1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Bước sang thế kỷ XXI, bức tranh giáo dục ở các quốc gia cũng như toàn
cầu đã khác trước rất nhiều. Các hệ thống giáo dục quốc dân đều trở thành các hệ
thống lớn, đa dạng và phức tạp: một mặt bám rễ trong môi trường truyền thống, một
mặt vận động theo xu thế chung như xây dựng xã hội học tập, đa dạng hóa giáo dục,
nâng cao chất lượng giáo dục, dân chủ hóa giáo dục, quốc tế hóa giáo dục, thương
mại hóa giáo dục. Giáo dục có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết trong tư duy phát
triển của các quốc gia, nó là sự đảm bảo cho tương lai cá nhân, là động lực cho phát
triển kinh tế, là thành phần của sự phát triển con người và là chìa khóa để giải quyết
các vấn đề xã hội và môi trường [48] .
1.2. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, nền giáo dục Việt Nam đã có những đóng góp
to lớn vào sự nghiệp trồng người, xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì vây, Đảng
ta luôn quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tháng 1 năm
2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Một trong những
định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại là: “Đổi mới toàn diện, mạnh mẽ GD&ĐT theo nhu cầu phát triển của xã hội;
nâng cao chất lượng theo định hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, phục vụ
đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập,
tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”[22].
Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 “về đổi
mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Một trong những giải pháp quan trọng của Nghị quyết là: “Phát triển đội ngũ nhà
giáo và CBQL, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD&ĐT: Xây dựng qui hoạch, kế hoạch
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD, tiến tới CBQL các cấp phải qua
đào tạo về nghiệp vụ quản lý”[71].
1.3. Tuy nhiên trong thực tế, khó khăn và thách thức đối với giáo dục còn
nhiều: Kinh tế phát triển chưa bền vững. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn
2
lực dành cho giáo dục còn hạn chế. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập,
một số mặt còn bức xúc. Một trong những vấn đề bức xúc của giáo dục nước ta hiện
nay là vấn đề chất lượng trong đó đội ngũ giáo viên, CBQL các nhà trường đóng vai
trò quyết định. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đánh giá: “Giáo dục đào tạo
nước ta còn yếu kém bất cập cả về qui mô, cơ cấu và nhất là chất lượng và hiệu
quả” [69]. Chỉ thị 40 - CT /TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban bí thư Trung
ương Đảng nêu rõ: “Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chưa ngang tầm
với yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục” [12]. Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 04 tháng 11 năm 2013 tiếp tục chỉ ra rằng: “Quản lý GD&ĐT còn nhiều yếu
kém. Đội ngũ nhà giáo và CBQLGD bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu;
một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết,
thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp” [71].
Chính vì vậy, Chỉ thị 40 - CT /TW của Ban bí thư Trung ương Đảng đã nhấn
mạnh: “Các trường sư phạm và trường CBQLGD có vai trò quan trọng trong đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, CBQLGD ” [12]; Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 04/ 11/ 2013 cũng nhấn mạnh: “Sắp xếp lại hệ thống các trường
sư phạm theo hướng khắc phục tình trạng phân tán, tập trung vào một số cơ sở đào
tạo mạnh, chú trọng đầu tư xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm làm đầu
tàu. Các trường sư phạm chuyển dần nhiệm vụ sang tập trung đào tạo, bồi dưỡng
nhà giáo và CBQLGD, không đào tạo đa ngành” [71].
Hiện nay chúng ta đã và đang duy trì, phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng CBQLGD như: Học viện quản lý giáo dục, Trường cán bộ quản lý,
Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục các tỉnh, thành phố hoặc các Khoa Bồi dưỡng
tại các trường Đại học. Nhiệm vụ chính của các cơ sở giáo dục này là để thực hiện
tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển giáo
dục; quy hoạch phát triển GD&ĐT. Để làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ
CBQLGD, GV có chất lượng thì một trong những yếu tố quan trọng đó là quản lý
tốt hoạt động bồi dưỡng cho đội ngũ CBQL, GV các cấp học hằng năm.
1.4. Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đây là bậc học tạo cơ sở ban đầu, là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, đào tạo
các em thành những công dân tốt cho đất nước. hiệu trưởng trường tiểu học là
3
người thay mặt nhà nước và ngành quản lý trực tiếp mọi hoạt động của nhà trường.
Do vậy, vai trò của hiệu trưởng trong trường tiểu học là hết sức quan trọng. Thời
gian qua, nhiều khóa bồi dưỡng cho hiệu trưởng trường tiểu học được thực hiện và
đạt được những kết quả nhất định trong việc cung cấp một số kiến thức, kỹ năng
quản lý trường học để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Qua các khóa bồi
dưỡng, đội ngũ hiệu trưởng trường tiểu học đã có những kiến thức, kỹ năng quản lý
cơ bản để thực hiện nhiệm vụ của mình đúng quy định. Tuy vậy, hoạt động bồi
dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao khả
năng thực thi công vụ của người quản lý trong điều kiện mới. Nội dung, chương
trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng còn chậm được đổi mới, chất lượng chưa
cao…. Việc bồi dưỡng theo kiểu đồng loạt với một nội dung cho tất cả các học
viên; thiếu sự khảo sát trình độ và nhu cầu để tổ chức lớp học phân hóa theo hoàn
cảnh, năng lực, nguyện vọng người học đã làm giảm hiệu quả quá trình bồi dưỡng.
Người học chưa có được cách tiếp cận và giải quyết vấn đề của quản lý nhà trường
một cách chủ động trong môi trường luôn thay đổi. Kiểm tra, đánh giá người học
còn nặng nề và chưa phản ánh đúng chất lượng học tập. Một số nhà quản lý và
hoạch định chính sách chưa coi công việc của hiệu trưởng trường tiểu học là một
nghề mang tính chuyên nghiệp. Thêm vào đó, thực tiễn chất lượng của công tác
quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học tại các cơ sở giáo dục ở một
số tỉnh, thành còn có những bất cập về các phương diện như: xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện, đánh giá bồi dưỡng… Điều này dẫn đến mức độ đáp ứng với đòi hỏi
nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành giáo dục còn hạn chế. Mặc dù nâng cao
chất lượng GD&ĐT còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng tăng cường quản lý hoạt
động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của các cơ sở giáo dục tại địa phương.
