thu về 4,5 tỷ USD từ xuất khẩu và chi 5,5 tỷ

USD cho các mặt hàng ngoại nhập, đưa chênh lệch cán cân xuất - NK lên 1 tỷ USD. Con
số nhập siêu này khá lớn so với mức 100 triệu USD của tháng 1/2007.
- Tỷ lệ nhập siêu 4 tháng đầu năm ở mức 64,7% là quá cao, theo nhận định của
chính phủ là ảnh hưởng lớn đến cán cân thanh toán quốc tế, giá cả hàng hóa trong nước và
ổn định kinh tế vĩ mô.
- Trong hai tháng 5 và 6, đã có những thay đổi đáng kể. KN xuất khẩu 5 tháng đạt
23,4 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ. Ví dụ, tháng 4, chúng ta nhập siêu 3 tỉ USD, tháng
5 chỉ còn 1,9 tỉ và tháng 6 dự kiến chỉ là 1,3 tỉ. Mức nhập siêu so với xuất khẩu của 6 tháng
chỉ còn dưới 50%, so với trước là trên 60%.
Nhập siêu cả năm 2008 dự báo sẽ vào khoảng 19 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất
khẩu bằng khoảng 31%. Chúng ta đã nỗ lực giảm tỉ lệ nhập siêu từ mức kỉ lục 80.4% vào
giai đoạn 1986-1990, xuống còn 12.72% vào năm 2006, nhưng hiện nay tỉ lệ này đang
tương đối cao.
Sau khi gia nhập WTO, chúng ta luôn mong chờ một kết quả xuất khẩu đại nhảy
vọt, nhưng thực tế mà ta thấy nhiều hơn đó là NK và nhập siêu tăng đại nhảy vọt. Quy mô
NK với giá cả nguyên liệu thế giới liên tục tăng mạnh đương nhiên không chỉ góp phần rất
quan trọng đẩy quy mô và tỷ lệ nhập, nhập siêu của nước ta tăng cao, mà đây cũng là một
nguyên nhân rất quan trọng đẩy tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng cao ngất ngưởng. Bên cạnh
đó, còn một hệ quả không nhỏ khác mà chúng ta phải gánh chịu. Đó là, trong khi giá
nguyên liệu NK liên tục tăng nhưng giá các sản phẩm XK chỉ tăng “nhỏ giọt” nên lợi
nhuận sản xuất kinh doanh liên tục giảm.
II.1.3. Nguyên nhân gia tăng nhập khẩu và nhập siêu
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng KNNK kéo theo gia tăng nhập siêu,
đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu chỉ đưa ra một số
nguyên nhân căn bản sau:
- Thứ nhất, KNNK Việt Nam chịu ảnh hưởng của những biến động về giá cả trên
thị trường thế giới. Thời gian vừa qua, giá các mặt hàng không ngừng thay đổi, hầu hết các
mặt hàng NK đều tăng giá. Điển hình trong 6 tháng đầu năm 2008 giá xăng dầu NK tăng
61,8%, giá sắt thép tăng 29,8%, giá phân bón tăng 96%, giá giấy tăng 11,8%, giá chất dẻo
tăng 15,4%. Sự tăng giá của 5 mặt hàng này đã làm cho KNNK tăng thêm trên 4,1 tỷ USD

(tương ứng với mức tăng 14,9% so với KNNK 6 tháng đầu năm 2007). Nếu loại trừ yếu tố
tăng giá này thì KNNK 6 tháng tăng 45,7%. Nói cách khác, giá các mặt hàng NK tăng làm
độn KNNK lên khá nhiều.
- Thứ hai là sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO vào
tháng 11/2006. Là thành viên của WTO, thị trường NK của Việt Nam mở rộng hơn rất
nhiều ; thêm vào đó, hàng hóa bên ngoài do được miễn giảm thuế cũng dể dàng vào thị
trường Việt Nam. Một bằng chứng rõ nét nhất là sự gia tăng đột biến của KNNK hàng hóa
năm 2007, đạt 60.837 tỷ USD, tăng 37% so với năm 2006 - đây được coi là mức tăng kỷ lục
chưa từng có.
- Thứ ba, Cơ cấu hàng NK trong những tháng đầu năm cũng thể hiện cơ cấu sản
xuất, tiêu dùng trong nước. Sức mua, nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận người dân đã thay
đổi. Đời sống ngày một nâng cao là nguyên nhân khiến cho nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân hướng tới những mặt hàng NK xa xỉ, cao cấp.
- Thứ tư, do nhu cầu sản xuất hướng tới xuất khẩu nên lượng NK tăng ở các mặt
hàng như phân bón, sắt thép và kim loại, hoá chất, xăng dầu, tân dược. Hơn nữa, làn sóng
đầu tư nước ngoài gia tăng khiến cho nhu cầu NK để đầu tư mở rộng sản xuất tăng theo.
Các DN trong nước cũng gia tăng đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước đẩy mạnh triển khai các
công trình lớn cũng cần rất nhiều nguyên liệu NK. Nhà máy lọc dầu Dung Quất, các công
trình giao thông xây dựng đang NK mạnh thiết bị với số tiền hàng chục đến hàng trăm triệu
USD
II.2. Theo các thị trường nhập khẩu chính
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường tiêu biểu từ 2001 đến 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
TỔNG SỐ 16218.0
19745.
6
25255.
8 31968.8 36761.1

44891.
1 62682.2
Phân theo khối nước chủ yếu

×