Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai của tòa án nhân dân qua thực tiễn huyện hoằng hóa, thanh hóa luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.66 KB, 115 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT



Lấ TH NGC T


GIảI QUYếT KHIếU KIệN HàNH CHíNH
TRONG LĩNH VựC ĐấT ĐAI CủA TòA áN NHÂN DÂN -
QUA THựC TIễN HUYệN HOằNG HóA, THANH HóA





LUN VN THC S LUT HC







H NI - 2014


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




Lấ TH NGC T


GIảI QUYếT KHIếU KIệN HàNH CHíNH
TRONG LĩNH VựC ĐấT ĐAI CủA TòA áN NHÂN DÂN -
QUA THựC TIễN HUYệN HOằNG HóA, THANH HóA


Chuyờn ngnh: Lớ lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01


LUN VN THC S LUT HC


Cỏn b hng dn khoa hc: GS. TSKH. O TR C




H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Lê Thị Ngọc Tú





MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC ĐẤT ĐAI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM 9
1.1. Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nói chung,
khiếu kiện hành chính trong quản lý đất đai tại tòa án nhân dân
cấp huyện nói riêng là một tất yếu 9

1.2. Khái quát quá trình phát triển pháp luật về tố tụng hành chính
Việt Nam 13
1.3. Khái niệm liên quan đến vấn đề giải quyết khiếu kiện hành chính
trong lĩnh vực đất đai tại tòa án nhân dân ở Việt Nam 19
1.3.1. Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai 19
1.3.2. Khái niệm vụ án hành chính và vụ án hành chính trong lĩnh vực
đất đai 26
1.4. Nội dung về vấn đề giải quyết khiếu kiện hành chính liên quan
đến đất đai tại tòa án nhân dân nói chung, tòa án nhân dân cấp
huyện nói riêng 36
1.4.1. Đặc điểm của tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai 36
1.4.2. Quy định của luật tố tụng trong giải quyết vụ án hành chính về
quản lý đất đai tại Tòa án nhân dân nói chung, tòa án nhân dân
cấp huyện nói riêng 38
Kết luận chương 1 46
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI Ở TÒA ÁN NHÂN
DÂN - QUA THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
HOẰNG HÓA 48
2.1. Thực trạng khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai ở tòa án
nhân dân 48
2.1.1. Tình hình khiếu kiện hành chính về đất đai tại Tòa án nhân dân
nói chung, tại Tòa án cấp huyện nói riêng 48
2.1.2. Nguyên nhân phát sinh các khiếu kiện hành chính về đất đai 50
2.1.3. Thực trạng giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến lĩnh
vực đất đai tại Tòa án cấp huyện 53
2.2. Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính tại tòa án nhân dân huyện
Hoằng Hóa 77
2.2.1. Giới thiệu chung 77
2.2.2. Tình hình giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai tại

Tòa án Hoằng Hóa và tồn tại hạn chế 78
Kết luận chương 2 91

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN 93
3.1. Những vướng mắc tồn tại trong giải quyết khiếu kiện hành chính
về đất đai 93
3.2. Nguyên nhân 98
3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong giải quyết khiếu kiện
hành chính về đất đai tại toà án nhân dân nói chung, tại toà án
nhân dân cấp huyện nói riêng 99
Kết luận chương 3 103
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CNQSD: Chứng nhận quyền sử dụng.
KNTC: Khiếu nại tố cáo
ND: Nhân dân
PT-TH: Phát thanh - truyền hình
QSD: Quyền sử dụng
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TP: Thành phố
TTGQVAHC: Thủ tục giải quyết vụ án hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai đang có xu
hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất phức tạp và phản ứng bức xúc của
người dân. Tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai có những đặc điểm
cơ bản: Thứ nhất là về chủ thể của các tranh chấp hành chính nói chung, tranh
chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai nói riêng là chủ thể của quá trình quản
lý, sử dụng đất và luôn có sự bất bình đẳng về ý chí, tức một bên chủ thể luôn
là cơ quan hành chính nhà nước, và một bên còn lại là các tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình. Từ đặc điểm này dẫn đến việc giải quyết khiếu kiện hành chính
trong lĩnh vực đất đai luôn là một vấn đề khá phức tạp ở nhiều phương diện,
khía cạnh. Vì thế đặt ra vấn đề làm sao giải quyết loại khiếu kiện này để bảo
đảm tính khách quan, chính xác, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của một
bên chủ thể vốn luôn được cho là ở vào vị thế yếu hơn so với bên là cơ quan
nhà nước.
Hai là, đối tượng của tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai là
các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước có liên quan đến quyền quản lý,
sử dụng và những lợi ích khác phát sinh từ quá trình khai thác, sử dụng đất,
những hệ quả về mặt kinh tế như đền bù, bồi thường thiệt hại liên quan đến
đất đai… Hay nói cách khác, các quyết định hành chính, hành vi hành chính
là đối tượng của loại tranh chấp này đều liên quan đến một loại tài sản đặc
biệt, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất hàng ngày của người dân và
thường có giá trị lớn hoặc rất lớn. Đây chính là một trong những đặc điểm
khiến cho những tranh chấp hành chính về đất đai thường phức tạp, gay gắt
hơn các dạng tranh chấp hành chính khác.


