Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Hoàn thiện quy trình lập kế hoạch sản xuất ở công ty cổ phần may 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 99 trang )

Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Từ gần hai thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam đã và đang thực sự chuyển
mình trong cơ chế mới: cơ chế thị trường. Chúng ta có thể thấy sự thay đổi
nhanh chóng và không ngừng của kinh tế và xã hội, đây là kết quả tất yếu của
cơ chế mới, cùng với nó là sự thay đổi đáng kể trong hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp.
Trong những năm qua, ngành may mặc Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc và được coi là ngành kinh tế đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho
ngân sách quốc gia. Ngành may mặc là một trong những ngành đi đầu trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với xu hướng phát
triển chung đó, công ty cổ phần May 10 chuyên sản xuất và kinh doanh trong
lĩnh vực may mặc cũng có những sự phát triển vượt bậc trong cơ chế mới.
Công ty cổ phần May 10 cũng như nhiều công ty khác đang tìm kiếm, thử
nghiệm những công cụ quản lý mới để nhằm đưa doanh nghiệp phát triển
mạnh hơn và đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Hoạt động sản xuất là một trong những hoạt động đặc trưng của một doanh
nghiệp sản xuất. Hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần May 10 phụ thuộc
vào hiệu quả sản xuất của chính bản thân công ty. Chính vì vậy, công ty cần
hoạt động theo một trật tự nhất định, có kiểm soát và đảm bảo sử dụng tối ưu
nguồn lực hiện có. Công ty cổ phần May 10 đã sử dụng một hệ thống các kế
hoạch liên tiếp nhau để đảm bảo cho hoạt động của công ty được liên tục như
kế hoạch Marketing, kế hoạch sản xuất, kế hoạch tìm kiếm thị trường, đa
dạng hoá sản phẩm…
Trong thời gian thực tập tại phòng kế hoạch của công ty, nhận thấy kế
hoạch sản xuất của công ty là một tập hợp những kế hoạch nhỏ, đảm bảo cho
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
1
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
sự vận hành hoạt động sản xuất tận dụng tối đa nguồn lực và không bị gián
đoạn, tuy nhiên, trong quy trình lập và quản lý thực hiện kế hoạch còn nhiều


vấn đề bất cập. Việc xây dựng kế hoạch sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối
với hoạt động kinh doanh của công ty, do vậy, trong thời gian thực tập tại
công ty, tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Hoàn thiện quy trình lập
kế hoạch sản xuất ở công ty cổ phần May 10", nhằm mục đích nghiên cứu,
tìm hiểu về quy trình lập kế hoạch sản xuất của công ty, vận dụng lý thuyết và
thực hành, so sánh và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất và công tác lập kế hoạch sản
xuất tại công ty cổ phần May 10.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình lập kế hoạch sản
xuất tại công ty cổ phần May 10.
Xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
tại trường, cám ơn cô giáo - TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp tôi hoàn thành bài
viết này. Đồng cảm ơn các cô chú tại phòng Kế hoạch công ty CP May 10 và
quý công ty đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
2
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I – VAI TRÒ CỦA KẾ HOẠCH
SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP
I - Hoạt động sản xuất
Muốn tồn tại, con người không ngừng sản xuất ra của cải vật chất để đáp
ứng nhu cầu của bản thân. Hoạt động sản xuất từ đó trở thành hoạt động cơ
bản nhất trong các hoạt động của con người. Sản xuất là hoạt động có mục
đích của con người (tổ chức, cá nhân) để tạo ra các sản phẩm vật chất, sản
phẩm dịch vụ có ích nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân hoặc xã
hội, đồng thời tiếp tục quá trình tái sản xuất của xã hội. Như vậy, hoạt động
sản xuất là hoạt động đầu tiên, khởi nguồn và đảm bảo cho chu kỳ tái sản xuất
diễn ra liên tục.

Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, sản xuất giữ vai trò quan
trọng nhất, khởi điểm của mọi hoạt động kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ
chức sử dụng các nguồn lực khác nhau để thoả mãn những nhu cầu khác nhau
của nền kinh tế thông qua việc tổ chức sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch
vụ. Mỗi doanh nghiệp đều có một hệ thống tổ chức gồm nhiều chức năng
khác nhau trong đó chức năng sản xuất là một trong những chức năng quan
trọng nhất. Nhờ có hoạt động sản xuất, dựa trên các quy trình khác nhau có sử
dụng những phương pháp, công nghệ khác nhau, doanh nghiệp đáp ứng các
nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ của nền kinh tế (bao gồm người tiêu dùng, tổ
chức, doanh nghiệp) đồng thời cũng tạo ra lợi nhuận cho chính các chủ thể
khi tham gia hoạt động kinh doanh.
Bản chất của hoạt động sản xuất là tạo ra giá trị cho các sản phẩm và dịch
vụ, đây cũng là nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp. Sản xuất cũng là hoạt
động đầu tiên trong quy trình tạo ra giá trị cho khách hàng. Như vậy, hoạt
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
3
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
động sản xuất là tiền đề đối với hoạt động lưu thông tiêu dùng trong xã hội và
tiêu dùng sản phẩm là mục tiêu của hoạt động sản xuất.
II - Kế hoạch sản xuất:
Kế hoạch từ lâu đã là một khái niệm quen thuộc trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp hay của nền kinh tế quốc dân. Vai trò của kế hoạch
có sự thay đổi theo những giai đoạn phát triển kinh tế nhưng không thể phủ
nhận vai trò quan trọng của nó trong quản lý kinh tế. Dưới đây, luận văn sẽ
khái quát về kế hoạch trong doanh nghiệp trước khi đi sâu vào nghiên cứu kế
hoạch sản xuất.
2.1 - Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp:
Kế hoạch được coi là một công cụ để thiết lập cũng như thực hiện các
quyết định kinh doanh. Một doanh nghiệp muốn tồn tại phải biết mình đang ở
đâu, có gì trong tay và muốn đi đến đâu. Vì vậy mà cần có một văn bản cụ

