Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu - Phòng giao dịch Lê Thanh Nghị - Thành phố Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.79 KB, 56 trang )


trờng đại học kinh tế quốc dân
viện ngân hàng - tài chính
o0o
Chuyên đề
Thực tập tốt nghiệp
Đề tài:
Tăng cờng quản lý nợ xấu
tại Ngân hàng TMCP á Châu - Phòng giao dịch
Lê Thanh Nghị - Thành phố Hải Dơng
Sinh viên thực hiện : đỗ thế dũng
Lớp : tcb - k12 tcdn
MSV : 13112336
Giáo viên hớng dẫn : ths. đỗ hoài linh
Hà Nội, 2013
MỤC LỤC
Hµ Néi, 2013 1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn cạnh tranh với
nhau về nguyên liệu đầu vào sản phẩm đầu ra, nguồn lao động và đặc biệt là
vốn kinh doanh. Để có được tiềm lực mạnh về vốn kinh doanh, các doanh
nghiệp phải huy động vốn bằng việc đóng góp cổ phần, phát hành cổ phiếu và
đặc biệt là đi vay ngân hàng. Ngân hàng là nơi cung cấp lượng vốn tối ưu nhất
cho các doanh nghiệp khi gặp khó khăn về vốn.
Cho vay hay tín dụng là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của
NHTM, đem lại lợi nhuận cao nhưng chứa đựng nhiều rủi ro cho NHTM.
Trong giai đoạn hiện nay, hàng loạt các NHTM được thành lập tạo ra môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, nên các NHTM luôn đặt mục tiêu lợi
nhuận lên cao, tăng cường cho các doanh nghiệp, cá nhân vây để chiếm lĩnh
thị phần tín dụng. Từ đó phát sinh ra những tiêu cực trong hoạt động tín dụng,
những khoản cho vay lớn không thu hồi được nợ gốc và lãi đúng hạn do quá


trình thẩm định, phân tích dự án không chặt chẽ, kỹ lưỡng đã làm phát sinh nợ
xấu ngân hàng. Cộng với việc khủng hoảng kinh tế, tài chính của nền kinh tế
thế giới gây khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hóa, hàng tồn kho gia tăng, ứ
đọng vốn lớn, làm cho các doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất kinh doanh, thậm
chí còn lâm vào tình trạng phá sản, giải thể, không có đủ khả năng để trả nợ
ngân hàng, đe dọa đến tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc
quản lý nợ xấu, xử lý nợ xấu phát sinh, hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề cấp
bách, quan trọng trong hoạt động quản lý của các Ngân hàng thương mại và
mạch máu lưu thông của nền kinh tế.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng NHTM Á Châu - Phòng Giao dịch
Lê Thanh Nghị - Thành phố Hải Dương, em đã chọn chuyên đề "Tăng cường
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Á Châu - Phòng giao dịch Lê Thanh
Nghị - Thành phố Hải Dương" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
1
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Á Châu -
PGD Lê Thanh Nghị - Thành phố Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Á
Châu - PGD Lê Thanh Nghị - Thành phố Hải Dương.
Em xin chân thành cảm ơn Ths. Đỗ Hoài Linh và các anh chị trong
phòng Tín dụng của phòng giao dịch ACB Hải Dương đã giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề này.
2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, mỗi quốc gia cần phải có một tổ

chức để cung cấp vốn, truyền dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, tạo
điều kiện cho dòng vốn luôn được luân chuyển, lưu thông, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn quốc gia. Tổ chức đó là trung gian tài chính- ngân hang thương
mại.
Theo đó, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo
lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
Như vậy, ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung hoạt động
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng, cung ứng
dịch vụ thanh toán và các hoạt động khác có liên quan.
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Theo hình thức sở hữu
- Ngân hàng thương mại quốc doanh là ngân hàng thương mại được hình
thành bằng 100% vốn của ngân sách Nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng thương mại được hình
thành dưới hình thức là công ty cổ phần trong đó một tổ chức hay một cá
nhân không được sở hữu cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do Ngân hàng Nhà
nước quy định.
- Ngân hàng thương mại nước ngoài là ngân hàng được thành lập theo
pháp luật nước ngoài, là trụ sở của Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, hoạt
3
động theo pháp luật Việt Nam.
- Ngân hàng thương mại liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng
vốn góp của ngân hàng Việt Nam với ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt
Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
1.1.2.2. Theo tính chất hoạt động
- Ngân hàng thương mại chuyên doanh: là ngân hàng chỉ tập trung cung
cấp một số dịch vụ ngân hàng như cho vay xây dựng cơ bản, nông nghiệp,
ngoại thương, xuất nhập khẩu, xăng dầu hay đầu tư.