2
Ba là, tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai luôn gắn liền với
quá trình quản lý và sử dụng đất cho nên khi tranh chấp xảy ra sẽ gây ảnh
hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trước tiên, nó tác động
lớn đến tâm lý, tinh thần của không chỉ đối với người trực tiếp tham gia vào
tranh chấp mà còn có thể gây nên tình trạng căng thẳng, mất đoàn kết, mất ổn
định trật tự xã hội, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước. Do đó khi giải quyết các loại
tranh chấp hành chính này cần phải đặc biệt thận trọng, để ngoài việc đảm bảo
quyền, lợi ích của người dân, của Nhà nước còn phải góp phần ổn định lòng
người, ổn định trật tự an ninh, xã hội củng cố lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước.
Việc khởi kiện tranh chấp hành chính ra Tòa án nhân dân để được giải
quyết bắt đầu chính thức được pháp luật ghi nhận tại Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1995 và Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Theo pháp lệnh này, có 08 loại
tranh chấp (khiếu kiện) được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính và
một trong tám loại tranh chấp đó là về đất đai. Qua những lần sửa đổi, bổ
sung Pháp lệnh năm 1998, 2006 và cho đến nay khi ban hành Luật tố tụng
hành chính năm 2010, thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong lĩnh vực này
liên tục được bổ sung, mở rộng, trong đó, tranh chấp hành chính về đất đai
vẫn tiếp tục được quy định là một trong các loại việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
Đặt ra việc nghiên cứu về vấn đề giải quyết khiếu kiện hành chính
trong lĩnh vực đất đai tại tòa án nhân dân là một đề tài khá mới mẻ, có đối
tượng và phạm vi nghiên cứu rộng. Vì vậy trong phạm vi của luận văn, tác giả
chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu chủ yếu việc giải quyết khiếu kiện hành chính
trong lĩnh vực đất đai tại tòa án nhân dân cấp huyện, đồng thời lấy ví dụ thực
tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa.


3
Trên địa bàn huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa trong những năm gần
đây, do thực hiện nhiều chính sách phát triển kinh tế, xã hội nên đã phát triển
nhiều dự án. Theo đó phát sinh vấn đề về thu hồi đất, di dời, bồi thường, hỗ trợ
tái định cư, cấp đất tái định cư…, đồng thời đẩy mạnh công tác cấp giấy chứng
nhận QSD đất cho những hộ dân đủ điều kiện. Vì vậy cũng nảy sinh các tranh
chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên người cho rằng mình bị vi
phạm về quyền lợi thường chọn con đường giải quyết là khiếu nại lên cơ quan
quản lý mà ít khi chọn giải quyết bằng con đường tố tụng tại Tòa án.
Trong những năm qua, số vụ việc tranh chấp hành chính trong lĩnh vực
đất đai được thụ lý và giải quyết tại Tòa án nhân dân cấp huyện nói chung, tại
Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa nói riêng còn chưa nhiều,
hiệu quả xét xử còn hạn chế, giải quyết của Tòa án chưa thực sự tạo lập được
uy tín cao trong xã hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể có nhiều,
từ những bất cập của chính sách, pháp luật về đất đai; sai sót, vi phạm trong
việc ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính; cho đến
sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức pháp luật của người dân và có lẽ còn có cả
những bất cập hạn chế của mô hình tổng thể giải quyết tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
Tình trạng trên đặt ra vấn đề: giải quyết tranh chấp hành chính trong
lĩnh vực đất đai tại Tòa án ND, cụ thể là TAND cấp huyện cần phải đáp ứng
những yêu cầu gì? Cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất
đai hiện nay có phù hợp? Nếu có điểm không phù hợp thì nguyên nhân và giải
pháp như thế nào?
Vì vậy tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu là “Giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh đất đai của Tòa án nhân dân, qua thực tiễn huyện Hoằng Hóa,
Thanh Hóa”, nhưng tập trung đi sâu nghiên cứu về vấn đề giải quyết khiếu