thể, chỉ rõ những ý đồ kinh doanh, những phương hướng mục tiêu cần đạt
được của doanh nghiệp, đó chính là kế hoạch kinh doanh. Có thể hiểu công
tác kế hoạch theo nhiều cách tiếp cận khác nhau: là một quá trình liên tục, kể
từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho tới lúc tổ chức thực hiện kế hoạch
nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp phát triển theo các mục tiêu đã xác
định; hay một cách hiểu khác: kế hoạch là một phương thức quản lý doanh
nghiệp theo mục tiêu, bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ
định của nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh của đơn vị nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Xét về mặt bản chất, một bản kế hoạch thể hiện ý đồ của chủ thể quản lý,
nhằm xác định mục tiêu, phương án, bước đi, trình tự và cách thức tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
4
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
2.1.1 - Vai trò của kế hoạch:
Kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ đơn thuần là những chỉ
tiêu pháp lệnh cứng nhắc, chỉ là sự phân phối theo các nhu cầu vật tư, lao
động và vốn của kế hoạch tổng thể, điều này không còn phù hợp với cơ chế
thị trường. Trong cơ chế mới, kế hoạch đã mang vai trò khác, không còn
mang tính pháp lệnh nữa mà mang tính định hướng phát triển, thuyết phục
gián tiếp, đưa doanh nghiệp theo đúng hướng đã định thông qua những bản kế
hoạch mang tính chủ động và gián tiếp.
Kế hoạch giúp cho doanh nghiệp phác thảo những ý tưởng và định hướng
các tiến triển của doanh nghiệp bằng cách chỉ ra những rủi ro có thể gặp phải
và những cơ hội có thể xảy ra. Các khung tổng quát do kế hoạch thiết lập là
công cụ trong chỉ đạo và điều hành sản xuất – kinh doanh, nó giúp khắc phục
những bất trắc trong sản xuất kinh doanh do sự thiếu hoặc méo mó thông tin
thị trường.
Kế hoạch làm bật những dữ kiện quan trọng, những yếu tố then chốt của

thành công phù hợp với môi trường hoạt động và thực trạng về các khả năng
và nguồn lực của doanh nghiệp. Từ đó định hướng sự quan tâm của doanh
nghiệp đúng hướng.
Kế hoạch giúp cho việc gắn kết các hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo
hiệu quả và tính phù hợp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tức là công
tác kế hoạch tạo ra khả năng tác nghiệp kinh tế trong doanh nghiệp. Kế hoạch
phối hợp hoạt động của các bộ phận chức năng khác nhau nhằm mục tiêu tối
thiểu chi phí, đem lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic
các nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau, từ đó sẽ giúp cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không bị rối loạn và ít tốn kém.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
5
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
2.1.2 - Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
* Về góc độ thời gian: Một doanh nghiệp có thể xây dựng một hệ thống kế
hoạch bao gồm:
- Kế hoạch dài hạn: cho 10 năm, thường nhấn mạnh về các ràng buộc tài
chính, căn cứ trên cơ sở ngoại suy từ quá khứ, để đưa ra nhữn dự báo trong
môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp đã có mặt.
- Kế hoạch trung hạn: thường đưa ra những định hướng ngắn hơn cho
doanh nghiệp, cụ thể cho kế hoạch dài hạn, thời gian từ 3 đến 5 năm.
- Kế hoạch ngắn hạn: Là những kế hoạch hàng năm, tiến độ, hành động có
thời gian dưới một năm, sử dụng cụ thể nguồn lực của doanh nghiệp để thực
hiện mục tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
* Về góc độ nội dung:
- Kế hoạch chiến lược: là những kế hoạch thể hiện những tầm nhìn xa về
vị thế của doanh nghiệp trong tương lai, chỉ ra những định hướng lớn cho
phép doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đề ra.
- Kế hoạch chiến thuật (tác nghiệp): là những kế hoạch cụ thể áp dụng cho

từng bộ phận trong doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của kế hoạch chiến
lược.
2.2 – Kế hoạch sản xuất trong quản lý sản xuất kinh doanh:
Như đã nói ở trên, hoạt động sản xuất là một trong những hoạt động quan
trọng nhất đối với doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp cần một công cụ
quản lý quá trình sản xuất kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì
vậy, doanh nghiệp đã tự xây dựng và sử dụng một hệ thống các kế hoạch tác
nghiệp được coi như những công cụ chỉ đạo điều hành hoạt động của doanh
nghiệp. Một trong những kế hoạch tác nghiệp quan trọng của doanh nghiệp là
kế hoạch sản xuất. Đây là một trong những nội dung quan trọng của hoạt
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
6
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
động quản lý sản xuất, nhằm tối ưu hoá việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn
có để sản xuất một hoặc nhiều sản phẩm đã định.
Kế hoạch sản xuất bao gồm:
- Nhu cầu về khối lượng sản phẩm sản xuất: kế hoạch sản xuất được điều
chỉnh một cách linh hoạt để thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh
doanh, đặc biệt là nhu cầu. Nhu cầu về sản phẩm chính là mục đích, là động
lực cho sản xuất. Vì vậy để lập được kế hoạch, người lập phải nắm được nhu
cầu về sản phẩm (số lượng, mẫu mã, kích thước ), từ đó mới phân bổ kế
hoạch sản xuất cho từng đơn vị sản xuất (nhà máy, xí nghiệp, dây chuyền ).
- Chỉ ra năng lực sản xuất (hay là nguồn lực có thể đáp ứng) của doanh
nghiệp. Để đảm bảo cho việc đáp ứng nhu cầu cho khách hàng và phân bổ sản
xuất hợp lý, người lập kế hoạch cần tính toán đến năng lực sản xuất của các
đơn vị sản xuất và của bản thân doanh nghiệp, tránh tình trạng quá tải cũng
như lãng phí năng lực của các đơn vị sản xuất.
- Chỉ ra tiến độ thực hiện. Một trong những vấn đề có liên quan đến sản
xuất giữ vai trò quan trọng trong đảm bảo uy tín của doanh nghiệp là đảm bảo
tiến độ giao hàng cho khách hàng. Bản kế hoạch sẽ chỉ ra tiến độ thực hiện