- Ngân hàng thương mại đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ cho
các ngân hàng, các công ty tài chính, nhà nước, doanh nghiệp.
- Ngân hàng thương mại bán lẻ là ngân hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp
cho doanh nghiệp, hộ gia đình, các cá nhân với khoản vốn nhỏ.
1.1.2.3. Theo cơ cấu tổ chức
- Ngân hàng thương mại sở hữu công ty: là ngân hàng nắm giữ vốn chi
phối của công ty, cho phép ngân hàng tham gia quyết định các hoạt động của
công ty.
- Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu công ty: các tập đoàn kinh tế lớn,
tổng công ty thường tổ chức thành lập ngân hàng nhằm cung ứng dịch vụ tài
chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn.
1.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Chức năng trung gian tín dụng.
Đây là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực
hiện chức năng này, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn với
người thiếu vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay,
vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch
giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, góp phần tạo ra lợi ích cho tất cả các
bên tham gia, người gửi tiền và người cho vay.
4
1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai tròlà thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,
thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền gửi từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàn hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu được từ việc bán hàng và các khoản
thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện
lợi như sec, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,thẻ tín
dụng…Tùy theo nhu cầu khách hàng có thể chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong

túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở rất xa, họ
có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán.
Do vậy , các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại
đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an toàn. Chức năng này thúc đẩy lưu thông
hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, luân chuyển vốn, góp phần phát triển
kinh tế.
1.1.3.3. Chức năng tạo tiền
Đây là chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình.
Các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã
thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực hiện trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM đó là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức
năng tín dụng, NHTM sử dụng vốn huy động được để cho vay, số tiền cho
vay ra lại đượckhách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ,
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được
coi là bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh
5
toán dịch vụ.
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.3.4.Chức năng trung gian trong việc thực hiện các chính sách tiền tệ
quốc gia. Ngân hàng Nhà nước ban hành các chính sách tiền tệ quốc gia,các
NHTM phải thực hiện theo sự điều hành của NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt
buộc,lãi suất,hạn mức tín dụng,chiết khấu,tái chiết khấu,cho thuê…
1.1.4. Vai trò của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Ngân hàng thương mại là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát
triển các lực lượng sản xuất
Ngân hàng thương mại cấp vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, thông

qua đó doanh nghiệp có được các khoản vốn cần thiết để thực hiện các hoạt
động kinh doanh làm tăng lợi nhuận, góp phần quan trọng trong việc tái sản
xuất mở rộng.
Ngân hàng thương mại không những cung cấp vốn tín dụng cho các
doanh nghiệp mà còn thông qua các nghiệp vụ tiền gửi thanh toán, tư vấn hỗ
trợ cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hơn nữa vốn cho vay của ngân hàng thương mại còn là nguồn tài trợ
quan trọng cho các dự án, chương trình xây dựng cơ bản, phát triển cơ sở hạ
tầng quốc gia.
1.1.4.2. Ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương thực thi chính sách tiền tệ thông qua ngân hàng
thương mại bằng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ như: tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất tái chiết khấu… Phần lớn
các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương chỉ được
thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của ngân hàng
thương mại.
6
1.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Trong hoạt động cho vay hay tín dụng của NHTM đều phát sinh những
khoản nợ xấu do quá trình thẩm định,phân tích,đánh giá dự án không chính
xác, không chặt chẽ đã gây ra rủi ro tín dụng cho NHTM.
Theo đó,để đánh giá chất lượng của các tài sản có của NHTM các khoản
cho vay ,cấp tín dụng và cam kết ngoại bảng được phân loại từ nhóm1 đến
nhóm 5 và được trích lập dự phòng rủi ro tương ứng.
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới tiêu chuẩn,không có khả
năng thu hooifvoons,quá hạn trả lại và gốc.
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định
không thể thu hồi được và có khả năng mất vốn.Đối với các NHTM thì nợ

xấu là các khoản tín dụng không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ,bị phá sản,giải thể,khủng hoảng kinh tế.
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Ngân hàng
Nhà nước thì nợ xấu ngân hàng(Non performing loan) là các khoản nợ phân
loại vào các nhoms3,4 và 5.
Có thể thấy,nợ xấu là các khoản cho vay đang đối diện với rủi ro cao
trong việc thu hồi nợ gốc và lãi vay do khách hàng gặp khó khăn,gây ra thiệt
hại cho NHTM.
1.2.2.Phân loại.
1.2.2.1.Nợ nhóm 3-Nợ dưới tiêu chuẩn(Sub-Standard).
-Các khoản nợ quá hạn từ 91-180 ngày.
-Các khoản nợ gia hạn lần đầu.
-Các khoản nợ được miễn, giảm lãi.
Nợ xấu thuộc nhóm 3 là các hoản nợ không có khả năng thu hồi nợ
gốc và lãi vay khi đến hạn,có khả năng tổn thất,NHTM sẽ trích lập dự phòng
rỉu ro cho nợ xấu của nhóm 3 là 20% dư nợ của nhóm.
7
1.2.2.2.Nợ nhóm 4- Nợ nghi ngờ(Doubtful).
-Các khoản nợ quá hạn từ 181-360 ngày.
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu nhưng lại tiếp tục quá
hạn dưới 90 ngày.
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần 2.
Nợ xấu thuộc nhóm 4 cố khả năng tổn thất cao,tỷ lệ trích lập dự phòng
rủi ro cho nợ xấu của nhóm 4 là 50% dư nợ nhóm 4.
1.2.2.3.Nợ nhóm 5-Nợ có khả năng mất vốn(Bad).
-Các khoản nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên.
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu nhưng lại tiếp tục quá
hạn từ 90 ngày trở lên.
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần 2 nhưng lại quá hạn.
-Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần 3 trở lên.