Trong các công trình nghiên cứu thuộc quản lý giáo dục thì các công trình
nghiên cứu về quản lý đào tạo đã có nhiều còn các công trình nghiên cứu về quản lý
bồi dưỡng (đặc biệt là quản lý bồi dưỡng hiệu trưởng) còn rất hạn chế. Hầu hết các
công trình nghiên cứu mới chỉ dừng ở bậc thạc sỹ tại một tỉnh hoặc một trường,
chưa có công trình nào nghiên cứu ở bậc tiến sỹ, ở nhiều tỉnh, nhiều trường. Xuất
phát từ thực tế trên tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu
4
trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo dục” làm đề tài nghiên cứu
với mong muốn đáp ứng đúng đắn đòi hỏi thực tiễn khách quan của ngành cũng như
góp phần giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của công tác quản lý bồi dưỡng hiệu
trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động và quản lý hoạt động
bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD;
luận án đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học nhằm góp phần nâng cao kết quả hoạt động bồi dưỡng phù hợp với quá trình
hội nhập trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học tại các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng CBQLGD.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học tại các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng CBQLGD trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD ở các tỉnh, thành: Hà Nội, Phú Thọ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Khách thể điều tra:
+ Cán bộ quản lý các cấp: Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, Trường, Khoa Bồi
dưỡng CBQLGD.
+ Giảng viên trực tiếp giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
+ Học viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục.
- Thời gian đánh giá thực trạng: 3 năm
5
5. Giả thuyết khoa học
Trong thời gian qua, việc quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên đối chiếu với những yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn này thì vẫn còn
những hạn chế do các nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân do sự chưa
phù hợp giữa chương trình, nội dung, lực lượng, đối tượng, phương pháp, thời gian và
địa điểm bồi dưỡng cũng như mô hình quản lý hoạt động bồi dưỡng. Nếu đề xuất và
áp dụng đồng bộ một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng tạo ra sự phù hợp
hơn: nâng cao nhận thức về công tác bồi dưỡng; kế hoạch hóa nhân tố đầu vào; phát
triển đội ngũ và hoàn thiện bộ máy quản lý; phát triển và bổ sung một số nội dung,
phương pháp bồi dưỡng; đổi mới công tác kiểm tra đánh giá; tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học, cải tiến cơ chế phối hợp giữa các đơn vị tham gia bồi
dưỡng…. thì có khả năng nâng cao chất lượng bồi dưỡng, đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ hiệu trưởng trường tiểu học nói
riêng và chất lượng giáo dục nói chung của toàn quốc.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường
tiểu học tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
6.2. Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học
đang tiến hành ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
6.3. Đề xuất, khảo nghiệm và thực nghiệm một số biện pháp quản lý hoạt động bồi
dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo dục tại các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu
7.1.1. Tiếp cận hệ thống
Theo quan điểm hệ thống tất cả các tổ chức đều là những hệ thống và là bộ
phận của hệ thống lớn hơn, có sự tác động qua lại, chi phối hay tương tác với nhau
tùy vào mối quan hệ giữa chúng. Hệ thống giáo dục bao gồm các thành tố phải
tương tác với nhau theo những qui luật, nguyên tắc nhất định.Trong quản lý hoạt
động bồi dưỡng gồm có các thành tố: chương trình, nội dung, phương pháp, người
6
dạy, người học, môi trường … Tất cả các thành tố đều có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mối quan hệ giữa các thành tố bị chi phối bởi các yếu tố môi trường, bối cảnh
giáo dục hiện nay. Vì vậy, để thay đổi được hiệu quả của công tác quản lý thì phải
thay đổi được các thành tố trong hệ thống.[51]
7.1.2. Tiếp cận chức năng quản lý
Các biện pháp quản lý của đề tài được xây dựng theo góc độ chức năng của
quản lý: xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra và đánh giá.
7.1.3. Tiếp cận chuẩn
Chuẩn hiệu trưởng được ban hành với mục đích: (Một) Để hiệu trưởng tự
đánh giá và định hướng học tập, tự hoàn thiện và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
nhà trường; (Hai) làm căn cứ để cơ quan quản lý giáo dục đánh giá, xếp loại, phục vụ
công tác sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và đề xuất thực hiện chế
độ chính sách đối với hiệu trưởng; (Ba) Làm căn cứ để các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục xây dựng, đổi mới chương trình bồi dưỡng hiệu
trưởng. Vì vậy, quá trình bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học phải hướng đến
chuẩn hiệu trưởng. Mô hình nhân cách người hiệu trưởng trường tiểu học trong giai
đoạn hiện nay được tiếp cận từ chuẩn hiệu trưởng trường tiểu học. Lấy chuẩn hiệu
trưởng làm đích để hướng người học đến chuẩn, sau khi tham gia bồi dưỡng, các học
viên đạt được chuẩn theo yêu cầu hiện tại của Ngành. [7]
7.1.4. Tiếp cận CIPO
Quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học có thể vận dụng
theo mô hình CIPO. Để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng cần quan tâm đến việc quản lý
các yếu tố đầu vào, quản lý quá trình bồi dưỡng đến quản lý các yếu tố đầu ra, đồng
thời phải quan tâm đến tác động của bối cảnh mới, đặc biệt là công cuộc đổi mới
căn bản toàn diện GD&ĐT của nước ta hiện nay.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu
7.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến quản lý, hoạt động
bồi dưỡng, hiệu trưởng, bậc tiểu học, người hiệu trưởng trường tiểu học, quản lý
hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
7
Nghiên cứu các văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phân tích các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý
luận cho đề tài.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra viết:
Xây dựng các phiếu điều tra bằng các loại câu hỏi đóng, mở gửi cho nhiều
đối tượng đã dự kiến (CBQL, giảng viên, giáo viên và học viên) nhằm thu thập các
ý kiến của họ một cách khách quan về thực trạng công tác bồi dưỡng: cơ sở vật
chất, tài chính, kết quả dạy và học, quản lý hoạt động bồi dưỡng ….
Tác giả xây dựng các mẫu phiếu sau: Mẫu 1: Điều tra về thực trạng hoạt
động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học. Mẫu 2: Điều tra về thực trạng quản lý
hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học
Phương pháp phỏng vấn, trao đổi:
Gặp gỡ phỏng vấn các giảng viên đang trực tiếp giảng dạy, học viên các lớp
bồi dưỡng, CBQL nhà trường trong các cuộc họp, trong các khóa tập huấn, hội thảo,
các buổi học bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng dài hạn… để thu thập chính xác thêm
các thông tin có liên quan đến công tác bồi dưỡng, hỗ trợ thêm cho phương pháp sử
dụng phiếu hỏi.
Phương pháp chuyên gia:
Xin ý kiến của chuyên gia, những người có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm
về chuyên ngành, phương pháp sư phạm, năng lực quản lý để tìm kiếm các kết luận
thỏa đáng trong việc đánh giá thực trạng và tranh thủ ý kiến của các chuyên gia
trong việc đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt
động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học.