của từng khâu, từng bộ phận trong quá trình sản xuất, căn cứ vào đó doanh
nghiệp kiểm soát được quy trình sản xuất đồng thời, xác định phương án sản
xuất tối ưu để rút ngắn thời gian sản xuất, tăng vòng quay của chu kỳ sản
xuất.
Để xây dựng kế hoạch sản xuất cần dựa trên những căn cứ sau:
- Doanh số bán hàng: đây là căn cứ đầu tiên, quyết định đến kế hoạch sản
xuất vì thế công tác dự báo đòi hỏi phải chính xác. Xác định doanh số, bên
cạnh là nhân tố đầu tiên cho kế hoạch sản xuất, còn là căn cứ cho nhiều kế
hoạch tác nghiệp khác, hỗ trợ cho kế hoạch sản xuất.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
7
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: tính toán năng lực sản xuất, cân đối
giữa nhu cầu và năng lực của doanh nghiệp, phát huy tối đa mọi nguồn lực.
- Chiến lược mà doanh nghiệp lựa chọn: chiến lược chỉ ra định hướng phát
triển về lâu dài của công ty, là căn cứ để lựa chọn việc sản xuất theo những
hướng nào, kinh doanh loại sản phẩm nào, đảm bảo chất lượng ra sao, đáp
ứng nhu cầu của những khách hàng nào
- Đặc tính sản phẩm: mỗi sản phẩm có những đặc trưng riêng, mỗi đơn vị
sản xuất cũng có những đặc điểm riêng về công nghệ, trang thiết bị, từ đó có
những khả năng sản xuất khác nhau. Dựa vào đặc tính sản phẩm để xây dựng
kế hoạch cụ thể cho từng đơn vị sản xuất sao cho đảm bảo sự phù hợp giữa
khả năng sản xuất và đặc tính của sản phẩm.
Mục tiêu của kế hoạch kinh doanh hướng tới đáp ứng những đòi hỏi của thị
trường, nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh và quản lý có hiệu
quả các nguồn lực, đảm bảo theo đúng chiến lược mà doanh nghiệp đã xác
định. Nói vậy, kế hoạch không đơn giản chỉ là một văn bản, doanh nghiệp
phải xây dựng cho mình một hệ thống các kế hoạch tác nghiệp (hay là các kế
hoạch chức năng) để chỉ đạo và điều hành sản xuất kinh doanh. Hệ thống đó
bao gồm: kế hoạch marketing, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch

sản xuất và dự trữ và kế hoạch R&D. Các kế hoạch này có mối quan hệ chặt
chẽ, ràng buộc lẫn nhau và thống nhất trong quá trình xây dựng nhằm đảm
bảo sự phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Trong hệ thống đó, kế hoạch Marketing được đánh giá là kế hoạch khởi đầu
và trung tâm, tuy nhiên kế hoạch sản xuất cũng đóng góp một phần không
nhỏ vào việc xây dựng các kế hoạch khác.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
8
Kế hoạch
Marketing
Kế hoạch
sản xuất
Kế hoạch
nhân sự
Kế hoạch
Tài chính
Kế hoạch
R&D
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp

Nhu tính
Khả cầu Đặc dây chuyền
năng sx Đặc tính
cầu Nhu
Nhu cầu
ứng Khả
Đáp năng
Sơ đồ 1:Mô tả mối quan hệ giữa kế hoạch sản xuất
với các kế hoạch chức năng khác
- Kế hoạch sản xuất với kế hoạch marketing: dự báo doanh số bán hàng

nằm trong kế hoạch Marketing là một căn cứ quan trọng cho việc lập kế
hoạch sản xuất. Nếu như con số này dự báo không chính xác sẽ dẫn đến việc
lập kế hoạch sản xuất không sát với thực tế, khả năng sản xuất quá ít, không
đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc chỉ tiêu kế hoạch quá cao không thực
hiện được kế hoạch. Ngược lại, để tránh được tình trạng trên, kế hoạch sản
xuất chỉ ra năng lực sản xuất, khả năng sản xuất của mình để cân đối giữa nhu
cầu và khả năng thực hiện, đảm bảo cho bản kế hoạch có tính khả thi.
- Kế hoạch sản xuất với kế hoạch nhân sự: trong trường hợp tăng cường sản
xuất hoặc mở rộng quy mô, kế hoạch sản xuất sẽ đặt ra yêu cầu về nhân lực
nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và kế hoạch nhân sự sẽ thông báo khả năng
đáp ứng của mình để kế hoạch sản xuất điều chỉnh khả năng sản xuất.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
9
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
- Kế hoạch sản xuất với kế hoạch R&D: để có thể đáp ứng những nhu cầu
ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường, doanh nghiệp phải thường
xuyên đổi mới, thêm những đặc tính mới và lạ cũng như tính năng mới vào
sản phẩm. Điều này đặt ra yêu cầu với bộ phận R&D, tuy nhiên, mới và lạ
như thế nào cũng phải đảm bảo dây chuyền sản xuất có thể đáp ứng và có thể
thay đổi ở mức độ nhất định.
- Kế hoạch sản xuất và kế hoạch tài chính: nhu cầu mua sắm vật tư vào sản
xuất là không thể thiếu, tuy nhiên, tài chính không thể đáp ứng những yêu cầu
vô hạn của sản xuất, tài chính sẽ đặt ra mức giới hạn và kế hoạch sản xuất
phải phân bổ sao cho hợp lý và tiết kiệm.
2.3 - Sự cần thiết lập kế hoạch sản xuất:
Ngày nay, doanh nghiệp sử dụng nhiều hình thức tổ chức sản xuất để đảm
bảo sao cho hoạt động sản xuất có hiệu quả, sự quản lý thống nhất có kế
hoạch là điều tất yếu. Kế hoạch sản xuất là công cụ quản lý theo mục tiêu, qui
định cụ thể những nhiệm vụ về sản xuất sản phẩm, các công việc phù hợp với
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện để xây dựng và nâng cao chất lượng

