Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
LÊ THị THU HIềN
TăNG CƯờNG QUảN Lý Nợ XấU
TạI NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Cổ PHầN ĐÔNG NAM á
Hà nội, năm 2013
Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
LÊ THị THU HIềN
TăNG CƯờNG QUảN Lý Nợ XấU
TạI NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Cổ PHầN ĐÔNG NAM á
Chuyên ngành: KINH Tế phát triển
Ngời hớng dẫn khoa học:
pgs. ts. LÊ HUY ĐứC
Hà nội, năm 2013
LI CAM OAN
Tụi xin cam oan: Bn lun vn tt nghip ny l cụng trỡnh nghiờn cu ca
cỏ nhõn tụi, c thc hin trờn c s nghiờn cu lý thuyt, tỡnh hỡnh thc tin v
di s hng dn khoa hc ca PGS. TS. Lờ Huy c.
Cỏc s liu v nhng kt qu trong lun vn l trung thc. Ni dung lun vn
có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp
chí và các trang web theo danh mục tài liệu của luận văn.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Hà Nội, ngày … tháng … năm …
Học viên
Lê Thị Thu Hiền
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời
gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Lê Huy Đức đã dành rất nhiều thời
gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Kế hoạch – Phát
triển, Viện Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội đã tạo rất
nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình
và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong
nhật được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Học viên
Lê Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI iii 4
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. iii 4
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. iii 4
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”. iii 4
Nhận biết và phân loại nợ xấu: iv 4
Đo lường nợ xấu iv 4
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh iv 4
Xử lý nợ xấu v 4
CHƯƠNG 1 6 4
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU 6 4
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6 4
CHƯƠNG 2 35 5
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á 35 5
CHƯƠNG 3 75 5
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU 75 5
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á 75 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 5
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI iii
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. iii
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. iii
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”. iii
Nhận biết và phân loại nợ xấu: iv
Đo lường nợ xấu iv
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh iv
Xử lý nợ xấu v
CHƯƠNG 1 6
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU 6
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
CHƯƠNG 2 35
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á 35
CHƯƠNG 3 75
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU 75
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”
Nhận biết và phân loại nợ xấu:
Đo lường nợ xấu
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Xử lý nợ xấu
CHƯƠNG 1
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Dự phòng rủi ro
Dự phòng rủi ro tín dụng
Đơn vị kinh doanh
Hiệp Hội Ngân hàng
Hội đồng quản trị
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
Khách hàng cá nhân
Khách hàng doanh nghiệp
Phòng giao dịch
Tài sản bảo đảm
Tổ chức tín dụng
Trưởng phòng
Xử lý nợ
DPRR
DPRRTD
ĐVKD
HHNH
HĐQT
NHTMCP
NHNN
NHTM
NHTMCP Đông Nam Á
KHCN
KHDN
PGD
TSBĐ
TCTD
TP
XLN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI iii 4 9
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. iii 4 9
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. iii 4 9
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”. iii 4 9
Nhận biết và phân loại nợ xấu: iv 4 9
Đo lường nợ xấu iv 4 9
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh iv 4 9
Xử lý nợ xấu v 4 9
CHƯƠNG 1 6 4 9
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU 6 4 9
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6 4 10
CHƯƠNG 2 35 5 10
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á 35 5 10
CHƯƠNG 3 75 5 10
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU 75 5 10
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á 75 5 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 5 10
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI iii 10
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. iii 10
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. iii 10
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”. iii 10
Nhận biết và phân loại nợ xấu: iv 11
Đo lường nợ xấu iv 11
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh iv 11
Xử lý nợ xấu v 11
CHƯƠNG 1 6 11