Tác giả xây dựng mẫu phiếu số 3: Điều tra tính cần thiết và tính khả thi của
các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học trong giai
đoạn đổi mới giáo dục.
Phương pháp thực nghiệm tác động:
Khảo nghiệm và thực nghiệm tính khả thi của một số biện pháp quản lý hoạt
động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng quản lý,
chất lượng bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
8
7.3. Phương pháp thống kê
Vận dụng các công thức toán học, thống kê để xử lý số liệu điều tra, kết quả
nghiên cứu, hỗ trợ cho các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã nêu ở
trên nhằm rút ra kết luận khoa học.
8. Những luận điểm bảo vệ
8.1. Hiệu trưởng trường tiểu học là nhân vật quan trọng nhất của nhà trường.
Hiệu trưởng vừa là thủ trưởng, vừa là thủ lĩnh của nhà trường. Họ không chỉ là nhà
giáo dục, mà còn là nhà lãnh đạo, nhà quản lý, nhà hoạt động cộng đồng, đóng vai trò
quan trọng trong việc đẩy mạnh sự phát triển trường tiểu học.
8.2. Ngày nay, vai trò của người hiệu trưởng trường tiểu học có những thay đổi
gắn với sự thay đổi của bối cảnh kinh tế xã hội và những yêu cầu phát triển nhà
trường. Để điều hành nhà trường hiệu quả, đội ngũ hiệu trưởng trường tiểu học cần
được liên tục bồi dưỡng những năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới.
8.3. Để bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học cần quán triệt các chức năng
của công tác quản lý: xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá; đồng
thời bao quát được các đặc trưng của hoạt động bồi dưỡng: chương trình, người
dạy, người học và cơ sở vật chất.
9. Điểm mới của luận án
9.1. Về lý luận
Hệ thống hóa và bổ sung một số cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi
dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo dục tại các cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
9.2. Về thực tiễn
Xác định được những thuận lợi, khó khăn và các yếu tố ảnh hưởng đến thực
trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học tại các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng CBQLGD như: cơ chế, chính sách, cách thức quản lý cũng như các điều
kiện phục vụ bồi dưỡng … thông qua việc khảo sát hoạt động bồi dưỡng và quản lý
hoạt động bồi dưỡng.
Đề xuất một số biện pháp có tính cần thiết và khả thi cao để nâng cao hiệu
quả quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học trong giai đoạn đổi
mới giáo dục. Các biện pháp đề xuất có mối quan hệ khăng khít với nhau, cần được
9
thực hiện đồng bộ của nhiều chủ thể quản lý gắn với định hướng phát triển giáo dục
tiểu học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Luận án là tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD
trong việc quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học, góp phần thực
hiện đề án “xây dựng và nâng cao chất lượng nhà giáo và CBQLGD” theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.
10. Cấu trúc luận án
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận & khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục, luận án có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường
tiểu học tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu
học trong giai đoạn đổi mới giáo dục tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU HỌC TẠI CÁC CƠ SỞ
ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Thế kỷ XXI, “thế kỷ của đỉnh cao trí tuệ” kéo theo sự bùng nổ của tri thức
khoa học và công nghệ. Giáo dục đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia. Việc “học tập suốt đời” (lifelong learning) ở nhiều
nước trong khu vực cũng như trên thế giới không còn tồn tại chỉ như một khái niệm
hay một nguyên tắc đơn thuần trong học tập mà nó đã trở thành một trong những chìa
khóa quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng mô hình xã
hội học tập có nghĩa là xây dựng một nền giáo dục của một xã hội học tập suốt đời,
toàn diện và tích hợp, một xã hội mà trong đó tất cả những yêu cầu học hành của mọi
người ở mọi nơi, mọi lúc đều được đáp ứng. Mô hình xã hội học tập mới ra đời
nhưng đã tỏ ra là một mô hình hữu hiệu đối với tất cả các quốc gia không phân biệt
giàu - nghèo, phát triển hay đang phát triển. Xây dựng một xã hội học tập suốt đời
dựa trên cơ sở bốn yêu cầu cơ bản hay còn gọi là bốn trụ cột mà trong báo cáo trình
UNESCO của Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đề cập đến đó là: Học để biết,
học để làm, học để tồn tại, học để cùng chung sống với nhau (Learn to know; Learn
to do; Learn to be; Learn to live together).
Năm 1968 Ph.Coombs với tác phẩm nổi tiếng “Khủng hoảng giáo dục trên
phạm vi toàn thế giới” đã đề cập đến việc giáo dục trong nhà trường không đủ sức
đáp ứng nhu cầu học tập cho mọi người. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,
kiến thức học trong nhà trường là quá ít ỏi, chóng lạc hậu. Đến thập kỷ 70, Edgar
Faure, năm 1972 đã cho xuất bản cuốn sách “Học tập để tồn tại” đã làm xoay
chuyển nhận thức về giáo dục, đặc biệt là giáo dục người lớn và đặt trong khuôn
khổ giáo dục suốt đời. Bertrand Schwatz, một chuyên gia giáo dục người Pháp đã
chỉ ra: Các chương trình giáo dục và đào tạo đã thay đổi và phát triển không ngừng,
người ta không thể đào tạo nên một con người chỉ bằng một chương trình cố định.
11
Con người quên đi rất mau những gì đã học, nếu người ta không được dùng nó
trong thực tiễn, kiến thức khi đó sẽ phai mờ dần và trở thành kiến thức chết. Từ sau
những năm 50, khoa học kỹ thuật đã bước vào thời kỳ phát triển như vũ bão, kéo
theo sự phát triển to lớn về công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế, về văn hóa, giáo dục.
Đặc biệt vào những năm cuối của thế kỷ XX, sự biến đổi to lớn của bộ mặt thế giới
đến mức có người đã gọi nửa sau của thế kỷ XX là “thế kỷ XX thứ hai”. Kéo theo
nó là những thông tin khoa học kỹ thuật cứ 10 năm lại tăng lên gấp đôi, trình độ
người tốt nghiệp đại học chỉ sau 7-10 năm đã có nhu cầu bức thiết được đào tạo lại
hoặc bồi dưỡng để đạt chuẩn mới, chuẩn cao hơn để đóng góp, thúc đẩy xã hội phát
triển nhanh hơn. Như vậy, nhu cầu và nguyện vọng được học tập, được giáo dục là
của tất cả mọi người. Bước sang thế kỷ XXI, nhu cầu học suốt đời càng cấp thiết và
cấp bách, mọi người cần học để biết, để sống cùng nhau và học để tồn tại như báo
cáo của ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI của Jaques Delors “Học tập – một
kho báu tiềm ẩn”, 1997. Đó cũng chính là ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi con người trong xã hội.