4
kiện hành chính về đất đai của Tòa án nhân dân cấp huyện. Qua nghiên cứu

thấy được những mặt đã đạt được cũng như nhìn nhận khó khăn, tồn tại của
quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án cấp huyện để đưa ra giải
pháp chung, góp phần hoàn thiện hơn nữa việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính nhất là trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Hoằng Hóa.
Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này nên đáp ứng được các nội dung cơ
bản sau: Phân tích đánh giá thực trạng giải quyết vụ án Hành chính trong lĩnh
vực đất đai tại Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp huyện nói
riêng; Thứ hai, thực trạng giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
tại Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa; những mặt đã đạt được và những vấn
đề còn tồn tại; Thứ ba, đề xuất quan điểm giải pháp nâng cao chất lượng giải
quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án giải pháp có thể
khắc phục những tồn tại để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đặt ra vấn đề và thực hiện việc nghiên cứu đề tài nhằm đóng góp lý
luận về giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án
nhân dân nói chung; đồng thời đưa ra phân tích đánh giá thực trạng các quy
định và thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai tại
cơ quan tố tụng cấp huyện. Trên cơ sở đó có những nhìn nhận mang tính khái
quát về những gì đã làm được và những gì còn hạn chế, tìm ra nguyên nhân
của những hạn chế để đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu
kiện hành chính, phần nào góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao
hiệu quả hoạt động giải quyết tranh tranh chấp hành chính nói chung, tranh
chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai nói riêng.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài dựa trước hết dựa trên các quy

5
định pháp luật hiện hành về giải quyết khiếu kiện hành chính, phân tích đánh
giá các quy định trên phương diện lý luận; đồng thời cần dưa trên các giáo
trình về tố tụng hành chính cũng là một cách nhìn nhận khá đầy đủ là logic;

bên cạnh đó tham khảo các bài viết của nhiều tác giả. Từ đó nghiên cứu chắt
lọc những thông tin cần quan tâm để đưa ra được những phát kiến riêng cho
đề tài nghiên cứu của mình.
Qua tìm hiểu, mặc dù xung quanh vấn đề về giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đai đã có khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp
dụng luật tố tụng hành chính, nhưng việc nghiên cứu một cách có hệ thống
dưới hình thức luận văn thạc sĩ thì đề tài này đang là một vấn đề khá mới mẻ.
Vì vậy đặt ra khá nhiều khó khăn trong việc thu thập nguồn tài liệu, đặc biệt
là tài liệu nghiên cứu ngoài nước. Có một số luận án Tiến sĩ đã nghiên cứu
các đề tài như: Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Bình với đề tài:
“Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: “Thẩm
quyền xét xử hành chính của của Tòa án nhân dân”; Một số bài viết như: “Tòa
hành chính ngại giải quyết khiếu nại hành chính” của Luật sư Trần Vũ Hải
trên trang Luatsuhanoi.com; Bài viết “Những vướng mắc khi áp dụng luật tố
tụng hành chính và luật khiếu nại” của tác giả Vũ Thắng - Tòa phúc thẩm Đà
Nẵng trên báo điện tử Tòa án nhân dân tối cao; Bài viết “Luật tố tụng hành
chính đã có vướng mắc” của tác giả Quang Nhuần trên trang thông tin điện tử
đài PT- TH tỉnh Sóc Trăng; Bài viết “Một số vấn đề về trình tự, thủ tục và kỹ
năng xét xử vụ án hành chính tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Phạm Công
Hùng - Thẩm phán TANDTC đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 02 tháng
01/2013. Tuy nhiên tất cả các công trình nghiên cứu và các bài viết này mới

6
chỉ dừng ở một góc độ, một khía cạnh nào đó chứ chưa thực sự trọng tâm vào
nội dung đề tài luận văn đang mà tác giả đang nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu được xác định tập trung vào vấn đề giải quyết khiếu
kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án nhân dân cấp huyện hiện

nay. Qua đó đề xuất vấn đề cải cách tư pháp; quan điểm giải pháp nâng cao
chất lượng giải quyết của Tòa án đối với loại án này. Từ đó góp phần hoàn
thiện pháp luật cũng như nâng cáo hiệu quả của giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án nhân dân cấp huyện nói chung, tại
TAND huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lĩnh vực giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án nhân dân cấp huyện, qua thực tiễn tại
Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa. Được thể hiện ở phương
diện pháp luật và thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính trong
lĩnh vực đất đai tại Tòa án nhân dân cấp huyện từ thời điểm có văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh tranh chấp này cho đến nay và nhất là trong giai
đoạn đẩy mạnh thực hiện cải cách tư pháp, từng bước xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luận văn được
nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu sử dụng các phương
pháp như: phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch… để