quản lý và sản xuất. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho các bước hoạt động của
doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất liên tục, suôn sẻ,
có mục đích. Như vậy, lập kế hoạch sẽ là khâu đầu tiên, quan trọng nhất có
liên quan tới việc thiết lập các mục tiêu cần thiết cho sự phấn đấu của tập thể.
Tuy nhiên, cần phân biệt kế hoạch với chiến lược trong doanh nghiệp.
Chiến lược thể hiện tầm nhìn, định hướng tương lai của doanh nghiệp. Một
bản chiến lược cần có sự phân tích cụ thể điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp, đồng thời cũng dự báo những thời cơ và thách thức của thị trường để
từ đó xác định doanh nghiệp sẽ ở đi đến đâu, sẽ ở đâu, sẽ làm những gì để có
thể cạnh tranh với các đối thủ. Kế hoạch là sự cụ thể chiến lược. Kế hoạch sản
xuất chỉ rõ doanh nghiệp sẽ sản xuất những gì, như thế nào trong một giai
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
10
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
đoạn ngắn, trước mắt, nằm trong chiến lược, định hình cụ thể phương hướng
phát triển của doanh nghiệp.
Kế hoạch sản xuất là căn cứ để xây dựng các kế hoạch vật tư, tài chính…
Việc xây dựng hệ thống kế hoạch tác nghiệp trong doanh nghiệp đòi hỏi phải
có sự thống nhất và phối hợp với nhau có hiệu quả, từ đó doanh nghiệp mới
có thể phát huy các mặt mạnh trong quản lý, phát hiện ra khả năng tiềm tàng
và tận dụng triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp cho sản xuất. Kế hoạch
luôn hướng tới việc cực tiểu hoá chi phí vì nó tập trung vào việc giảm thiểu
chi phí, sao cho hoạt động có hiệu quả và đảm bảo tính phù hợp.
Bên cạnh đó, kế hoạch sản xuất được xây dựng ngoài nội dung cơ bản là
hướng cho mọi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có mục đích, phối hợp
với nhau một cách ăn ý, còn là công cụ để kiểm soát tiến độ thực hiện. Căn cứ
vào việc thực hiện trên thực tế và so với kế hoạch, doanh nghiệp có thể biết
mình có thể đạt được mục tiêu đưa ra hay không, cần đưa ra những giải pháp
gì để đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu và hoàn thành vượt mức
kế hoạch đã định.

Với sự cần thiết đó, kế hoạch sản xuất ngày càng khẳng định vai trò của
mình đối với sản xuất cũng như quản lý trong mỗi doanh nghiệp ngày nay.
III - Nội dung cơ bản của kế hoạch sản xuất
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
11
Năng lực
sản xuất:
tồn kho,
khả năng
cung ứng
Marketing
mục tiêu,
nhu cầu
sản xuất
Tài chính:
luồng tiền,
khả năng
đáp ứng
Nhân sự:
cung ứng
lao động
về số và
chất lượng
Kế hoạch sản
xuất tổng thể
Kế hoạch chỉ
đạo sản xuất
Kế hoạch nhu
cầu vật liệu và
công suất

Thực hiện kế hoạch và điều chỉnh
Kế hoạch tiến độ
sản xuất
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Một bản kế hoạch sản xuất được cần được xây dựng và triển khai sao cho
đạt hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Nội dung của bản kế hoạch phải đảm bảo sát
với thực tế, muốn vậy, phải có một quy trình hợp lý để xây dựng nên bản kế
hoạch đó.
3.1 – Quy trình lập kế hoạch sản xuất:
Sơ đồ 2: Quy trình kế hoạch hoá sản xuất
Các bước trong quy trình lập kế hoạch sản xuất:
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
12
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Bước 1: Xuất phát từ các ràng buộc về năng lực sản xuất, khả năng lưu kho,
cung ứng vật liệu, luồng tiền, nhân sự, doanh nghiệp phải xác định các căn cứ
nhất định để lập kế hoạch sản xuất. Cụ thể là một số căn cứ quan trọng sau:
- Chiến lược kinh doanh trong dài hạn.
- Phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trong năm trước, kỳ trước.
- Đơn đặt hàng hoặc hợp đồng đã ký được.
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp để cân đối cung cầu.
Bước 2: Doanh nghiệp đưa ra các chỉ tiêu sản xuất của kế hoạch sản xuất
chung và kế hoạch bộ phận dựa vào các căn cứ đã xác định. Bao gồm các chỉ
tiêu sau:
- Danh mục mặt hàng sản phẩm sẽ sản xuất.
- Khối lượng sản xuất của mỗi sản phẩm.
- Tiến độ sản xuất kĩ thuật.
Để xác định được các chỉ tiêu cần thiết, dựa vào các căn cứ đã nêu ở trên
cùng với các mối ràng buộc, khi lập kế hoạch sản xuất doanh nghiệp sẽ chia
thành các kế hoạch bộ phận của kế hoạch sản xuất, để từng bước xác định các