Một trong những hình thức học tập suốt đời chính là bồi dưỡng nguồn nhân
lực. Trong nền giáo dục mỗi quốc gia, đội ngũ hiệu trưởng là những nhân vật quan
trọng nhất trong nhà trường, phải được liên tục bồi dưỡng để đáp ứng được với yêu
cầu nhà trường hiện tại, đồng thời phải có khả năng thích ứng với những đổi mới
của hệ thống giáo dục suốt 40 năm công tác của mỗi người. Đội ngũ hiệu trưởng
chính là lực lượng cốt cán biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, giữ vai trò
quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Xu thế đổi mới giáo dục để chuẩn bị
con người cho thế kỷ XXI đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực
của đội ngũ hiệu trưởng. Chính vì vậy, những mối quan tâm của các nhà lãnh đạo
trong lĩnh vực giáo dục cùng những phương thức tiến hành tổ chức các hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ hiệu trưởng đang trở thành những vấn đề lớn,
được đặc biệt chú trọng trong các hệ thống giáo dục tại các nước trên thế giới.
Ở một số nước, các viện đào tạo nhà quản lý giáo dục được thành lập nhằm
mục đích nghiên cứu phát triển chương trình cùng với chỉ dẫn trực tiếp các hoạt
động cung cấp đội ngũ lãnh đạo của các trường. Các phương pháp xây dựng tiêu
chuẩn, xác định những yêu cầu về trình độ và đánh giá những ảnh hưởng của người
12
quản lý trường học đang được xem xét, cân nhắc và rà soát. Dưới nhiều góc độ khác
nhau, rất nhiều nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như:
- Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng hiệu trưởng mà chủ chốt là phát triển chương
trình bồi dưỡng để đáp ứng với sự phát triển của khoa học – công nghệ trong xu thế
hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa [107]
- Chỉ đạo xây dựng, phát triển chương trình bồi dưỡng, cung cấp cho hiệu
trưởng những kiến thức, kĩ năng cần thiết để lãnh đạo nhà trường trong bối cảnh
nhiều thay đổi gắn với điều kiện cụ thể của đất nước [106].
Trong nghiên cứu của trường Đại học cho lãnh đạo và dịch vụ cho trẻ em của
Anh đăng trên “School Learship Today” [113] chỉ rõ những ưu tiên trong việc quản
lý bồi dưỡng hiệu trưởng trường học ở Anh là cần tăng cường kỹ năng xây dựng tổ
chức học tập, lãnh đạo việc dạy học và quản lý thay đổi. Mỗi quốc gia đều có hình
thức khác nhau trong việc quản lý bồi dưỡng cho hiệu trưởng nhưng hầu hết đều tập
trung vào tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý như: ở Thụy Sĩ chương trình bồi
dưỡng hiệu trưởng được xây dựng chú trọng vào kỹ năng: lãnh đạo, giáo dục, phát
triển trường học, tổ chức quản lý;
Cộng hòa liên bang Đức chú trọng vào các kỹ năng: sư phạm; kiểm soát;
lãnh đạo; tổ chức và tư vấn [105]. Các tác giả Davis S. Darling D, Hammond L.,
LaPointe M., Mayerson D., (2005) [116] đã nghiên cứu về công tác lãnh đạo trường
học, chương trình bồi dưỡng hiệu trưởng, phương pháp bồi dưỡng các vấn đề chính
sách và tài chính. Trong đó về chương trình bồi dưỡng hiệu trưởng, nghiên cứu này
chỉ rõ: Việc xây dựng chương trình bồi dưỡng phải gắn với chuẩn hiệu trưởng.
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới rất quan tâm đến việc quản lý bồi
dưỡng đội ngũ hiệu trưởng đảm bảo được chất lượng nghề nghiệp để có thể chèo lái
con thuyền nhà trường đi đến thành công. Cần phải chỉ đạo xây dựng và phát triển các
nội dung bồi dưỡng, đổi mới hình thức và phương pháp bồi dưỡng để có thể bồi
dưỡng những hiệu trưởng đồng thời là những nhà quản lý, lãnh đạo trường học đáp
ứng được vai trò lãnh đạo và quản lý nhà trường, đảm bảo cho nhà trường thành
công và phát triển tốt trong điều kiện hiện nay. Trường ĐH Nam Floria xây dựng
chương trình bồi dưỡng cho hiệu trưởng, nhà quản lý trường học… nhằm mục đích
phát triển năng lực nghề nghiệp cho các nhà quản lý đảm bảo lãnh đạo nhà trường
13
hiệu quả. Đây là một chương trình tích hợp gồm mười một vùng kiến thức kỹ năng
theo bốn lĩnh vực lớn: 1. Lãnh đạo chiến lược; 2. Lãnh đạo tổ chức; 3. Lãnh đạo
giáo dục; 4. Lãnh đạo chính trị và cộng đồng. Thụy Sỹ tổ chức bồi dưỡng nhà lãnh
đạo trường học theo các yêu cầu năng lực: năng lực lãnh đạo, năng lực xã hội, năng
lực cá nhân, năng lực giáo dục, năng lực phát triển trường học, năng lực tổ chức –
quản lý. Gần đây, Bộ GD&ĐT Singapore đã xây dựng mô hình trường học ưu việt
(SEM). Từ năm 2000, tất cả các trường sẽ thực hiện việc tự đánh giá sử dụng mô hình
trường học ưu việt. Các trường sẽ xem xét một cách đều đặn, hệ thống và toàn diện
các qui trình và kết quả của mình đối chiếu với mô hình trường học ưu việt.