7
tổng hợp các tri thức của khoa học luật tố tụng hành chính và luận chứng các
vấn đề cần nghiên cứu.
6. Tính mới của đề tài
Mặc dù việc nghiên cứu về giải quyết tranh chấp về đất đai đã được khá
nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu thực hiện, nhưng chỉ xem xét và
giới hạn ở những khía cạnh nhất định, vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và
cụ thể về vấn đề Giải quyết khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực đất đai tại cơ

quan tố tụng địa phương, nên đây là một đề tài khá mới mẻ. Vì vậy đó cũng là
một thách thức đối với người nghiên cứu. Tuy nhiên, bằng lượng kiến thức
bản thân, qua các tài liệu tham khảo, để đưa ra được những giải pháp hữu ích
để có thể được tham khảo trong quá trình giải quyết khiếu kiện Hành chính
trong lĩnh vực đất đai về sau. Đồng thời khẳng định giải quyết khiếu kiện
hành chính bằng con đường Tòa án là phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp
và phù hợp với xu thế thời đại.
7. Ý nghĩa của đề tài
Hiện nay, những quy định của pháp luật giải quyết khiếu kiện Hành
chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án cấp huyện
nói riêng vẫn còn thiếu sự hệ thống, toàn diện, cần thiết sự tập trung trong
một văn bản cụ thể.
Đề tài là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối
toàn diện ở góc độ lý luận và thực tiễn về vấn đề giải quyết vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có nhiều
đóng góp về mặt khoa học. Do đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ có những đóng
góp nhất định cho những những nhà làm luật trong công tác hoàn thiện pháp
luật tố tụng hành chính. Các luận cứ và kiến nghị của đề tài có độ tin cậy và giá
trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời giúp ích phần

8
nào cho cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp dụng các quy
định của pháp luật về giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đại của Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất
đai tại Tòa án nhân dân nói chung, tòa án nhân dân cấp huyện
nói riêng. Qua thực tiễn tại Tòa án huyện Hoằng Hóa.

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân.








9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

1.1. Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nói
chung, khiếu kiện hành chính trong quản lý đất đai tại tòa án nhân dân
cấp huyện nói riêng là một tất yếu
Con người và quyền con người là những giá trị cao quý nhất, là mục
tiêu của các cuộc cách mạng và những tư tưởng tiến bộ vì con người. Các tư
tưởng về quyền con người và bảo vệ quyền con người được hình thành từ rất
sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Mọi nhà nước và pháp luật đều
mong muốn xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, dân chủ và tất
cả vì các quyền lợi chính đáng của con người trong xã hội ấy.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân luôn giữ một vị trí quan trọng
trong chế định quyền lợi cơ bản của công dân. Bảo đảm quyền khiếu nại của
công dân chính là để đảm bảo cho công dân thực hiện trọn vẹn quyền và
nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội. Đây chính là sự phản ánh một cách
khách quan và hiện thực về một nền dân chủ, hay nói cách khác đây chính là

thước đo giá trị nền dân chủ của một nhà nước. Việc người dân thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo trong đời sống chính trị là một trong biểu hiện cụ thể
của dân chủ trực tiếp, thông qua đó để trực tiếp giám sát và tham gia vào hoạt
động quản lý của bộ máy nhà nước. Thông qua quyền khiếu nại tố cáo, công
dân có thể bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi bị xâm hại
với các hành vi quản lý trái pháp luật của nhà nước. Đây là một quyền rất
quan trọng, là phương tiện đấu tranh đảm bảo cho các quyền khác của công
dân được thực hiện. Chính việc ghi nhận về mặt pháp lý, quyền khiếu nại tố