chỉ tiêu sản xuất cho kì kế hoạch. Một kế hoạch sản xuất chung sẽ bao gồm
các kế hoạch bộ phận như sau: kế hoạch năng lực sản xuất, kế hoạch chỉ đạo
sản xuất, kế hoạch nhu cầu sản xuất, kế hoạch nhu cầu vật liệu, kế hoạch nhu
cầu công suất.
3.2 – Các nội dung cơ bản của một kế hoạch sản xuất:
Một kế hoạch sản xuất được coi là hoàn chỉnh khi nó là tập hợp của các kế
hoạch có liên quan chặt chẽ tới nhau, tác động qua lại và phụ thuộc nhau.
Thông thường, một kế hoạch sản xuất sẽ bao gồm các kế hoạch: kế hoạch
năng lực sản xuất, kế hoạch tổng thể, kế hoạch chỉ đạo sản xuất, kế hoạch nhu
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
13
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
cầu sản xuất và kế hoạch tiến độ. Dưới đây, luận văn sẽ trình bày nội dung cụ
thể của từng bộ phận trong kế hoạch sản xuất.
3.2.1 - Kế hoạch năng lực sản xuất:
Xác định năng lực sản xuất là một phần không thể thiếu trong quy trình lập
kế hoạch sản xuất. Ngày nay, các doanh nghiệp để có thể theo kịp với sự phát
triển của thị trường, thường xuyên đổi mới trang thiết bị, máy móc sao cho có
thể đáp ứng nhu cầu sản phẩm càng cao của thị trường. Chính vì vậy mà năng
lực sản xuất của doanh nghiệp cũng thường xuyên thay đổi, cần phải có kế
hoạch xác định năng lực sản xuất để có cơ sở xác định các chỉ tiêu sản xuất,
tiến độ sản xuất. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau trong đó quan trọng nhất là: công suất của máy móc thiết bị và
mức độ sử dụng máy móc, thiết bị trong những điều kiện khác nhau.
3.2.1.1 - Công suất và năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất là khả năng sản xuất của máy móc thiết bị, dây chuyền,
của lực lượng lao động trong một thời kì nhất định. Vì thế nó là một đại lượng
thường xuyên thay đổi theo nhu cầu mua sắm trang thiết bị hoặc hiện đại hoá
quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Nó không phải là năng suất vì năng suất
chỉ phản ánh khả năng sản xuất trong thời gian ngắn như giờ, ca, ngày…

Công suất là khả năng sản xuất của máy móc thiết bị, dây chuyền công
nghệ của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định ví dụ như số lượng sản
phẩm đầu ra của sản xuất trong một đơn vị thời gian. Có nhiều loại hình công
suất khác nhau:
- Công suất thiết kế là khả năng sản xuất của máy móc thiết bị theo thiết kế
trong một thời gian nhất định. Do nhiều điều kiện khách quan bên ngoài nên
máy móc thiết bị khi đi vào hoạt động thực tế thì thường không đạt được mức
công suất thiết kế. Trên thực tế, máy móc có thể chạy với công suất được gọi
là công suất thiết kế.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
14
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
- Công suất hiệu quả là tổng khối lượng sản phẩm đầu ra mà doanh gnhiệp
mong muốn đạt được trong những điều kiện cụ thể về cơ cấu sản phẩm, về
khả năng điều động sản xuất, bảo trì duy tu máy móc thiết bị và huy động các
yếu tố saả xuất (nguồn lực) trong 1 đơn vị thời gian nhất định.
- Công suất thực tế hay gọi cách khác là năng lực sản xuất của máy móc,
thiết bị, của công đoạn sản xuất hay của bộ phận, của một phân xưởng hay của
một doanh nghiệp là khả năng tối đa về sản xuất sản phẩm trong những điều
kiện hiện tại trong 1 thời gian nhất định, đo bằng tấn, cái, mét, lít…
Để đánh giá mức độ sử dụng công suất, sử dụng 2 tiêu chí:
Hiệu suất sử dụng công suất =
Công suất thực tế
Công suất thiết kế
Hiệu quả sử dụng công suất =
Công suất thực tế
Công suất hiệu quả
Để hoạch định công suất chính xác, cần xem xét những nhân tố ảnh hưởng
tới công suất như: trình độ công nghệ máy móc; khả năng cung ứng các nhân
tố sản xuất có kịp thời về vốn, lao động, nguyên vật liệu; về nhu cầu của khác

hàng và điều kiện địa bàn đang hoạt động. Việc hoạch định công suất có ý
nghĩa quan trong việc tính toán khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
đồng thời xem xét hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.1.2 - Dự báo nhu cầu sử dụng công suất.
Dự báo nhu cầu sử dụng công suất dựa trên con số dự báo về nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm trong tương lai. Việc dự báo công suất phải dựa trên công suất
của bộ phận chủ đạo, sau đó xác định việc thừa hay thiếu của các bộ phận
khác. Dựa vào đó tìm ra các biện pháp để có thể nâng cao năng lực sản xuất
của các khâu yếu đảm bảo đáp ứng nhu cầu sử dụng công suất đã được dự báo
dựa trên công suất của bộ phận chủ đạo.
3.2.1.3 - Phương pháp xác định năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
15
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Phương pháp xác định cho doanh nghiệp chỉ sản xuất 1 loại sản phẩm
(tính theo năng lực phân xưởng chủ đạo hoặc công đoạn chủ đạo): Khi đó
năng lực sản xuất của bộ phận hoặc phân xưởng sẽ được tính theo công thức:
N = S x N
h
x T
k
Trong đó: N - năng lực sản xuất của công đoạn hay phân xưởng.
S - số máy hay thiết bị chính của phân xưởng hay công đoạn.
N
h
- định mức theo giờ của máy hay thiết bị chính.
T
k
- thời gian hoạt động của máy móc, thiết bị trong năm.
Công thức tính cho công đoạn hay phân xưởng có nhiều máy móc, thiết bị

như sau:
N =

=
n
i 1
S
i
x N
hi

x T
ki
Trong đó: n là số chủng loại máy móc thiết bị khác nhau trong bộ phận.
Đối với doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm trên các dây chuyền
khác nhau: ở trường hợp này ta có thể tính theo từng mặt hàng, sản phẩm,
hoặc có thể sử dụng phương pháp tính năng lực sản xuất của một đơn vị máy
móc, thiết bị. Khi đó năng lực sản xuất của một đơn vị máy móc hay thiết bị
(N
TB
) được tính toán theo công thức đơn giản sau:
N
TB
= N
h
x T
k
Phương pháp này được tiến hành theo các bước chủ yếu sau:
- Thu thập số liệu thống kê về năng suất giờ N
i