Trong khuôn khổ luận án và phạm vi tìm hiểu của tác giả chưa thể đề cập
đến được hết các khía cạnh nghiên cứu về vấn đề đào tạo bồi dưỡng hiệu trưởng
trường học ở mọi quốc gia nhưng một số phân tích trên cho thấy tầm quan trọng của
việc bồi dưỡng cho đội ngũ hiệu trưởng trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên
cứu nào đề cập đến việc quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học
trong giai đoạn đổi mới giáo dục.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục và bồi dưỡng đội
ngũ CBQL: “Đại đa số cán bộ hoặc bận công việc hoặc xa xôi quá, chưa được
huấn luyện. Đối với những cán bộ đó, Đảng phải tìm cách huấn luyện họ hoặc
mở lớp ở địa phương hoặc gửi sách vở cho họ nghiên cứu ” [68]. Lời Bác dạy
như kim chỉ nam đối với Ngành Giáo dục suốt những năm qua.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, khi xem xét các vấn đề giáo dục, Đảng và
Nhà nước đã khẳng định vai trò của đội ngũ CBQLGD trong hệ thống giáo dục
đang ngày càng phát triển về mọi mặt. Đảng ta xác định: phải đổi mới công tác đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ CBQLGD, sử dụng đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức
và tài năng…Để phát triển GD&ĐT nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương "chuẩn
hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa" giáo dục với quan điểm "Giáo dục là quốc sách
hàng đầu", “đổi mới căn bản, toàn diện, mạnh mẽ nền giáo dục Việt Nam”. Chủ
trương trên đã được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội, Chính phủ và của Bộ GD&ĐT cũng như của các Bộ, ngành khác. Nội dung các
14
văn bản này đang được hiện thực hóa và có tác dụng tích cực làm thay đổi diện mạo
nền giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá những ưu, khuyết điểm của đội ngũ
CBQLGD, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBQLGD, nhấn mạnh cần chuẩn hóa trường sở,
đào tạo và bồi dưỡng CBQLGD. Nghị quyết về giáo dục số 37/2004 của Quốc hội
khóa 11, kỳ họp thứ 6 đã nhấn mạnh vấn đề thứ 4 là tập trung xây dựng đội ngũ nhà
giáo và CBQLGD đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo,
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề
nghiệp, trình độ, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục[79]. Ngày 11/01/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 09/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án "Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" với mục đích tạo ra sự chuyển biến cơ bản
và toàn diện trong công tác phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa Đề án chỉ rõ: Đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng, triển khai có hệ thống và chuẩn hóa; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBQLGD; … nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về nhiệm vụ xây dựng đội ngũ CBQLGD có chất lượng cao,
giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp[10].
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng khẳng định: “Mục tiêu chung là xây dựng đội
ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và
cơ cấu hợp lí” [21]. Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11
năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội
dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập,
rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và
năng lực nghề nghiệp. Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và CBQL nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ”. [71]
15
Với những định hướng về GD&ĐT như trên, rất nhiều các công trình nghiên
cứu khoa học đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng CBQLGD nói chung, Hiệu trưởng
nói riêng. Tác giả Vũ Ngọc Hải viết về “Đào tạo CBQLGD trong phát triển giáo
dục Việt Nam hiện đại và hội nhập quốc tế” [34]. Theo tác giả, công tác đào tạo
CBQLGD hiện nay phải: Phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; nhằm phát triển hài hoà giáo dục công lập và ngoài công lập; CBQLGD cần
có năng lực thực hiện vai trò giám sát bằng luật pháp; ưu tiên đào tạo cán bộ quản
lý nhà nước về giáo dục; trang bị năng lực độc lập, tính bản lĩnh và trách nhiệm;
tăng tính tích cực, chủ động cho cán bộ quản lý để tham gia hội nhập quốc tế sâu
rộng. Tác giả Vương Thanh Hương viết về: “Một số xu hướng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhà trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế” [44]. Đội ngũ
lãnh đạo luôn đóng vai trò quan trọng, mang tính quyết định đối với sự thành bại
của các tổ chức nói chung và của nhà trường nói riêng. Bài viết đề cập đến một số
xu hướng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo nhà trường trong bối cảnh mới với sự
thay đổi nhanh chóng của kinh tế, công nghệ, xã hội và văn hóa. Tác giả Phạm
Ngọc Hải viết về tầm quan trọng của việc phát triển đội ngũ CBQL trường THPT vì
đây là cấp học nền tảng để đào tạo nhân lực. Đội ngũ CBQL trường THPT là một
bộ phận của đội ngũ CBQLGD, bao gồm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường
THPT. Nội dung phát triển được qui tụ vào ba vấn đề chính là số lượng, chất lượng,
cơ cấu. Một trong những biện pháp cần tiến hành là đào tạo, định kỳ đào tạo lại và
bồi dưỡng cho đội ngũ CBQL trường THPT theo yêu cầu đã đặt ra [33]. Tác giả
Huỳnh Hồng Giang viết về phát triển CBQL trường THPT là giải pháp có tính đột
phá để giải quyết bài toán chất lượng giáo dục THPT hiện nay. Một trong những
giải pháp là đổi mới công tác đào tạo - bồi dưỡng, tăng cường giáo dục đạo đức
nghề nghiệp, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
ngoại ngữ tin học cho đội ngũ CBQL trường THPT [29]. Tác giả Đặng Huỳnh Mai
viết về những nhiệm vụ chính cần phải thực hiện để xây dựng được đội ngũ
CBQLGD đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đó
là: xây dựng và thực hiện công tác đào tạo - bồi dưỡng cho CBQLGD về nghiệp vụ
quản lý để có đủ năng lực làm cho học sinh trở thành người có công đưa đất nước ta
có thể sánh vai các cường quốc năm châu; hình thành phương pháp lãnh đạo cho
16
đội ngũ CBQLGD với tư duy sáng tạo và toàn diện để mọi thành viên của đơn vị
biết làm giáo dục toàn diện…[65]. Tác giả Hoàng Văn Dương viết về những yêu
cầu đối với phẩm chất, trình độ, năng lực của đội ngũ CBQLGD trước yêu cầu đổi
mới giáo dục [19]. Tác giả Hà Tuyết Vân viết về những nghiên cứu và thực trạng
phong cách quản lý của đội ngũ CBQL trường MN, tiểu học, trung học cơ sở tham
gia các khoá bồi dưỡng CBQL tại trường Cao đẳng Sơn La, từ đó đề xuất các biện
pháp bồi dưỡng phong cách quản lý cho CBQL thông qua các bài giảng trong
chương trình bồi dưỡng; hoạt động ngoại khoá và hội thảo khoa học cũng như giao
lưu học hỏi kinh nghiệm quản lý [96]. Tác giả Dương Thị Hoàng Yến nghiên cứu
những kĩ năng quản lý con người của CBQLGD cùng mô hình học tập để phát triển
hệ thống kĩ năng này. Một CBQLGD giỏi không chỉ biết tổ chức công việc mà còn
phải biết tự phát triển chính mình vì sự phát triển cuả nhà trường đáp ứng yêu cầu
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo của Việt Nam trong giai đoạn tới
[103]. Tác giả Trần Minh Hằng đề cập đến vai trò của năng lực tự đánh giá, sự bất
cập năng lực tự đánh giá của CBQLGD hiện nay; đề ra các biện pháp nâng cao năng
lực tự đánh giá cho CBQLGD. Một trong những biện pháp đó là: đổi mới nội dung
và phương pháp bồi dưỡng CBQLGD, từ đó người CBQLGD có thể tự đánh giá
phù hợp bản thân, để dần hoàn thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu của ngành giáo dục
hiện nay: lấy đổi mới công tác quản lý làm điểm đột phá cho giáo dục [37]. Tác giả
Ngô Thị Bích Thảo viết về việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQLGD, vì đây là
nhiệm vụ quan trọng để phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Từ đó,
tác giả đề xuất một số giải pháp trong việc LKĐT và bồi dưỡng CBQLGD, cụ thể:
Cần phải tiếp tục xây dựng chương trình, kế hoạch LKĐT-BD CBQLGD giai đoạn
2012-2015 và đến năm 2020. Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng
CBQLGD, nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên của Học viện, đổi mới công tác
quản lý các lớp, đổi mới công tác kiểm tra-đánh giá kết quả của người học, nắm bắt
nhu cầu của địa phương, tổ chức hội thảo, hội nghị tổng kết-rút kinh nghiệm [87].
Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng cho đội ngũ CBQLGD,
trường Cán bộ Quản lý giáo dục nay là Học viện Quản lý giáo dục đã nghiên cứu của
các biện pháp nâng cao chất lượng các khóa bồi dưỡng CBQLGD trong đó có bồi
dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học. Các nghiên cứu tập trung vào các vấn đề đổi mới
17
phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá người học. Các tác giả Nguyễn Thị Thanh,
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh thực hiện các đề tài nghiên cứu về đổi mới kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học viên các lớp bồi dưỡng CBQLGD theo các hình thức trắc
nghiệm khách quan, bài tập tình huống hay thu hoạch về các nội dung học tập và việc
vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn quản lý nhà trường. Vào những năm
2003, 2004 các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Phạm Viết Nhụ và các cộng sự thực hiện
đề tài trọng điểm cấp bộ: “Định hướng đổi mới nội dung và phương thức bồi dưỡng
CBQLGD đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông”, xác định các yêu cầu năng
lực của người CBQL quản lý và đề xuất các định hướng đổi mới nội dung và phương
thức bồi dưỡng [75]. Tại các hội thảo khoa học về giải pháp cơ bản đổi mới quản lý
trường phổ thông (năm 2006); giải pháp bồi dưỡng hiệu trưởng và CBQL trường
phổ thông (năm 2008), tác giả Trần Bích Liễu [43] phân tích thực trạng quản lý và
nhu cầu bồi dưỡng hiệu trưởng trường THPT. Trên cơ sở các nghiên cứu các tác giả
đề xuất ý kiến đổi mới công tác bồi dưỡng hiệu trưởng trường phổ thông đáp ứng
yêu cầu nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế…[43]. Theo tác giả Trần
Ngọc Giao [43] đặc điểm nghề nghiệp của hiệu trưởng đòi hỏi năng lực và kinh
nghiệm sư phạm; đòi hỏi năng lực lãnh đạo và quản lý; đòi hỏi khả năng giao tiếp,
tuyên truyền và thuyết phục; đòi hỏi phẩm chất đạo đức và sự tận tâm. Vấn đề quản
lý bồi dưỡng hiệu trưởng các cấp cũng đã được nghiên cứu theo một số khía cạnh
như: đổi mới phương pháp giảng dạy, xây dựng một số chương trình bồi dưỡng
ngắn hạn theo hướng nâng cao năng lực tác nghiệp ở môt số lĩnh vực quản lý tài
chính, quản lý nhân sự và quản lý chuyên môn…
Bên cạnh đó là một số luận án nghiên cứu về hiệu trưởng trường tiểu học
hoặc CBQLGD nói chung như: Luận án của Khăm Keo Vông Phila (1996):
“Nghiên cứu phẩm chất, nhân cách người hiệu trưởng trường tiểu học” của trường
ĐHQG Hà Nội. Luận án nghiên cứu về phẩm chất nhân cách người hiệu trưởng
trường tiểu học theo 3 nhóm phẩm chất: phẩm chất đạo đức; phẩm chất tư tưởng,
chính trị; phẩm chất công việc. Luận án của Nguyễn Liên Châu (2000): “Một số đặc
điểm giao tiếp của hiệu trưởng trường tiểu học” của Trường ĐHSP Hà Nội. Luận án
phân tích đặc điểm giao tiếp của hiệu trưởng trên ba mặt: nhu cầu giao tiếp trong
quản lý; mục đích giao tiếp trong quản lý; nhận thức của hiệu trưởng trong giao
18
tiếp. Luận án của Trịnh Thị Hồng Hà (2009): “Đánh giá hiệu trưởng trường tiểu học
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa” của trường ĐHGD - ĐHQG Hà Nội. Luận án đã
đề xuất mô hình đánh giá hiệu trưởng trường tiểu học dựa vào Chuẩn hiệu trưởng
trường tiểu học đã xây dựng. Luận án của Nguyễn Duy Hưng (2014) “Quản lý chất
lượng bồi dưỡng CBQLGD đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” của trường
ĐHGD - ĐHQG Hà Nội, đã đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
CBQLGD phù hợp với bối cảnh của giáo dục Việt Nam từ đó góp phần nâng cao kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ CBQLGD hiện
nay. Đó là những công trình khoa học có giá trị cần được tiếp tục kế thừa và phát triển.
Tóm lại, từ những nội dung đã trình bày ở trên tác giả rút ra một số nhận xét
như sau:
Nghiên cứu về việc quản lý bồi dưỡng cho đội ngũ CBQLGD được các nước
trên thế giới quan tâm và triển khai theo nhiều hình thức khác nhau nhưng đều tập
trung vào mục đích nâng cao chất lượng bồi dưỡng, từ đó nâng cao khả năng lãnh
đạo và quản lý nhà trường của các học viên đã và đang là CBQLGD.
Tại Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu tập trung vào bồi dưỡng cho đội ngũ
CBQLGD nói chung; các nghiên cứu cũng chỉ rõ được tầm quan trọng của việc bồi
dưỡng, đào tạo lại cho đội ngũ CBQLGD trong giai đoạn đổi mới. Cần tập trung
nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, nội dung và hình thức, xây dựng một
số chương trình bồi dưỡng ngắn hạn theo hướng nâng cao năng lực…. Tuy nhiên,
chưa có tác giả nào đề cập đến nghiên cứu quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu
trưởng trường tiểu học một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy cần phải quan tâm
và nghiên cứu kỹ hơn việc quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học
trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay, tìm ra các biện pháp quản lý phù hợp
thực tiễn để góp phần giải quyết các yêu cầu về phát triển giáo dục đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Xã hội loài người hình thành và biến đổi qua nhiều giai đoạn. Trước nhu cầu
sinh tồn và phát triển con người đã có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, có sự phân công
một cách hợp lý nhằm làm cho lao động ngày một năng suất cao hơn, hiệu quả hơn.