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU 6 11
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6 11
CHƯƠNG 2 35 11
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á 35 11
CHƯƠNG 3 75 11
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU 75 11
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á 75 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 11
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI iii
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. iii
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”. iii
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”. iii
Nhận biết và phân loại nợ xấu: iv
Đo lường nợ xấu iv
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh iv
Xử lý nợ xấu v
CHƯƠNG 1 6
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU 6
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
CHƯƠNG 2 35
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á 35
CHƯƠNG 3 75
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU 75
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất,
phản ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động
quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau :
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là
một quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao
chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của
Ngân hàng thương mại”
Nhận biết và phân loại nợ xấu:
Đo lường nợ xấu
Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Xử lý nợ xấu
CHƯƠNG 1
LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ XẤU
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU
TẠI NHTMCP ĐÔNG NAM Á
!"#$%&'&()*$+()#,
/01$2345266
7/63859(:06$&
;<.6=13>*#?'''@6$2&:=
0A!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
LÊ THị THU HIềN
TăNG CƯờNG QUảN Lý Nợ XấU
TạI NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Cổ PHầN ĐÔNG NAM á
Chuyên ngành: KINH Tế phát triển
Hà nội, năm 2013
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Phần mở đầu đề tài, tác giả đã trình bày lý do chọn đề tài, mục đích, đối tượng
và phạm vi nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả
cũng đã trình bày được những điểm mới của luận văn và các công trình nghiên cứu
có liên quan như:
Trên thế giới, có khá nhiều các nghiên cứu luận bàn về nguyên nhân gây ra nợ
xấu Ngân hàng. Trong đó, phải kể đến nghiên cứu của Keeton, William và Morris
(1987). Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã thực hiện nghiên cứu trên các
NHTM bị thua lỗ tại Mỹ trong giai đoạn 1979-1985 đồng thời sử dụng tỷ lệ nợ xấu
làm thước đo chính cho việc đo lượng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng này. Mô
hình kiểm định đã chỉ ra rằng các điều kiện kinh tế riêng biệt địa phương cùng với
sự yếu kém trong hoạt động quản lý Ngân hàng là các nguyên nhân chính dẫn đến
rủi ro tín dụng. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng các NHTM sẵn sàng cho vay
những món mạo hiểm thường có rủi ro vỡ nợ cao hơn so với các Ngân hàng khác.
Bercoff và công sự (2002) nghiên cứu vấn đề nợ xấu đối với hệ thống NHTM
Argentina trong giai đoạn năm 1993-1996, cho rằng các khoản nợ xấu bị ảnh hưởng
nặng nề bởi các hai yếu tố nội bộ Ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô. Tác giả đã
nghiên cứu riêng biệt các tác động của các yếu tố nội bộ Ngân hàng và kinh tế vĩ
mô xem mức độ ảnh hưởng của từng nhóm nhân tố như thế nào.
Salas, Vincente và Saurina (2002) đã sử dụng mô hình kiểm định với bảng dữ
liệu giai đoạn 1985-1997 để điều tra các yếu tố gây ra các khoản nợ xấu của các
Ngân hàng Tây Ban Nha.
Tại châu Á, Rajan, Rajiv và Dhal (2003) đã sử dụng bảng phân tích hồi quy để
chỉ ra rằng những điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi (tín bằng sự tăng trưởng GDP)
và các yếu tố tài chính, các điều kiện tín dụng, quy mô Ngân hàng, chiến lược tín
dụng tác động đáng kể đến các khoản nợ xấu tại các NHTM ở Ấn Độ.
Hu và cộng sự (2006) có phân tích mối quan hệ giữa nợ xấu và cơ cấu sở hữu
của các NHTM tại Đài Loan với một bộ dữ liệu vào giai đoạn 1996-1999. Nghiên
cứu cho thấy hình thức sở hữu cũng là một nguyên nhân gây ra nợ xấu.
Khemraj, Pasha (2009) đã sử dụng phương pháp phân tích hồi quy và bảng dữ
liệu trong 10 năm (1994-2004) để xác định mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ
mô, các yếu tố nội bộ Ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Guyana. Nghiên
cứu cho thấy tỷ giá có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM
i
Guyana, tác động của GDP tới các khoản nợ xấu là tức thời, còn lạm phát lại không
phải là một yếu tố quyết định quan trọng tới tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng
ở Guyana.