(hoặc năng suất ca máy nếu
không có số liệu thực tế về năng suất giờ máy) từ 1 đến 3 tháng sản xuất ổn
định, đối với những máy móc chính, chủ yếu.
- Từ những số liệu đã thu thập được, ta đi tính năng lực bình quân lần thứ nhất
theo công thức:
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
16
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
N
bq1
=
n
Ni
n
i

=
1
Trong đó: N
i
là năng suất ca theo số liệu thống kê.
n: là tổng số số liệu thống kê thu thập được
- Từ dãy số liệu thu thập ở bước đầu tiên, chọn ra những số liệu thoả mãn điều
kiện : N
i
≥ N
bq1
, sau đó tính được N
bq2
theo công thức sau:

N
bq2
=
k
Ni
k
i

=
1
Trong đó: k là số các số liệu thoả mãn điều kiện ở trên.
N
bq2
chính là mức năng suất ca máy trung bình tiên tiến, và năng lực sản
xuất của máy móc thiết bị sẽ bằng với năng suất giờ trung bình tiên tiến là
N
bq2
(sản phẩm/giờ). Từ đó xác định năng suất hiện có hay năng lực thực tế
của doanh nghiệp (N
hc
).
3.2.1.4 - Cân đối năng lực sản xuất:
Khi xác định năng lực sản xuất của doanh nghiệp, người ta thường xem xét
năng lực của từng phân xưởng, hay từng bộ phận trên dây chuyền rồi so sánh
với nhau để phát hiện ra khâu yếu trên dây chuyền và xác định năng lực thừa
thiếu so với kế hoạch. Việc cân đối năng lực này sẽ đảm bảo kế hoạch sản
xuất mang tính khả thi. Tính năng lực của các bộ phận hoặc phân xưởng trên
dây chuyền theo bán thành phẩm.Vẽ sơ đồ so sánh năng lực sản xuất của các
bộ phận so với bộ phận chủ đạo hoặc so với kế hoạch sản xuất.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A

17
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Sơ đồ 3: So sánh năng lực của các bộ phận với bộ phận chủ đạo và so
với kế hoạch sản xuất.
%NL/CĐ Năng lực lý thuyết của doanh nghiệp

Năng lực thực tế của doanh nghiệp
1 2 3 Kế hoạch sản xuất

Bộ phận
Xác định năng lực cần thiết của các bộ phận theo kế hoạch sản xuất:
N
Cti
= KHSX x a
is
Trong đó: N
Cti
– năng lực cần thiết của bộ phận i.
a
is
- hệ số tiêu hao bán thành phẩm i cho một đơn vị sản
phẩm cuối cùng s.
Sau khi tính được năng lực cần thiết của từng bộ phận, ta lập bảng cân đối
năng lực thừa thiếu so với kế hoạch sản xuất hoặc so với bộ phận chủ đạo.
Bảng số 1: Mẫu bảng cân đối năng lực thiếu, thừa
Phân xưởng
Năng lực sản xuất
1 2 3 4
Năng lực hiện có (Nhc)
Năng lực cần thiết (NCti)

Năng lực thiếu (-) hay thừa (+)
Sau khi biết được năng lực thừa hay thiếu là bao nhiêu, tiếp đó là xác định
các phương án, biện pháp nâng cao năng lực của khâu yếu hoặc tận dụng năng
lực dư thừa của các bộ phận chủ đạo.
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
18
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Sau khi đã xác định được năng sản xuất của máy móc thiết bị một cách
chính xác thì doanh nghiệp có thể lấy đó làm một căn cứ quan trọng để xác
định qui mô sản xuất của cả thời kỳ kế hoạch.
3.2.2 - Kế hoạch sản xuất tổng thể:
Nội dung cơ bản của kế hoạch sản xuất tổng thể là xác định khối lượng và
thời gian sản xuất cho tương lại gần, thường là trong vòng 3 đến 18 tháng.
Mục tiêu chủ yếu của kế hoạch sản xuất tổng thể là nhằm giảm thiểu chi phí
trong kì kế hoạch. Tuy nhiên, đa phần các doanh nghiệp sản xuất chỉ coi kế
hoạch tổng thể là căn cứ để xác định các chính sách sản xuất, mua sắm, cung
ứng vật tư…
Sơ đồ 4: Các mối quan hệ với kế hoạch sản xuất tổng thể
Để lập kế hoạch sản xuất tổng thể, doanh nghiệp thường sử dụng phương
pháp đồ thị. Đây là phương pháp không tính đến tất cả các biến số trên thị
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
Nghiên cứu
thị trường
Dự báo bán
hàng và yêu
cầu đặt hàng
KH tiến bộ
KH chỉ đạo sản xuất
KH sản xuất tổng thể
Hoạch định

công suất
Quyết định sản
phẩm
Bán thành phẩm,
NVL, tồn kho
Nhân lực
R&D
Thuê gia công
19
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
trường, so sánh được năng lực sản xuất với mức độ sản xuất cần thiết theo nhu
cầu công suất dự báo. Phương pháp này được tiến hành theo các bước sau:
- Dự báo nhu cầu đối với sản phẩm cần sản xuất trong kì kế hoạch.
- Xác định các công suất giờ chuẩn, chi phí giờ phụ trội
- Xác định chi phí nguyên vật liệu, nhân công, thuê ngoài và chi phí lưu kho
- Đưa ra các chính sách về dự trữ thành phẩm, bán thành phẩm
- Đưa ra các phương án về chi phí và lựa chọn phương án sản xuất.
Mức sản xuất trung bình sẽ được xác định theo công thức:
NC
bq
=
T
NC
DB
Trong đó: NC
bq
- Mức sản xuất bình quân (theo ngày).
NC
DB
- Tổng nhu cầu dự báo sản xuất (cho cả năm sản xuất).