10
cáo của công dân mới được đảm bảo hiện thực hóa trong cuộc sống và đó là
một trong những nội dung quan trọng của quá trình xây dựng nền dân chủ xã
hội nói chung và dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế,
việc giải quyết các khiếu nại chỉ bằng con đường hành chính, tức chỉ bởi các
cơ quan hành chính, người đã đưa ra các quyết định hành chính và có hành vi
hành chính bị khiếu nại, chưa thực sự đảm bảo tính khách quan, cần thiết phải
có một thiết chế chuyên biệt để song song giải quyết các tranh chấp hành
chính và để cho chính chủ thể khiếu nại có quyền lựa chọn việc giải quyết
tranh chấp của mình bằng con đường hành chính hay bằng thiết chế này.
Nhận thấy định chế Tòa án là một cơ cấu đặc biệt trong hệ thống các cơ quan
nhà nước. Đó vừa là cơ quan được hưởng quy chế phân quyền, vừa có tính
độc lập tương đối so với cơ quan hành pháp. Tính độc lập xuất phát từ nhu
cầu thực hiện chức năng xét xử trong Nhà nước pháp quyền. Tùy thuộc vào
niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp, định chế Tòa án cung cấp cho
xã hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng trong các hành
động của nhà nước. Chỉ có Tòa án mới có quyền chính thức phán quyết sự
hợp pháp của những hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng quản lý,
nhất là quản lý nhà nước về đất đai. Việc quyết định cho tư pháp có quyền xét
xử lại hành vi, quyết định của chính bộ phận các cơ quan nhà nước là bước
tiến vượt bậc dân chủ và văn minh nhân loại. Đây cũng là một tất yếu khách

quan của một nhà nước phát triển. Tòa án giải quyết tranh chấp hành chính
giữa cá nhân, tổ chức với người có thẩm quyền, cơ quan nhà nước được gọi là
tư pháp hành chính. Đó là loại thủ tục phức tạp nhưng có khả năng bảo đảm
pháp chế, bảo đảm dân chủ cao hơn so với các hình thức khác. Điều này cũng
được coi là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Theo đó các thủ tục pháp lý được đề ra buộc Tòa án khi giải quyết tranh chấp
hành chính phải tuân theo nhằm khắc phục hạn chế của hoạt động giải quyết

11
khiếu nại theo cấp hành chính, mà việc giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành
chính là một hoạt động mang tính chất của một hoạt động quản lý, trong đó
chứa đựng tính bất bình đẳng giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại
trong quá trình giải quyết vụ việc, thể hiện sự áp đặt đơn phương một chiều
ngày trong các quyết định giải quyết khiếu nại. Khi giải quyết các tranh chấp
hành chính, Tòa án tuân theo một trình tự tố tụng mà pháp luật đã đặt ra. Qua
đó bảo đảm sự cân bằng và bình đẳng giữa người khiếu kiện và người bị kiện
trong quá trình giải quyết vụ kiện, đảm bảo cho các bên có thể đưa ra những
chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho tính đúng đắn của ý kiến, yêu cầu của
mình và phản bác lại ý kiến của bên kia. Tòa án tuân thủ đúng trình tự tố tụng
và đưa ra quyết định, bản án đúng đắn và mang tính thuyết phục. Như vậy có
thể nói giải quyết khiếu nại hành chính theo con đường Tòa án là cách thức
bảo vệ pháp chế ở mức độ cao nhất, có khả năng bảo vệ quyền cao nhất quyền
của cá nhân, tổ chức.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, chính phủ mới đặc
biệt quan tâm đến việc giải quyết khiếu nại của người dân mà không thừa
nhận việc khiếu kiện hành chính. Việc giải quyết tranh chấp hành chính phát
sinh giữa công quyền và công dân chỉ theo con đường khiếu nại hành chính,
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
và hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước tiền thân là ủy ban thanh tra đặc biệt.
Kế từ ngày 01/7/1996, Tòa hành chính được thành lập đã đánh dấu

bước phát triển mới của nền pháp lý Việt Nam. Hoạt động giải quyết tranh
chấp hành chính được thực hiện bởi hai cơ chế là hành chính và tư pháp.
Người dân có quyền lựa chọn việc giải quyết khiếu nại hành chính theo cơ
chế hành chính hoặc theo con đường tố tụng tại Tòa án sau khi được giải
quyết khiếu nại lần 1 hoặc lần 2, nếu họ không đồng ý với kết quả giải quyết
khiếu nại đó. Việc giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án vào thời điểm