Nợ xấu thuộc nhóm 5 không có khả năng thu hồi,mất vốn ,tỷ lệ trích
lập dự phòng rủi ro cho nợ xấu của nhóm 5 là 100% dư nợ nhóm 5.
1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng thương
mại
1.2.3.1Tổng số nợ xấu
Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ xấu
của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ không
có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Vì
vậy, chỉ tiêu này chưa phản ánh chính xác số nợ xấu của ngân hàng thương
mại.
1.2.3.2. Hệ số
Giá trị các khoản nợ xấu
Tổng dư nợ
8
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết,
cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà
ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó
có khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi được đúng hạn tại thời
điểm xác định. Hệ số này càng cao thì rủi ro tín dụng càng lớn, nếu hệ số này
<7% thì rủi ro tín dụng thấp, nếu hệ số này > 7% thì rủi ro tín dụng cao.
Tuy nhiên, các số liệu để tính hệ số này được lấy tại một thời điểm nhất
định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác số nợ xấu của ngân hàng thương
mại, nó chỉ phản ánh tại một thời điểm bất kỳ.
1.2.3.3. Hệ số
Nợ khó đòi

Nợ khó đòi
Tổng dư nợ Nợ xấu
Đây là những chỉ tiêu phản ánh trung thực về tiền tệ và nguy cơ mất vốn
của ngân hàng thương mại. Hệ số ngày càng lớn thì khả năng rủi ro tín dụng

của ngân hàng càng cao.
1.2.3.4. Hệ số
Quỹ dự phòng rủi ro
Nợ xấu
Hệ số này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng tài trợ bao nhiêu cho
các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ có khả năng mất vốn.
Nếu hệ số này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp, tài
trợ các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và ngược lại nếu hệ số này càng thấp thì quỹ dự phòng rủi ro sẽ không
đủ khả năng tài trợ cho các thiệt hại xảy ra trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
1.2.3.5.Chỉ tiêu trích lập dự phòng.
Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ trích lập dự phòng đối với các khoản nợ
xấu,được xác định bằng hệ số
Trích lập dự phòng = Tổng nợ xấu nhóm 3,4,5
9
Tổng dư nợ

1.2.3.6.Chỉ tiêu
Nợ xấu
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ, chỉ tiêu này càng
cao thì nợ xấu ngày càng gia tăng.
1.2.3.7.Chỉ tiêu
Nợ có khả năng mất vốn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh toonbgr số nợ có khả năng mất vốn chiếm bao
nhiêu % trong tổng dư nợ tín dụng
1.2.3.8.Chỉ tiêu
Số lượng món vay có nợ nhóm 3,4,5,

Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh tổng số lượng món vay có nợ nhóm 3,4,5 chiếm
bao nhiêu % trong tổng dư nợ tín dụng.
1.2.3.9.Chỉ tiêu
Số lượng khách hàng có nợ nhóm 3,4,5,
Tổng số khách hàng
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng có nợ nhóm 3,4,5 trong tổng
số khách hàng vay vốn tại ngân hàng.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu
1.2.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại khi có nợ xấu phát sinh thường biểu hiện bằng
những tiêu cực như doanh thu, lợi nhuận giảm xuống, cắt giảm nhân sự, giảm
10
lương thưởng, giảm tần suất hoạt động hay làm mất uy tín đối với khách
hàng, mất khả năng cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác. Nguyên
nhân nợ xấu phát sinh là do:
- Ngân hàng không có đầy đủ thông tin về khách hàng nên không đánh
giá chính xác về mức độ rủi ro.
- Cho vay dựa trên những dự báo trong tương lai.
- Quy trình thẩm định, cho vay, phân tích, đánh giá không chặt chẽ, hoàn
chỉnh.
- Mức độ cạnh tranh trong ngành ngân hàng, buộc các ngân hàng nhỏ
phải sáp nhập, giải thể do không có đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng
lớn.
- Nhân viên ngân hàng cho vay để giữ chân khách hàng dù biết rằng
khoản vay đó có rủi ro.
- Chính sách tín dụng không hợp lý, chỉ tập trung cho vay vào các lĩnh
vực bất động sản, đầu tư chứng khoán.
1.2.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng
- Nợ xấu phát sinh khi khách hàng có biểu hiện không có đủ khả năng trả

nợ, hàng tồn kho ngày càng tăng, sản xuất bị đình trệ, người lao động thường
xuyên đình công.
- Không có khả năng thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cắt
giảm chi phí.
- Gia tăng các khoản nợ thương mại, không có khả năng thanh toán nợ
đến hạn.
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm.
- Sự xuống cấp của cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Chậm thanh toán các khoản vay.
Đó là những dấu hiệu cảnh báo nợ xấu từ phía khách hàng.
1.2.5. Tác động của nợ xấu
11
1.2.5.1. Tác động đối với ngân hàng thương mại
Khi có nợ xuất phát sinh sẽ gây hậu quả khôn lường, làm cho ngân hàng
thương mại mất tính thanh khoản, ảnh hưởng đến các hoạt động của ngân
hàng. Nợ xấu là vấn đề thường trực trong ngân hàng vì hoạt động tín dụng
luôn có rủi ro trong quá trình hoạt động, các tổ chức tín dụng luôn phát sinh
những khoản nợ xấu. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng gia tăng không có nghĩa
là hệ thống ngân hàng là tác giả của những khoản nợ xấu này, bởi vì việc phát
sinh những khoản nợ xấu là do khách hàng vay không trả được nên dẫn đến
nợ xấu. Khi đó, nợ xấu tác động đến ngân hàng rất tai hạn.
Thứ nhất, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của khách hàng. Khi có nợ xấu
phát sinh, ngân hàng phải sử dụng lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro để
đảm bảo tính thanh khoản, từ đó làm giảm khả năng mở rộng quy mô tín
dụng, hạn chế cho vay và đầu tư. Khi nợ xấu tăng cao làm cho lợi nhuận
giảm, thậm chí không có lợi nhuận do không thu hồi được những khoản nợ,
tốn kém chi phí hoạt động, dịch vụ.
Thứ hai, nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng. Khi một ngân hàng có
quá nhiều những khoản nợ xấu thì các nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân sẽ
không chấp nhận giao dịch với ngân hàng đó, mà tìm kiếm những ngân hàng