T - Thời gian sản xuất (số ngày làm việc trong năm).
Sơ đồ 5: Xác định mức sản xuất bằng phương pháp đồ thị.
NC
sx/ngày
NC
bq
0
Một Hai Ba Bốn Năm Sáu = Tháng
22 18 21 21 22 20 = Ngày sản xuất
Sử dụng phương pháp đồ thị, doanh nghiệp sẽ có một đồ thị nhu cầu bình
quân ngày, mức sản xuất bình quân được thể hiện bằng đường nét đứt. Nhận
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
20
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
thấy rằng giữa nhu cầu dự báo và mức sản xuất trung bình có sự chênh lệch,
và tuỳ theo chính sách sản xuất mà doanh nghiệp có thể lựa chọn:
- Sản xuất với qui mô trung bình để thoả mãn nhu cầu
- Sản xuất ở mức sản lượng dự kiến thấp nhất, phần còn lại thuê ngoài.
- Sản xuất theo nhu cầu của từng tháng, dựa vào mức chi phí để tăng cũng
như giảm quy mô sản xuất.
Với 3 sự lựa chọn này, người lập kế hoạch phải tính toán tổng chi phí cho
từng phương án, cuối cùng sẽ lựa chọn phương án sản xuất có chi phí thấp
nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải doanh nghiệp sản xuất nào cũng có thể
sản xuất theo phương án có chi phí thấp nhất.
Với những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có giá trị lớn, cồng kềnh, khối
lượng lớn trên một dây chuyền sản xuất liên tục như: xi măng, sắt thép… thì
doanh nghiệp không thể chọn cách chỉ sản xuất ở mức thấp nhất còn lại thuê
ngoài sản xuất. Bởi vì, khi đó doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi ro sản
phẩm chất lượng kém do không kiểm soát được, từ đó khiến doanh nghiệp có

thể bị mất uy tín trên thị trường thậm chí có thể bị lỗ.
Với các doanh nghiệp có đội ngũ lao động dồi dào, ổn định thì không thể
chọn giải pháp sản xuất theo nhu cầu từng tháng được. Với các doanh nghiệp
như trên thì cách tốt nhất là sản xuất theo nhu cầu bình quân của mỗi thời kỳ.
Sau khi đã so sánh các phương án trong những điều kiện sản xuất nhất định,
doanh nghiệp sẽ chọn một phương án sản xuất tối ưu nhất, phù hợp nhất để
đưa vào kế hoạch sản xuất tổng thể.
3.2.3 - Kế hoạch chỉ đạo sản xuất
Kế hoạch chỉ đạo sản xuất là bước trung gian giữa kế hoạch sản xuất tổng
thể và kế hoạch nhu cầu sản xuất. Trong đó, cho biết loại sản phẩm nào sản
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
21
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
xuất dứt điểm trong từng tháng, từng quý, loại sản phẩm nào sản xuất đều
trong các tháng hoặc quý theo nhu cầu thị trường, theo tính chất tiêu dùng
mùa vụ hoặc đơn hàng. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất không phải là sự chia nhỏ
kế hoạch sản xuất tổng thể mà là sự thể hiện kế hoạch tổng thể theo những
chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng, cụ thể và thích hợp với khả năng sản
xuất của các đơn vị nhằm thoả mãn tốt nhất các dự báo kế hoạch.
Bảng 2: Mẫu bảng kế hoạch chỉ đạo sản xuất
ST
T
SP
KH
năm
Quí I Quí II Quí III Quí IV
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
1 A 3000 25
0
25

0
25
0
27
0
27
0
27
0
27
0
27
0
27
0
30
0
30
0
300
2 B 800 20
0
20
0
20
0
20
0
3 C 300 10
0

10
0
10
0
4 D 15 7 8
5 E 10 8 2
3.2.4 - Kế hoạch nhu cầu sản xuất
Sau khi đã có kế hoạch sản xuất, doanh nghiệp phải dự tính nhu cầu về các
chi tiết bán thành phẩm, nguyên vật liệu…và các năng lực cần thiết cho việc
thực hiện kế hoạch chỉ đạo sản xuất. Doanh nghiệp phải xác định được các
nhu cầu phụ thuộc và nhu cầu độc lập. Nhu cầu độc lập là nhu cầu về thành
phẩm và các chi tiết, phụ tùng thay thế nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Nhu cầu phụ thuộc là những nhu cầu phát sinh từ nhu cầu độc lập. Việc tính
toán nhu cầu phụ thuộc sẽ xác định chính xác thời gian và số lượng cần thiết
cho việc sản xuất hoặc đặt hàng những yếu tố này. Việc tính toán các yếu tố
này dựa trên mức dự áo bán hàng, kế hoạch chỉ đạo sản xuất, mức tồn kho,
quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm cùng với kết cấu sản phẩm…
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
22
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
Phương pháp tính toán nhu cầu sản xuất dựa theo định mức (sử dụng để
tính toán nhu cầu phụ thuộc):
Sản xuất sản phẩm: A, B, C.
Các sản phẩm được tạo thành từ các bộ phận: trước hết doanh nghiệp phải
xác định các nhu cầu cấp 1 (bộ phận E
i
), nhu cầu cấp 2 (linh kiện F
i
), nhu cầu
cấp 3 (linh kiện rời D

i
)…
Để phục vụ cho việc tính toán, định mức sử dụng các nhu cầu cấp 1, cấp 2,
cấp 3 được tổng hợp theo kiểu một ma trận. Trình tự lắp ráp sản phẩm (A, B,
C) từ các bộ phận (E
i
), các cụm linh kiện (F
i
) và các linh kiện rời (D
i
) được thể
hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 6: Trình tự lắp ráp sản phẩm