19
Từ đó hình thành hoạt động đặc biệt, đó là sự chỉ huy, tổ chức, điều hành, kiểm tra,
chỉnh lí dành cho người đứng đầu, để tập hợp mọi sự nỗ lực của các thành viên
trong nhóm, một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Hoạt động đặc biệt đó
chính là hoạt động quản lý. Có thể nói: hoạt động quản lý là một trong những hình
thức lao động quan trọng nhất, đặc thù nhất, nó điều khiển các hoạt động lao động
khác. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về quản lý là vô cùng cần thiết, nó sẽ giúp cho
con người có được những kiến thức cơ bản nhất, chung nhất về hoạt động quản lý.
Tuy nhiên, quản lý là vấn đề hết sức phức tạp vì đối tượng hoạt động càng đa
dạng bao nhiêu thì lại càng đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý phong phú bấy
nhiêu. Chỉ riêng khái niệm “quản lý” cũng đã được các nhà triết học, các nhà khoa
học định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào phương pháp tiếp cận.
Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ F.W Taylor cho rằng:
“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào
bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất” [40]. Dưới góc độ điều khiển học,
A.I.Beng cho rằng: “Quản lý là quá trình chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng
thái này sang trạng thái khác nhờ sự tác động vào các phần tử biến thiên của nó”
[49]. Đối với nhà toán học A.N.Kolmogorov thì: “Quản lý là quá trình gia công thông
tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể sống” [53]. Khi nói
về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và Ken Blanc Heard
trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: “Quản lý là một quá trình cùng làm việc
giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của
nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức” [47]. H.Koontz
thì khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ
lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức) với thời
gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là
một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản lý là một khoa học [49]. C.Mác nhận
định: Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của
20
nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng [49].
Các nhà nghiên cứu về quản lý của Việt Nam cũng có những khái niệm khác
nhau: Theo Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định hướng, quản lý một hệ
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho
trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”[40]. Theo Nguyễn
Minh Đạo: “Quản lý là quá trình tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa
bằng một hệ thống các nguyên tắc pháp luật, chính sách, phương pháp và giải pháp
quản lý tạo ra những điều kiện cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín” [25].
Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [97].
Từ những định nghĩa trên đề tài xác định: Quản lý là một quá trình tác động
có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, nhằm tạo ra sự hợp
tác của các thành viên trong tổ chức, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng để đạt
được mục tiêu đề ra.
* Chức năng của quản lý
Chức năng của quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý. Quản lý có bốn chức năng cơ bản và là
bốn khâu có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, đó là:
a. Chức năng lập kế hoạch: Trong đó bao gồm dự báo, vạch mục tiêu. Đây
là chức năng đầu tiên, là bản hướng dẫn xác định mục tiêu, mục đích đối với các
thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được
mục tiêu đó. Như vậy lập kế hoạch là xác định mục tiêu (phương hướng) đối với tổ
chức, xác định và đảm bảo các phương tiện, điều kiện các nguồn lực của tổ chức để
đạt được mục tiêu.
b. Chức năng tổ chức: Tổ chức công việc, sắp xếp con người. Người quản
lý sau khi lập xong kế hoạch cần phải chuyển hóa những ý tưởng đó thành hiện
thực, đó là tổ chức thực hiện. Tổ chức là quá trình sắp xếp, xác lập và liên kết các
bộ phận các chức năng riêng lẻ thành một hệ thống hoàn thiện, thống nhất tạo nên
21
sức mạnh tổng hợp để đạt được mục tiêu quản lý. Dưới tác động của chức năng tổ
chức diễn ra quá trình hình thành cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ
phận trong một tổ chức, nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt
được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ chức năng tổ chức mà người quản lý có
thể kết hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực một cách có hiệu quả,
cho phép mọi người trong đơn vị có điều kiện góp phần tốt nhất vào mục tiêu
chung. Tổ chức được coi là điều kiện của người quản lý, tổ chức là công cụ của
quản lý, tổ chức tốt sẽ là khởi nguồn kích thích các động lực, nếu tổ chức không tốt
sẽ kìm hãm, triệt tiêu các động lực, làm giảm sút hiệu quả quản lý.
c. Chức năng điều hành, chỉ đạo: Tác động đến con người bằng các quyết
định để con người hoạt động, đưa bộ máy đạt tới mục tiêu, trong đó bao gồm cả
việc khuyến khích, động viên. Sau khi lập kế hoạch và xác định được cơ cấu tổ
chức và nhân sự thì phải làm cho hệ thống quản lý hoạt động, phải có ai đứng ra
lãnh đạo dẫn dắt tổ chức, đó là chức năng điều hành, điều khiển. Mục đích của điều
hành là đưa tổ chức vào hoạt động để thực hiện mục tiêu.
d. Chức năng kiểm tra: Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp
thời điều chỉnh sai sót, đưa bộ máy đạt được mục tiêu xác định. Thông qua chức
năng này, người quản lý theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, điều chỉnh sai sót, lệch lạc nhằm đảm bảo thực hiện có
hiệu quả mục tiêu đề ra.
Tóm lại, các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với một
trình tự nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có
mối quan hệ phụ thuộc với chức năng khác. Quá trình ra quyết định quản lý là quá
trình thực hiện các chức năng quản lý theo một trình tự nhất định. Việc bỏ qua hoặc
coi nhẹ bất cứ một chức năng nào trong chuỗi các chức năng đều ảnh hưởng xấu tới
kết quả quản lý. Các chức năng tạo thành một chu trình quản lý của một hệ thống.
1.2.2. Bồi dưỡng và Hoạt động bồi dưỡng
* Bồi dưỡng:
Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã
lạc hậu, bổ túc thêm về nghiệp vụ, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề
nghiệp. Bồi dưỡng là không làm lại từ đầu mà phải xuất phát trên cơ sở những kiến
22
thức và kỹ năng mà người lao động đã có sẵn. Bồi dưỡng Hiệu trưởng trường tiểu
học là quá trình trang bị thêm kiến thức, kỹ năng về công tác quản lý nhà trường
nhằm mục đích hoàn thiện và nâng cao năng lực cho đội ngũ Hiệu trưởng giúp họ
quản lý nhà trường một cách có hiệu quả.
* Hoạt động bồi dưỡng: có thể được coi là quá trình biến đổi và cập nhật
hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc thêm về nghiệp vụ, đào tạo thêm
hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề. Các hoạt động này
nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội để củng cố và mở mang một cách
có hệ thống những tri thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động có
hiệu quả hơn. Trên quan điểm giáo dục thì hoạt động bồi dưỡng là một quá trình
thống nhất. Hoạt động bồi dưỡng là hoạt động dạy và học mang tính đặc thù riêng
biệt. Hoạt động bồi dưỡng là việc làm thường xuyên, liên tục góp phần làm cho đội
ngũ đủ sức đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội.