12
đó tuân theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Sau khi Luật
tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu lực thi hành, tức là kể từ ngày
01/7/2011, người dân có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính trong trường hợp không đồng ý với quyết
định đó (mà không cần phải thủ tục tiền tố tụng, trừ một số trường hợp), hoặc
đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời
hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại đó
không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với kết
quả giải quyết đó.
Kể từ ngày 01/7/1996, Tòa án nhân dân ở nước ta chính thức được trao
thẩm quyền xét xử hành chính. Để thực hiện thẩm quyền này, Tòa hành chính
đã được thành lập ở tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao. Ở
cấp huyện, tuy không thành lập tòa hành chính chuyên trách nhưng có thẩm
phán được phân công làm nhiệm vụ chuyên trách về xét xử hành chính. Việc
trao thẩm quyền xét xử hành chính cho tòa án nhân dân đã đánh dấu việc thiết
lập cơ chế tài phán tư pháp để giải quyết các tranh chấp hành chính ở Việt
Nam - loại tranh chấp trước đây chủ yếu chỉ được giải quyết bằng con đường
hành chính thông qua cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây là nỗ lực đáng
kể của Nhà nước ta trong việc thiết lập các công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, bảo đảm trách nhiệm của cán bộ, công chức
nhà nước, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội và
quan trọng hơn cả là góp phần vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nhà

nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Một thực tế không thể phủ nhận
được là giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường tòa án đã và đang
trở nên quen thuộc đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân ở nước ta. Có khá
nhiều vụ việc hành chính đã được xét xử tại tòa án, trong đó cá nhân, tổ chức
với tư cách là người khởi kiện đã thắng kiện. Đánh giá chung về hoạt động

13
xét xử hành chính của tòa án nhân dân trong gần 20 năm qua, Tòa án nhân
dân tối cao đã khẳng định: hoạt động xét xử hành chính ở nước ta đã góp phần
vào nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt là việc làm cho các cơ quan
hành chính nhà nước phải thận trọng, cân nhắc hơn khi ban hành quyết định
hành chính hay thực hiện một hành vi hành chính. Đồng thời, hoạt động này
cũng được khẳng định là có vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới đất
nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy thực tiễn nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ XX đã đặt ra vấn đề cần phải có một
cơ chế kiểm soát hữu hiệu hoạt động của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà
nước trong quá trình quản lý, điều hành xã hội, khắc phục những biểu hiện
cửa quyền, lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm. Nội dung này
chính là cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại hành chính và giải
quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp, đặc biệt là các tranh
chấp hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Theo đó Tòa án cấp có thẩm
quyền phán quyết tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính nói chung, quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính trong quản lý đất đai nói riêng của cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền khi những quyết định, hành vi đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân. Đây cũng chính là một chủ trương lớn của Đảng ta gắn
liền với công cuộc đổi mới cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách hệ
thống tư pháp.
1.2. Khái quát quá trình phát triển pháp luật về tố tụng hành chính

Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập thì chính quyền cách mạng đã
quan tâm tới công tác giải quyết các khiếu nại tố cáo của nhân dân, trong đó

14
có các khiếu kiện hành chính. Điều này đã được thể hiện trong tinh thần của
các bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta là Hiến pháp năm 1946, Điều 29 Hiến
pháp năm 1959. Ngay từ tháng 11-1945, Ban thanh tra đặc biệt đã được thành
lập với hai chức năng cơ bản: thứ nhất là giám sát việc thi hành pháp luật và
chính sách của Nhà nước ở các cấp hành chính; thứ hai là giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân [8]. Sắc luật số 04/SLT ban hành năm 1957 về bầu
cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp đã trao cho Toà án nhân
dân thẩm quyền giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri nếu người khiếu
kiện không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan lập danh sách cử tri (Điều
15). Tuy nhiên trong giai đoạn này, do chịu ảnh hưởng của mô hình hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây nên pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận
các khiếu nại hành chính mà không thừa nhận khiếu kiện hành chính phát sinh
giữa công dân, cơ quan, tổ chức với các cơ quan công quyền và các khiếu nại
này được giải quyết theo thủ tục hành chính chứ không được giải quyết theo
con đường tố tụng tại Tòa án. Trong giai đoạn này, hoạt động tài phán hành
chính ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật ghi nhận quyền khiếu nại của các công dân, cơ
quan, tổ chức đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các
cơ quan công quyền và cán bộ có thẩm quyền phát sinh trong các lĩnh vực
khác nhau của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Thứ hai, người có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính là
các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan đó
trong quá trình thực hiện công vụ đã ban hành quyết định hành chính hoặc
thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Như vậy các cơ quan hành chính,

người có thẩm quyền trong các cơ quan đó vừa là người bị khiếu nại, vừa là
người giải quyết khiếu nại, đây được xem là cơ chế “bộ trưởng – quan tòa”.
Từ đó có thể thấy một hạn chế lớn của cơ chế này đó là thiếu một cơ quan