tốt hơn để giao dịch đảm bảo an toàn về vốn đầu tư của họ. Từ đó nợ xấu đã
làm mất uy tín, mất niềm tin của ngân hàng đối với khách hàng và các nhà
quản lý.
Thứ ba, nợ xấu làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản và kế hoạch
kinh doanh của ngân hàng. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng là nhận tiền
gửi và cho vay, khi các khoản vay không thu hồi được lãi và gốc thì ngân
hàng sẽ bị mất một khoản vốn, trong khi đó ngân hàng vẫn phải thanh toán
đúng hạn cả lãi và gốc cho khách hàng gửi tiền. Từ đó gây ra sự chênh lệch
giữa cho vay và nhận tiền gửi, làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
12
mại.
Thứ tư, nợ xấu làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Nợ xấu là
yếu tố bất lợi trong cạnh tranh vì căn cứ vào đó, khách hàng có thể đánh giá
được tình hình hoạt động của ngân hàng, trình độ quản trị tổ chức, quản lý tài
chính của mỗi ngân hàng.
Khách hàng sẽ chọn ngân hàng có nợ xấu thấp nhất để đảm bảo nhận
được lãi cao hơn. Từ đó nợ xấu đã làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân
hàng trên thị trường tài chính.
1.2.5.2. Tác động đối với nền kinh tế
Trong thời gian gần đây, nợ xấu đang là vấn đề trọng điểm trong các
cuộc họp bàn của Chính phủ và báo chí. Nợ xấu gia tăng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự đình đốn của nền kinh tế Việt Nam xuống mức thấp
nhất 5,03%, hàng trăm nghìn doanh nghiệp trong nước phải đóng cửa.
Lạm phát, khó khăn, sản xuất đình trệ, thất nghiệp, hàng tồn kho, phá
sản… là những cụm từ dùng để miêu tả nền kinh tế trong thời điểm hiện nay.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng đến tất cả mọi người từ thành thị đến
nông thôn, tất cả đều do nợ xấu của nền kinh tế. Theo số liệu của NHNN tính
đến 30/9/2012, tỷ lệ nợ xấu chiếm 8,82% tổng dư nợ toàn hệ thống, đến cuối
tháng 2/2013 nợ xấu đã hạ xuống mức 6%/năm, khoảng 156.000 tỷ đồng.

Theo thông tin mới nhất của NHNN báo cáo trước Quốc hội, tính đến cuối
tháng 4/2013, tổng nợ xấu toàn hệ thống là 137,1 nghìn tỷ đồng, tăng 18,7
nghìn tỷ (15,8%) so với cuối năm 2012. Mặc dù tốc độ gia tăng nợ xấu được
kìm hãm song tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng liên tục tăng lên do dư
nợ tín dụng tăng trưởng chậm. Theo đó, đến cuối tháng 4/2013 tỷ lệ nợ xấu
trong tổng dư nợ tín dụng là 4,67% tăng so với mức 4,08% cuối năm 2012 và
3,07% so với năm 2011.
Góc nhìn từ thị trường chứng khoán, cuối năm 2012, 8 môi trường niêm
yết trên thị trường chứng khoán, ngoại trừ Navibank, thì khối lượng nợ xấu
13
của 7 ông lớn là 22.100 tỷ đồng, trên 1 tỷ USD, gấp đôi năm 2012. Một trong
những ông lớn có nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tổng nợ xấu
các ngân hàng niêm yết trong năm 2012 như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà
Nội (SHB) sau sáp nhập thành Ngân hàng Nhà nước Hà Nội (HHB). Từ đó
SHB phải gánh nợ khổng lồ của HHB, nợ xấu của SHB đến cuối năm 2012 ở
mức 4845,8 tỷ đồng, tăng 7,44 lần về quy mô so với năm 2011, trong đó nợ
có nguy cơ mất vốn tăng 7,43 lần lên 2.067 tỷ đồng.
Trở thành cục máu đông làm tắc nghẽn dòng chảy vốn của nền kinh tế,
nợ xấu khiến cho các doanh nghiệp lao đao. Theo Phó chủ tịch Hiệp hội
doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh - Phạm Ngọc Hưng thì số lượng doanh
nghiệp giải thể ngừng hoạt động trong thời gian qua tương đương với số
lượng doanh nghiệp mới được thành lập. Đáng báo động là tình trạng doanh
nghiệp ngày càng yếu đi, số lượng doanh nghiệp báo cáo kết quả kinh doanh
thua lỗ chiếm tới 70 - 80% cho thấy doanh nghiệp ngày càng bị suy kiệt, nếu
không có biệt pháp hỗ trợ sẽ lâm vào tình trạng giải thể và phá sản doanh
nghiệp.
Tình trạng nợ xấu hiện nay rất nghiêm trọng, nó tác động xấu đến nền
kinh tế đang bị suy thoái.
- Sản xuất suy giảm, kinh tế bất ổn.
Nợ xấu là một phần của tín dụng được cho vay để ổn định và phát triển