Trong xã hội hiện đại, hoạt động bồi dưỡng có thể được coi là sự gắn kết 3 nhân tố “T”:
T1 (tri = hệ thống tri thức); T2 (trò = người học); T3 (thầy = người dạy)
Thầy ↔ Tri = Information: Thầy chọn các tri thức: Cơ bản – Việt Nam – Hiện đại
Thầy – Tri – Trò = Education: Thầy thực hiện được quá trình dạy học “tính mục đích –
kế hoạch – hệ thống”
Thầy – Trò = Communication: Thầy tổ chức sự giao lưu với trò, đảm bảo “ân – uy –
hợp tác” [2].
1.2.3. Cán bộ quản lý giáo dục, hiệu trưởng nhà trường
Cán bộ quản lý giáo dục có thể được hiểu là tập hợp những người làm công
tác quản lý trong các cơ quan quản lý giáo dục các cấp và ở các cơ sở GD&ĐT
trong hệ thống giáo dục quốc dân (có chức danh quản lý trong hệ thống công chức
ngành GD & ĐT); CBQLGD trước hết họ là người giáo viên, qua quá trình công tác
họ tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, phục vụ giảng dạy và có uy tín
với đồng nghiệp và họ được cấp trên đề bạt, bổ nhiệm các chức vụ trong nhà trường
hoặc các cơ quan quản lý ngành GD&ĐT; bao gồm: Cán bộ lãnh đạo các Cục, Vụ,
Viện trực thuộc Bộ GD&ĐT; Cán bộ lãnh đạo Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT các địa
phương. Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, trưởng phó các khoa, phòng của các trường
đại học, cao đẳng, TCCN; các trường THPT, THCS, Tiểu học, mầm non; Giám đốc,
23
Phó GĐ các trung tâm GDTX, Trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp và dạy nghề;
Hiệu trưởng nhà trường
Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường,
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trưởng các trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản
lý trường học. [80]
Người hiệu trưởng nhà trường trước cấp trên (Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT,
Bộ GD&ĐT) có vai trò người quản lý nhà trường song với tập thể sư phạm lại có
vai trò người lãnh đạo nhà trường. Hiệu trưởng vừa là Thủ trưởng lại vừa là Thủ
lĩnh của nhà trường. Vì vậy, người hiệu trưởng phải làm việc, cư xử sao cho cộng
đồng và cấp trên tín nhiệm và thuộc cấp khẩu phục - tâm phục.
1.2.4. Trường tiểu học và người hiệu trưởng trường tiểu học
Trường tiểu học: là cơ sở giáo dục bậc tiểu học - bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học có từ lớp 1 đến lớp 5 và có tư cách pháp
nhân, con dấu riêng. [80]
Người hiệu trưởng trường tiểu học: Hiệu trưởng trường tiểu học đại diện
cho nhà trường về mặt pháp lý, có trách nhiệm và có thẩm quyền cao nhất về hành
chính và chuyên môn trong trường, chịu trách nhiệm trước Phòng GD&ĐT về tổ
chức và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường. [80]
1.2.5. Hoạt động bồi dưỡng và quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường
tiểu học:
Hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học: là quá trình biến đổi và
cập nhật hóa kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc thêm về nghiệp vụ, đào tạo
thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề cho đội ngũ hiệu
trưởng hoặc cán bộ quản lý kế cận của các trường tiểu học.
Quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường tiểu học là quá trình lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra công tác bồi dưỡng của các cơ sở đào tạo
bồi dưỡng CBQLGD nhằm bổ sung kiến thức, nâng cao năng lực, trình độ, phẩm
chất cho đội ngũ hiệu trưởng trường tiểu học tiến tới nâng cao chất lượng giáo dục,
đáp ứng mục tiêu giáo dục.
24
1.3. Đặc trưng đổi mới giáo dục tiểu học và người hiệu trưởng trường tiểu học
trong giai đoạn đổi mới giáo dục
1.3.1. Đặc trưng đổi mới giáo dục và giáo dục tiểu học
Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 đưa ra
định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như sau:
* Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
* Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào
tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới
ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới cần kế thừa, phát huy
những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của
thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải
đảm bảo tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp
học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi
phù hợp.
* Phát triển GD&ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với
thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
* Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.
Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất
lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng….
* Giáo dục tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý giáo dục tiểu học có khẳng
định: Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành, phát
triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ
thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân [80].
25
Nhiệm vụ của trường tiểu học:
- Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xoá nạn mù chữ trong phạm
vi cộng đồng.
- Thực hiện đầy đủ có chất lượng chương trình, nội dung, kế hoạch theo qui
định của Bộ GD&ĐT.
- Góp phần xây dựng môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường, gia
đình và xã hội.
Như vậy, với tư cách là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân,
giáo dục tiểu học có vững chắc thì mới đảm bảo được nhiệm vụ xây dựng toàn bộ
nền móng không những chỉ cho giáo dục phổ thông mà còn cho cả sự hình thành và
phát triển nhân cách con người.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học: Xây dựng mô hình giáo dục tiểu học
Một nền giáo dục phải được xây dựng trên cơ sở quan niệm đúng về con
người, về trẻ em. Nhà trường tiểu học giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành
những nét tâm lí đặc trưng người Việt Nam thời hiện đại. Một mô hình giáo dục được
xác định trước hết bởi mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục tiểu học là nhằm giúp
học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở [80]. Như vậy, mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm phát triển con
người toàn diện có những phẩm chất tốt nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự
nghiệp phát triển sau này. Mục tiêu giáo dục được cụ thể hóa thành những mô hình
cụ thể, bao gồm những thành tố chính như kế hoạch giáo dục – dạy học, nội dung
giáo dục, được cụ thể hóa thành chương trình và sách giáo khoa, phương pháp được
thể hiện qua thiết kế bài soạn và tài liệu dùng cho giáo viên; tổ chức giáo dục được
thể hiện qua phương thức triển khai và CSVC - kĩ thuật phục vụ cho việc triển khai
quá trình giáo dục – dạy học. Một mô hình giáo dục được cụ thể hóa ở các loại hình
trường lớp khác nhau: có loại hình bán trú, có loại hình học nửa ngày, có loại hình
học theo ca… Trong quá trình vận động và phát triển kinh tế - xã hội, địa phương
nào có đủ điều kiện có thể nhập phương án giáo dục mới về cho con em mình học.
Các phương án giáo dục tiểu học sẽ bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện làm
lành mạnh và phát triển giáo dục ở bậc học này. (36)