15
tài phán độc lập để giải quyết các tranh chấp hành chính, không đảm bảo
được quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, cơ quan tổ chức khi những
quyền lợi đó bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành
chính trái pháp luật.
Thứ ba, có nhiều văn bản pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể khác nhau trong việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại, do đó
người dân có thể khiếu nại tới nhiều cơ quan khác nhau cùng lúc. Các khiếu
nại này sau đó được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
đó, kết quả là quá trình giải quyết khiếu nại hành chính bị kéo dài, người
khiếu nại phải mất rất nhiều thời gian để chờ đợi kết quả giải quyết.
Thứ tư, có nhiều loại cơ quan nhà nước được trao quyền giải quyết
khiếu nại hành chính, tuy nhiên trách nhiệm của từng cơ quan chưa được quy
định một cách rõ ràng. Thêm vào đó quy trình giải quyết các khiếu nại hành
chính lại không được công khai nên công dân không biết, không kiểm soát
được quá trình giải quyết khiếu nại này.
Mặc dù có những hoạt động mang tính chất tài phán hành chính trong
lịch sử nhưng về mặt lý luận thì trước kia chúng ta không thừa nhận sự cần
thiết phải có cơ quan tài phán hành chính. Với lý luận là dưới chủ nghĩa xã
hội, nhà nước là của dân do dân và vì dân, thì nhà nước, trước hết là cơ quan
hành chính hoạt động vì lợi ích của người dân nên không có lý do gì đề người
dân đi kiện lại chính nhà nước. Thêm nữa, nguyên tắc “lợi ích cá nhân đặt
dưới lợi ích tập thể” nên việc một cá nhân đòi lại lợi ích của mình khi phản
đối một quyết định của cơ quan hành chính đại diện cho lợi ích tập thể là khó
có thể chấp nhận. Những sai sót trong quá trình hoạt động có thể được giải
quyết bằng hình thức tự sửa chữa khắc phục và cơ chế giải quyết khiếu nại

bằng con đường thứ bậc trọng nội bộ cơ quan hành chính nhà nước là đủ [12].
Ngoài ra, theo một số tác giả (PGS.TS. Vũ Thư) còn có những nguyên

16
nhân khác nữa khiến cho tài phán hành chính không được thừa nhận ở Việt
Nam cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây:
Một là, hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây không thừa nhận
thuyết phân quyền nên nếu đặt vấn đề tòa án xem xét, xử lý các
quyết định của cơ quan hành chính thì vô hình chung là thừa nhận
có sự phân tách và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực và như vậy
trái với nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và thực hiện quyền lực ở
các nước xã hội chủ nghĩa;
Hai là, các nước xã hội chủ nghĩa luôn có vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Vì vậy những tranh
chấp giữa nhà nước và công dân nếu có thì có thể xử lý được nhờ
sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản;
Ba là, trong một thời gian dài, nhà nước pháp quyền là một khái
niệm xa lạ và không được thừa nhận trong hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa. Điều đó đồng nghĩa với việc những nguyên tắc hành xử
đặc trưng củ nhà nước pháp quyền không được chú trọng [34].
Trong khi đó, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 thay
thế cho Pháp lệnh năm 1981, tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng mới chỉ
là việc giải quyết theo cấp hành chính, theo kiểu Bộ trưởng - Quan tòa [1], cơ
quan hành chính vừa là người bị kiện, vừa là người phán quyết, chưa có một
cơ quan xét xử độc lập, theo một trình tự tố tụng và chỉ tuân theo pháp luật.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn đòi
hỏi phải thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải quyết
các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các
chuyên gia pháp lý đã tập trung nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế các
mô hình tài phán hành chính cũng như kinh nghiệm thực tiễn giải quyết khiếu

kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mô hình phù hợp với điều kiện thực tế ở