kinh tế. Nợ tới ngày đáo hạn mà không thu hồi được thì số thanh khoản của
ngân hàng giảm đi, số tiền cho vay hạn chế, lãi suất ngân hàng tăng từ 18 -
20% làm cho các doanh nghiệp không thể đi vay được nữa, gây ra tình trạng
đóng cửa, sản xuất đình trệ.
Chỉ trong năm 2011 và 2012 đã có tới khoảng 100.000 các cơ sở thương
nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, quốc doanh bị thua
lỗ, đặc biệt là các tập đoàn lớn, tổng công ty như Vinashin, Vianlin, EVN bị
lỗ lớn, tổng cộng gần 10 tỷ mỹ kim. Trong khi đó nhu cầu tín dụng hay nhu
14
cầu vốn của các doanh nghiệp còn lại tăng lên nhưng ngân hàng thiếu vốn cho
vay, do đó sản xuất bị khó khăn. Tình trạng suy thoái nền kinh tế ngày càng
trầm trọng hơn.
- Lạm phát gia tăng: Khi số lượng tiền tệ và tín dụng lưu thông cao hơn
số lượng hàng hóa và dịch vụ tại thời điểm đó, hậu quả là giá cả tăng cao lạm
phát như là một con giông bão gây nhiều thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế.
Để bù đắp sự thiếu hụt ngân khoản cho vay vì nạn nợ xấu, Chính phủ
cho in thêm tiền và nhằm mục đích, một mặt giúp NHTM, mặt khác để cứu
các doanh nghiệp quốc doanh, khi đó tiền mặt trong lưu thông tăng, cơn bão
lạm phát kéo đến cuốn sạch tài sản của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, tình trạng lạm phát cao xảy ra thường xuyên, những lần có
lạm phát cao là những lần nền kinh tế bị nát tan. Đặc biệt là trong năm 1985
lạm phát lên đến 700%.
- Kinh tế đối ngoại và hội nhập toàn cầu. Khi một quốc gia có nợ xấu gia
tăng thì các quốc gia khác sẽ không giao lưu, buôn bán với quốc gia đó, do nợ
xấu nên họ không xuất nhập khẩu hàng hóa để đảm bảo an toàn, nên quốc gia
có nợ xấu tăng cao sẽ không xuất khẩu được hàng hóa và hội nhập nền kinh tế
toàn cầu gặp nhiều khó khăn.
- Đầu tư nước ngoài giảm. Nợ xấu làm giảm lợi nhuận, mà các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài luôn lấy lợi nhuận làm mục tiêu đầu tư.
Khi có nợ xấu gia tăng họ sẽ hạn chế đầu tư, làm cho nền kinh tế giảm đi một

số vốn quan trọng từ nước ngoài, kìm hãm sự phát triển kinh tế, công nghệ,
lao động và xã hội.
- Viện trợ quốc tế giảm. Các khoản viện trợ nhằm ổn định và phát triển
kinh tế. Nhưng có quá nhiều nợ xấu, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn kém, làm
lãng phí nguồn vốn, nên các tổ chức quốc tế sẽ hạn chế viện trợ nhằm tránh
lãng phí vốn của họ.
1.3. Quản lý nợ xấu tại các NHTM
15
1.3.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại các NHTM
Việc kịp thời phát triển ngăn ngừa nợ xấu là một trong những nội dung
quan trọng trong các hoạt động của một NHTM, đặc biệt là trong bối cảnh
nền kinh tế hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, công tác về giám sát và quản
lý nợ xấu, đặc biệt là phát hiện sớm những dấu hiệu của nợ xấu trở nên cần
thiết, quan trọng để các NHTM kịp thời có biện pháp ứng phó giảm thiểu rủi
ro nợ xấu cũng như là tác hại của nợ xấu đối với hoạt động của ngân hàng.
Quản lý nợ xấu là công tác xây dựng hệ thống để phát hiện nợ xấu một
cách sớm nhất, ngay từ yếu tố tiềm ẩn trước khi cho vay, từ khâu thu thập
thông tin đến thẩm định khách hàng, giám sát thu thập thông tin của khách
hàng trong và sau khi cho vay nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển
bền vững, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
1.3.2. Nội dung quản lý nợ xấu tại NHTM
1.3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Để đảm bảo kết quả kinh doanh một cách an toàn và ổn định, chất lượng
tín dụng đang là vấn đề được các ngân hàng thương mại trong cả nước đặc
biệt quan tâm. Theo đó, các NHTM tập trung vào xây dựng các biện pháp để
phòng ngừa, ngăn chặn nợ xấu phát sinh, các biện pháp cụ thể là:
Một là các biện pháp kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được các
NHTM áp dụng chặt chẽ. Theo đó, các NHTM giám sát chặt chẽ việc sử dụng
vốn của khách hàng có đúng mục đích hay không, quản lý vốn vay đầu tư có
chặt chẽ và hiệu quả hay không.