Ở trong nước, cũng đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
nợ xấu Ngân hàng. Cụ thể:
Đề tài thạc sỹ “Tăng cường quản lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thủy Chung (2007) –
Đại học Kinh tế quốc dân, đã tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nợ xấu là một
trong những hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Đề tài
đã chỉ ra được phương thức quản lý nợ xấu, những tồn tại và nguyên nhân trong
hoạt động quản lý nợ xấu tại Ngân hàng này. Từ đó, tác giả đã đưa ra những giải
pháp nhằm tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Đề tài thạc sỹ “Kiểm soát và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quốc Việt (2008) – Đại học Kinh tế quốc dân, đã
phân tích được thực trạng hoạt động xử lý nợ xấu tại BIDV. Tác giả đã đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu và kiểm soát
nợ xấu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Đề tài thạc sỹ “Quản trị nợ xấu trong Ngân hàng thương mại, thực trạng và
giải pháp trong Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” của tác
giả Hà Thị Hồng Nhung (2011) – Đại học Ngoại thương, đã tập trung phân tích
được các vấn đề lý luận trong hoạt động quản trị nợ xấu cũng như thực trạng hoạt
động này trên 2 phương diện là phòng ngừa nợ xấu phát sinh và xử lý nợ xấu tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Từ đó, đề ra những giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa và xử lý nợ xấu.
Các vấn đề về nợ xấu cũng được đề cập tới ở một số tạp chí chuyên ngành.
Bài viết của Nguyễn Đức Cường (2006), trên tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ,
đã đề cập tới việc ứng dụng những nguyên tắc của Basel trong hoạt động quản lý nợ
xấu của một số quốc gia trên thế giới. Trên tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 4 bài
viết của Hà Thị Thúy Vân (2007) cũng đưa ra các giải pháp giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động quản lý nợ xấu của các Ngân hàng. Bài viết của Nguyễn Đào Tố (2008)
trên tạp chí Ngân hàng, số 5 nhấn mạnh tới sự cần thiết phải ứng dụng những
nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu, từ đó xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng
đối với các NHTM Việt Nam.
ii
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu riêng biệt từ trước đến nay về vấn đề
quản lý nợ xấu Ngân hàng, tác giả đã tiếp cận đề tài với sự kết hợp toàn diện giữa
các vấn đề nhận biết và phân loại nợ xấu, đo lường nợ xấu, hạn chế sự phát sinh các
khoản nợ xấu và việc xử lý các khoản nợ xấu tại NHTMCP Đông Nam Á mà các đề
tài trước chưa thực hiện.
Từ đó, luận văn được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Luận cứ khoa học về nợ xấu và quản lý nợ xấu tại Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Đông Nam Á.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Đông Nam Á.
CHƯƠNG 1: LUẬN CỨ KHOA HỌC VỀ NỢ XẤU VÀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chương 1, trình bày cơ sở lý thuyết về rủi ro trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, trong đó nợ xấu được coi là chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất, phản
ánh rủi ro tín dụng đang ở mức cao và những nội dung của hoạt động quản lý nợ
xấu tại Ngân hàng thương mại.
- Định nghĩa nợ xấu theo quy định của Việt Nam: căn cứ theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam về việc “Quy định về
phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài” nợ xấu được định nghĩa như sau : “Nợ xấu là những khoản
nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm
5 (nợ có khả năng mất vốn)”.