17
Việt Nam. Sau quá trình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII (23/01/1995) đã quyết định: “xúc tiến việc thiết lập
hệ thống tòa án hành chính” trong hệ thống Tòa án nhân dân để xét xử các
khiếu kiện hành chính. Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân
chức năng xét xử những vụ án hành chính [16]. Và hệ thống Toà hành chính đã
được thành lập bên cạnh các Toà chuyên trách khác. Như vậy, một thiết chế tài
phán mới - thiết chế bảo vệ hữu hiệu quyền hợp pháp của công dân trong mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã chính thức được thành lập.
Với một hệ thống cơ quan tài phán hành chính mới ra đời đó là hệ
thống Tòa hành chính nằm trong Tòa án nhân dân, cần phải có một hệ thống
chính sách tương ứng để nó có thể vận hành và đi vào hoạt động một cách
hữu hiệu. Do đó sau khi Toà hành chính được thành lập với tư cách là một
Toà chuyên trách của Toà án nhân dân, ngày 21/5/1996, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (có
hiệu lực từ ngày 01-7-1996) làm cơ sở cho hoạt động xét xử các vụ án hành
chính. Văn bản này ghi nhận Tòa án có thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu
kiện Trong quá trình thực thi, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm
1998 và năm 2006.
Việc Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành
đã tạo ra một cơ chế mới để giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự vi phạm từ phía các cơ
quan công quyền, đồng thời góp phần củng cố hoạt động đúng đắn của các cơ
quan hành chính nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, kể từ khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các


18
vụ án hành chính đi vào cuộc sống đến nay, thực tiễn giải quyết các vụ án
hành chính cho thấy các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính đã bộc lộ những bất cập nhất định, có những quy định mâu thuẫn
với các văn bản quy phạm pháp luật khác (Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, tố
cáo ), một số quy định chưa rõ ràng và chưa đầy đủ, đặc biệt là các quy định
về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Toà án, điều kiện
khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, vấn đề chứng minh và chứng cứ Bên cạnh
đó, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính còn có một hạn chế lớn
đó là chưa có quy định về việc thi hành bản án, quyết định hành chính, trong
khi đó đây một khâu rất quan trọng, có ý nghĩa đảm bảo tính hiệu lực của các
phán quyết của Toà án trên thực tế, cũng như đảm bảo thiết thực quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã làm ảnh hưởng đến quá trình giải
quyết các vụ án hành chính tại Tòa án thời gian qua, khiến cho việc giải quyết
này vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, lòng tin của người dân vào
cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường tố tụng tại Tòa án
vẫn còn chưa cao. Từ đó nhu cầu hoàn thiện pháp luật Tố tụng hành chính
được đặt ra ngày càng bức thiết… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế đang ngày
càng diễn ra sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội
cũng đòi hỏi sự tương thích, phù hợp của pháp luật Việt Nam nói chung, pháp
luật về Tố tụng hành chính nói riêng với các nguyên tắc và tư tưởng tiến bộ
của pháp luật quốc tế. Từ những yêu cầu đó, việc pháp điển hoá các quy định
về thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính thành Luật Tố tụng hành chính với
hiệu lực và tính chất pháp lý cao là cần thiết, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn
cũng như đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật tố tụng hành chính Việt Nam năm 2010 ra đời đã khắc phục hầu
như các hạn chế của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo


19
đó người dân có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong trường hợp không đồng ý với quyết định đó,
hoặc đã khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải
quyết nhưng không đồng ý với kết quả giải quyết đó [19]. Như vậy, thủ tục
“tiền tố tụng” đã không còn là yếu tố bắt buộc đối với hầu hết các khiếu kiện
hành chính, ngoại trừ đối với khiếu kiện về xử lý vụ việc cạnh tranh và khiếu
kiện về danh sách cử tri. Quy định này là một trong các yếu tố tạo điều kiện
cho người dân dễ dàng, thuận lợi tiếp cận với Tòa án để yêu cầu bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.3. Khái niệm liên quan đến vấn đề giải quyết khiếu kiện hành
chính trong lĩnh vực đất đai tại tòa án nhân dân ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm khởi kiện vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
Khiếu kiện hay còn gọi là khởi kiện là một thuật ngữ được sử dụng
rộng rãi trong đời sống lẫn trong khoa học pháp lý và mặc dù cũng không có
định nghĩa pháp lý chính thức nhưng khác với khiếu nại, nội hàm và ngoại
diên của khái niệm khởi kiện có thể được xác định một cách dễ dàng và thống
nhất. Về bản chất, khởi kiện là việc một hoặc nhiều chủ thể (mang đầy đủ tư
cách chủ thể theo quy định của pháp luật) đưa một vụ việc tranh chấp ra trước
Tòa án nhân dân và yêu cầu cơ quan này giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật. Tùy từng trường hợp mà khởi kiện có thể được xem xét dưới tư
cách là một hành vi pháp lý hoặc một giai đoạn tố tụng. “Khởi kiện” là từ
được dùng để chỉ quyền hoặc hành vi pháp lý gắn với chủ thể là một công
dân. Khởi kiện vụ án hành chính là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi những quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc

×