Đồng thời, các NHTM thắt chặt việc chấp hành quy trình tín dụng, thể lệ
cho vay đối với tất cả các hộ tín dụng, cán bộ kinh doanh, các bộ phận có liên
quan, khâu thẩm định dự án cho vay được tiến hành mang tính thực chất hơn.
Thẩm định bao gồm cả hiệu quả dự án, khả năng tiêu thụ hay đầu ra của thị
trường sản phẩm và dịch vụ, giá trị đích thực và tính pháp lý của tài sản đảm
bảo tiền vay. Uy tín của dự án của khách hàng, năng lực của chủ dự án là
16
những yếu tố không thể bỏ quan trong khâu thẩm định cho vay.
Hai là, hầu hết các NHTM đã định hướng chuyển dịch cơ cấu cho vay
theo các lĩnh vực ngành nghề cụ thể. Việc cho vay vốn đầu tư vào lĩnh vực
bất động sản gần như tạm dừng, hay có thể nói là các NHTM hết sức thận
trọng.
Ba là, về đối tượng khách hàng, phần đông các NHTM giảm tỷ trọng cho
vay các DNNN, chuyển hướng sang cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bốn là, các NHTM chú ý đến việc xác định kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ
phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và thời gian thi công các công trình.
Tập trung thu hồi nợ đến hạn và nợ quá hạn, nợ đã xử lý RRO, kiên quyết
chuyển nợ quá hạn đối với khách hàng đến hạn trả nợ nếu không có lý do
chính đáng để gia hạn nợ.
Để nâng cao chất lượng tín dụng, phòng ngừa nợ xấu phát sinh, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững, thời gian tới các NHTM trên cả nước tiếp tục
có những định hướng chiến lược thay đổi cơ cấu cho vay và đầu tư để hạn chế
những khoản nợ xấu phát sinh, tiết kiệm nguồn vốn.
1.3.2.2. Xử lý nợ xấu phát sinh
Có thể nói, giai đoạn 2011 và 6 tháng đầu năm là giai đoạn thực sự khó
khăn cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam với lãi suất cao, hàng tồn kho
cao dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp đóng cửa, giải thể.
Tuy nhiên trong nguy cơ khủng hoảng là cơ hội để các doanh nghiệp
đánh giá và nhìn lại toàn bộ hoạt động của mình, thực hiện tái cấu trúc một
cách mạnh mẽ để đưa doanh nghiệp vươn lên. Đó là cách tốt nhất để các

doanh nghiệp tự cứu lấy mình, đồng thời gián tiếp làm giảm nợ xấu cho nền
kinh tế. Vì vậy, để xử lý nợ xấu thì yêu cầu đầu tiên là cần phải thực hiện tái
cấu trúc doanh nghiệp.
- Thực hiện tái cấu trúc toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, tập trung
vào việc cắt giảm chi phí hoạt động, những bộ phận nào hoạt động không hiệu
17
quả cần phải sắp xếp lại, thậm chí đóng cửa. Những hoạt động không mang
lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp phải giảm thiểu một cách tối đa như lãng
phí trong vận hành quy trình, năng suất lao động thấp do việc lập kế hoạch
kém, lãng phí thời gian làm việc, lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực như
nguyên vật liệu, máy móc, con người.
- Đánh giá lại chiến lược và chiến thuật, tìm ra các hướng đi mới cho
doanh nghiệp như tìm kiếm khách hàng mới, thị trường mới, giảm giá khuyến
mại để giải phóng hàng tồn kho. Làm theo đơn hàng, rút ngắn thời gian giao
hàng.
- Tìm các đối tác chiến lược để đàm phán thực hiện M&A.
Yêu cầu thứ hai là tái cấu trúc NHTM: Các NHTM cần tập trung quyết
liệt vào việc thực hiện tái cấu trúc, trong đó đặc biệt chú trọng đến các giải
pháp kiểm soát, quản lý rủi ro hoạt động bao gồm rủi ro hệ thống và rủi ro
đạo đức. Trong hệ thống ngân hàng, ngăn ngừa hiện tượng chấp nhận rủi ro
bất hợp lý của các ngân hàng tái diễn trong tương lai.
Thực tế cho thấy, hệ quả của nợ xấu tăng cao như hiện nay có phần
nguyên nhân các NHTM đã buông lỏng quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về
đạo đức. Tình trạng sở hữu chéo theo mô hình mạng nhện, một số NHTM là
sân sau của các tổng công ty lớn.
Có một thực tế đáng buồn là trong 2 năm gần đây, tình trạng các nhân
viên ngân hàng phạm pháp ngày càng gia tăng. Điều đó chứng tỏ đạo đức của
một số nhân viên ngân hàng xuống cấp trầm trọng. Đó là hệ quả dẫn đến tỷ lệ
nợ xấu gia tăng.
Việc tái cấu trúc hệ thống NHTM nhằm từng bước giảm nợ xấu và ngăn