Doanh nghiệp sẽ lập kế hoạch sản xuất theo đơn đặt hàng của từng tháng,
và các đơn đặt hàng cũng được thể hiện dưới dạng ma trận.
Để đáp ứng đúng thời gian mà các đơn đặt hàng yêu cầu, ta cần xác định
thời gian cần thiết để lắp ráp sản phẩm từ nhu cầu cấp 1, lắp ráp nhu cầu cấp 1
từ nhu cầu cấp 2, lắp ráp nhu cầu cấp 2 từ nhu cầu cấp 3… Ở đây, ví dụ các
thời gian cần thiết đó theo thứ tự sẽ là: 1 tuần, 1 tuần và 3 tuần.
Khi đó, nhu cầu cấp 1 sẽ được phải có đủ trước thời gian đặt hàng sản phẩm
là 1 tuần. Nhu cầu cấp 2 phải được chuẩn bị trước so với nhu cầu cấp 1 là 1
tuần, nhu cầu cấp 3 phải được chuẩn bị trước so với nhu cầu cấp 2 là 3 tuần.
Nhu cầu các cấp được tính toán theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 7: Nhu cầu sản xuất
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
23
Các bộ phận
( D

i
)
[4]
Sản phẩm
(A, B, C )
[1]
Linh kiện rời
[ E
i
]
[2]
Cụm linh
kiện [F
i
]
[3]
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
3.2.5 - Kế hoạch tiến độ sản xuất
Kế hoạch tiến độ sản xuất trợ giúp doanh nghiệp trong việc phân phối và
theo dõi thời gian của từng bước công việc, thứ tự của các bước công việc để
thực hiện được mục tiêu của kế hoạch sản xuất.
Phương pháp phân phối nhiệm vụ cho các phân xưởng: Sau khi lập kế
hoạch sản xuất, doanh nghiệp tiến hành phân phối nhiệm vụ kế hoạch cho các
phân xưởng bằng cách phân phối theo trình tự ngược chiều qui trình công
nghệ, phân phối từ phân xưởng cuối cùng tính ngược trở lại bằng cách lấy chỉ
tiêu sản xuất của phân xưởng cuối cùng nhân với hệ số tiêu hao bộ phận hoặc
toàn bộ của phân xưởng tiếp theo tính ngược từ dưới lên.
Ngoài cách này ra người ta có áp dụng mô hình toán học để phân phối
nhiệm vụ cho các phân xưởng trong trường hợp doanh nghiệp có sơ đồ khối
dây chuyền công nghệ phức tạp, giữa các dây chuyền có nhiều mối quan hệ

chuyển giao bán thành phẩm nội bộ, sản xuất nhiều mặt hàng.
Phương pháp phân phối kế hoạch sản xuất theo thời gian. Các căn cứ để
tiến hành theo phương pháp này đó là: đơn đặt hàng, nhu cầu thị trường mang
tính mùa vụ, năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đối với những hàng tiêu dùng theo mùa vụ, kế hoạch sản xuất sẽ gắn liền
với kế hoạch tiêu thụ trong khoảng thời gian nhất định với nguyên tắc là
không sản xuất quá sớm, sẽ bị hỏng hoặc bị chiếm dụng vốn dài ngày, sản
xuất quá muộn, không bán hết hàng đúng dịp dẫn đến tồn đọng hàng. Vì vậy,
doanh nghiệp thường sản xuất dứt điểm trong một tháng hay một quí mà
không rải đều trong tất cả các tháng hay các quí. Đối với những mặt hàng như
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
24
Nhu cầu sản xuất
trong tháng
(A,B,C)
[1]
Nhu cầu cấp 1
[5]
[5] = [1]x [2]
Nhu cầu cấp 2
[6]
[6] = [3]x [5]
Nhu cầu cấp 3
[7]
[7] = [4]x [6]
Khoa Kế hoạch và Phát triển Luận văn tốt nghiệp
thế này cần chú ý tới thời gian sản xuất để tung hàng đúng mùa vụ, hạn chế
thời gian trong kho để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Với những mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng trong cả năm và doanh nghiệp
thuộc loại hình sản xuất hàng khối thì sẽ phân phối sản xuất trong cả 4 quý và

sản xuất liên tục, mặc dù quá trình sản xuất này còn phụ thuộc vào kế hoạch
tăng năng lực sản xuất hoặc sửa chữa lớn hay do tính chất không ổn định của
thị trường.
Phương pháp sơ đồ mạng PERT: xây dựng và thực hiện kế hoạch theo
thời gian hoàn thiện các hoạt động. Các hoạt động này được coi là các mốc
quan trọng trong cả một quy trình được thực hiện liên tục. Sơ đồ mạng PERT
là một mạng hoạt động rút ra từ việc xây dựng các mỗi quan hệ theo trình tự
bắt đầu và kết thúc tất cả các hoạt động cần thực hiện theo một trình tự logic
nhất định.
Để xây dựng được một sơ đồ mạng các hoạt động cần nắm được các
nguyên tắc như xác định rõ các sự kiện và hoạt động, chỉ rõ mỗi liên hệ giữa
các hoạt động, chỉ rõ thời gian trùng, xác định hoạt động chính và hoạt động
giả, xác định thời gian quan trọng nhất. Bên cạnh nhận dạng các hoạt động
cần thực hiện, sơ đồ còn cho biết số ngày cần phải hoàn thành một hoạt động
hay tất cả các hoạt động. Dựa vào đó, ta có thể xác định thời gian tối thiểu để
hoàn thành các hoạt động (dựa trên các đường găng) đồng thời cũng các định
được những hoạt động nào là hoạt động chính, không thể thay đổi thời gian
thực hiện (các hoạt động găng).
Lợi thế của sơ đồ mạng PERT so với các biểu đồ khác là đưa ra được sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các hoạt động. Dựa trên sơ đồ mạng, có thể tính toán
việc cắt giảm thời gian hoặc chi phí cho các hoạt động trở nên dễ dàng hơn,
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phối hợp và lập kế hoạch, tiết kiệm thời
gian nhàn rỗi (hoạt động có thời gian trùng).
Hoàng Thị Minh Hà – Kế Hoạch 45A
25

×