chặn tỷ lệ nợ xấu gia tăng trong tương lai cần tập trung vào một số vấn đề
chính sau:
- Rà soát, đánh giá và thiết lập hệ thống, quản lý rủi ro mới để kiểm soát
nợ xấu và từng bước giảm nợ xấu, nâng cao tính minh bạch của hệ thống, tiết
18
kiệm chi phí và tái cấu trúc lại hệ thống nhằm tối ưu hóa lợi nhuận.
- Đẩy mạnh tuyên truyền đạo đức nhằm nâng cao nhận thức về đạo đức,
đồng thời ngăn chặn những khoản nợ xấu do việc chấp nhận rủi ro bất hợp lý
của các nhân viên tín dụng.
- Cải thiện tốc độ tăng trưởng tín dụng, tập trung vào năng suất và hiệu
quả của bộ phận tín dụng, phát triển các sản phẩm mới mang lại lợi nhuận
mới cho ngân hàng.
- Thay đổi thói quen trong kinh doanh từ thụ động sang chủ động, luôn
luôn có cách nghĩ mới, cách làm mới tập trung vào năng suất hiệu quả thực
hiện với khách hàng là nhân tố quan trọng trong hoạt động.
Yêu cầu thứ ba là các NHTM cần phải mạnh tay trong việc tự giải quyết
nợ xấu, trước khi có phương án xử lý chung cho toàn ngành.
Có nhiều hình thức xử lý nợ xấu để NHTM áp dụng như:
- Giãn nợ: thông qua việc hoãn nợ hay giảm khối lượng nợ gốc phải
thanh toán của kỳ hạn trả nợ.
- Gia hạn nợ: để giảm áp lực trả nợ cho khách hàng, hỗ trợ khách hàng
tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh. NHTM xem xét có thể cấp thêm tiền
để cho vay khách hàng nhằm tạo ra khả năng thu hồi các khoản nợ trước nhờ
vào sự vượt lên của khách hàng.
- Giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: tùy theo từng đối tượng
khách hàng mà NHTM có thể đưa ra chính sách giảm, miễn nợ nhằm tạo ra
khoản vốn vay cho khách hàng để tiếp tục hoạt động kinh doanh.
- Đánh giá lại các khoản nợ dưới chuẩn nhằm kiểm tra khả năng thu hồi,
mức độ rủi ro, đưa ra biện pháp để xử lý.
- Tập trung nhân lực thu hồi nợ xấu: nhân viên ngân hàng tham gia thu

hồi nợ xấu, tăng cường đôn đốc, nhắc nhở khách hàng trả nợ vay.
- Tăng dự phòng rủi ro: tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro của từng nhóm là
20%, 50% và 100%. Cần phải tăng thêm để quỹ dự phòng rủi ro có thể tài trợ
19
được những khoản nợ xấu.
- Cắt giảm lương, thưởng để bù đắp vào phần nợ có khả năng mất vốn.
Các khoản lương, thưởng là thu nhập của nhân viên, nếu cắt, giảm sẽ tạo ra
một khoản vốn để bù đắp nợ xấu.
- Giảm lãi suất các khoản vay cũ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả
năng kinh doanh tốt hơn được đáo nợ và giãn nợ.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu: chuyển các khoản nợ xấu thành
chứng khoán nợ như trái phiếu, cổ phiếu để đem ra giao dịch trên thị trường
chứng khoán, giảm bớt các khoản nợ xấu.
- Thành lập công ty quản lý tài sản (AMC).
Các chuyên gia kinh tế cho rằng nợ xấu là hậu quả của việc cho vay của
NHTM quá dễ dãi, điều kiện kinh tế khó khăn và hậu quả của tăng trưởng tín
dụng quá cao của các năm trước để lại. Cho đến nay, một công ty quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam VAMC được thành lập. Theo đó,
VAMC sẽ xử lý được khoảng 80.000 - 100.000 tỷ đồng nợ xấu trong vòng 5
năm. Với số vốn điều lệ lên tới 100.000 tỷ đồng để giải quyết nợ xấu.
Hay thành lập công ty mua bán nợ DATC thuộc Bộ Tài chính để đứng ra
giải quyết nợ xấu.
Mặc dù có rất nhiều hình thức, biện pháp để xử lý nợ xấu, song cốt yếu
nhất là các NHTM phải tự mình giải quyết nợ xấu, tự mình khắc phục sai lầm
trước rồi sau đó mới đến sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước. Nếu các tổ chức:
doanh nghiệp, NHTM và Chính phủ kết hợp lại cùng tập trung xử lý nợ xấu
thì chắc hẳn nợ xấu sẽ được đẩy lùi, góp phần ổn định phát triển kinh tế, đảm
bảo an sinh xã hội.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ xấu
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan

1.3.3.1.1. Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng
- Chính sách quản lý tín dụng: là những hình thức, biện pháp mà NHTM
20
áp dụng để thẩm định, đánh giá, giám sát đối với từng khoản cho vay cũng
như đối với hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu các biện pháp, hình thức
được thực hiện nghiêm ngặt, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả hoạt động cho
ngân hàng. Ngược lại, nếu không thực hiện triệt để, không thống nhất trong
toàn hệ thống sẽ làm nợ xấu gia tăng và lợi nhuận ngân hàng bị giảm xuống
trầm trọng.
- Quy trình tín dụng: Một quy trình tín dụng hoàn thiện chặt chẽ và hợp
lý là nhân tố quan trọng làm giảm đáng kể các khoản nợ xấu.
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Trong đó, xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình
tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm
dứt quan hệ tín dụng.
Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc xây dựng một mô hình tổ chức
thích hợp tại ngân hàng, dựa vào đó ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành
chính cho phù hợp với những quy định của pháp luật và đảm bảo mục tiêu an
toàn trong cho vay. Bên cạnh đó quy trình tín dụng là cơ sở để kiểm soát tiến
trình cấp tín dụng và điều hành chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tế.
Mặt khác, quy trình tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động kinh doanh của
NHTM.
Nếu một quy trình tín dụng không hoàn thiện, không chặt chẽ và không
khoa học sẽ làm gia tăng nợ xấu cho các khoản vay.
Như vậy, quy trình tín dụng là nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến công tác quản lý nợ xấu.
- Cơ cấu cho vay: ngân hàng cho vay đối với từng ngành nghề, từng lĩnh
vực cụ thể, từng đối tượng khách hàng. Tỷ trọng của các khoản cho vay ngắn
hạn hay trung và dài hạn, giữa doanh nghiệp với cá nhân, giữa nông nghiệp
với công nghiệp, nếu tỷ trọng các nguồn vốn góp phần phát triển kinh tế, an

sinh xã hội và làm giảm nợ xấu. Ngược lại, nếu cho vay doanh nghiệp cao
21
hơn cá nhân, hay cho vay nông nghiệp cao hơn công nghiệp, làm mất cân đối
giữa các khoản vay, làm cho nền kinh tế phát triển lệch lạc, các nguồn vốn sử
dụng không hiệu quả làm gia tăng nợ xấu.
- Đạo đức và trình độ chuyên môn của nhân viên tín dụng, đội ngũ nhân
viên tín dụng nếu có đủ đức đủ tài, có phẩm chất tốt, có trình độ chuyên môn
cao thì khả năng nợ xấu phát sinh rất thấp. Ngược lại, nếu đội ngũ nhân viên
tín dụng bị tha hóa về đạo đức, không có trình độ chuyên môn cao thì sẽ làm
gia tăng nợ xấu vì biết có rủi ro nhưng họ vẫn cho vay để kiếm lời.
- Công nghệ của NHTM: hệ thống công nghệ thông tin của NHTM là
nhân tố quan trọng trong công tác điều hành và quản lý hoạt động của NHTM.
Đối với khách hàng, công nghệ sẽ đem lại sự tiện ích, giảm thời gian giao
dịch, an toàn, bảo mật. Đối với NHTM công nghệ sẽ tạo ra sự khác biệt trong
sản phẩm dịch vụ về số lượng, chất lượng, nâng cao hình ảnh ngân hàng.
Nhờ có công nghệ thông tin mà công tác quản lý sẽ chặt chẽ, sâu sát hơn
làm giảm rủi ro của các khoản cho vay. Nếu công nghệ thông tin lạc hậu, lỗi
thời làm cho công tác quản lý gặp khó khăn, sản phẩm dịch vụ không cạnh
tranh được, chất lượng dịch vụ yếu kém sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của
hệ thống ngân hàng, phát sinh nợ xấu.
- Cơ cấu tổ chức: một NHTM có cơ cấu tổ chức thống nhất, chặt chẽ, sắp
xếp các phòng nghiệp vụ theo từng đối tượng khách hàng, từng loại sản phẩm,
dịch vụ, quản lý theo mô hình cấp cao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và
chất lượng của các hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, từ đó
làm giảm nợ xấu trong cho vay. Ngược lại, một ngân hàng có cơ cấu tổ chức
chồng chéo, không khoa học sẽ gây những bất cập và khó khăn cho các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, tạo điều kiện cho nợ xấu phát sinh.
1.3.3.1.2. Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng
- Tư duy quản lý: Khi doanh nghiệp thiếu vốn để thực hiện dự án sản
xuất, kinh doanh thì doanh nghiệp phải đi huy động vốn để thực hiện dự án.

22
Nếu doanh nghiệp khẳng định dự án đó khả thi và quản lý kinh doanh chặt
chẽ, khoa học thì sẽ mang lại hiệu quả cao cho dự án, đảm bảo khả năng sinh
lời, có vốn để trả nợ cho ngân hàng làm hạn chế nợ xấu ngân hàng.
Nếu tư duy quản lý kinh doanh không khoa học, lỏng lẻo thì dự án có
khả thi đến mấy cũng không tạo ra hiệu quả cao, từ đó làm giảm khả năng
sinh lời của dự án, không có khả năng trả nợ ngân hàng làm phát sinh nợ xấu.
- Thiện chí trả nợ của khách hàng: Mặc dù doanh nghiệp làm ăn có lợi
nhuận cao nhưng có một số doanh nghiệp cố ý khai báo lãi thật lỗ giả để trốn
thuế, không muốn trả nợ ngân hàng, lừa đảo làm ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp khác, làm phát sinh nợ xấu.
1.3.3.2. Nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế - xã hội
+ Về kinh tế: Một nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, công nghiệp lạc
hậu, sản xuất ra những sản phẩm thô, gia công, chế tạo, phụ thuộc vào nền
kinh tế thế giới. Khi nền kinh tế thế giới ít biến động thì hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được đảm bảo ổn định. Khi nền kinh tế thế giới
biến động mạnh mẽ về giá cả, tỷ giá, hạn ngạch hay thuế quan thì hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là những
doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như da giày, may mặc, điện tử, bị
khống chế hạn ngạch xuất khẩu. Hay vụ chống bán phá giá của tôm, cá tra và
cá ba sa. Nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng bởi giá cả của thế giới, việc tăng giá
xăng dầu, phôi thép làm cho một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
này trở nên khó khăn vì chi phí giá thành cao, mà sản phẩm sản xuất ra không
tiêu thụ được do giá bán cao, tạo ra khối lượng hàng tồn kho nhiều, không có
lợi nhuận, không có khả năng trả nợ ngân hàng làm phát sinh nợ xấu.
Ngược lại, một nền kinh tế sản xuất hàng hóa hiện đại, không phụ thuộc
vào nền kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi những
biến động, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn phát triển, sản phẩm tiêu thụ
23

×