- Quan điểm về quản lý nợ xấu: Theo Ủy ban Basel: “Quản lý nợ xấu là một
quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh
tín dụng của Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển
bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát
sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh nhằm tăng doanh
thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong
ngắn hạn và dài hạn của Ngân hàng thương mại”.
iii
- Nội dung quản lý nợ xấu: Hoạt động quản lý nợ xấu được tiến hành theo
một trình tự nhất định, bao gồm những vấn đề sau:
• Nhận biết và phân loại nợ xấu:
Đây là bước đầu tiên trong quá trình quản lý nợ xấu của Ngân hàng, mà
trong đó NHTM sẽ căn cứ vào một số tiêu thức nhất định để nhận diện hoặc xác
định khoản nợ đó có phải là nợ xấu hay không, việc nhận biết được thông qua dấu
hiệu từ phía khách hàng hay dấu hiệu từ phía Ngân hàng.
Sau khi đã được nhận biết, nợ xấu sẽ được phân loại vào các nhóm nợ có
mức độ rủi ro khác nhau. Tại Việt Nam, hiện nợ xấu được phân loại dựa theo Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam. Trong đó, nợ
xấu là những khoản nợ được phân loại vào (i) nhóm 3 – Các khoản nợ quá hạn từ
90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày, các
khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ
gốc và lãi; (ii) nhóm 4 – Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày, các khoản nợ này được tổ
chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao và (iii) nhóm 5 nợ quá hạn trên 360
ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày và nợ khoanh chờ chính
phủ xử lý, các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng
thu hồi, mất vốn.
• Đo lường nợ xấu
Có hai phương pháp đo lường rủi ro mà các NHTM thường sử dụng đó là:
Phương pháp đo lường rủi ro định tính và phương pháp đo lường rủi ro định lượng.
Phương pháp đo lường rủi ro định tính: Chủ yếu dựa vào phân tích tín dụng
cổ điển truyền thống, tận dụng được kinh nghiệm các chuyên gia trong lĩnh vực cần
đánh giá.
Phương pháp đo lường rủi ro định lượng: Dựa trên các phần mềm và xử lý dự
liệu một cách hệ thống thông qua các kỹ thuật đo lường rủi ro theo thông lệ quốc tế quy
định (dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo khuyến nghị của Basel II ).
• Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Trong quá trình quản lý nợ xấu, việc hạn chế, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh
được coi là nhiệm vụ hết sức quan trọng. NHTM cần tập trung vào các công cụ,
biện pháp trước, trong và sau quá trình cấp tín dụng nhằm ngăn chặn và giảm thiểu
iv
đến mức thấp nhất việc phát sinh nợ xấu. Để làm được điều đó, các NHTM thường
phải thực hiện các nội dung sau:
+ Xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng: Xây dựng mô hình quản lý rủi
ro tín dụng là xây dựng cách thức quản lý rủi ro tín dụng tổng thể của một ngân
hàng, trong đó thể hiện được cách thức tổ chức quản lý, thực hiện quy trình tín
dụng, nhận biết, đo lường, kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm khống chế rủi ro trong
một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận.
+ Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro: Cần có chiến lược quản lý rủi cho
phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ và có thể
được điều chỉnh một cách linh hoạt tùy theo diễn biến của thị trường tín dụng.
Chiến lược quản lý rủi ro nói chung nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh phải chỉ rõ
điểm mạnh, điểm yếu của ngân hàng, các cơ hội cũng như các mối đe dọa từ môi
trường kinh doanh
+ Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản nợ xấu phát sinh: Nợ
xấu hiện nay đang là áp lực lớn đối với nền kinh tế cũng như hệ thống NHTM. Đặc
biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn hiện nay, công tác giám sát
quản lý nợ xấu, trong đó có việc phát hiện sớm những dấu hiệu của nợ xấu, trở nên
rất cần thiết, giúp các NHTM kịp thời có biện pháp ứng phó, giảm thiểu rủi ro nợ
xấu cũng như tác hại của nó đối với hoạt động Ngân hàng.
+ Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng: Yêu cầu các tổ chức tín dụng
phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển
khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro. Ngân hàng phải tiến hành
hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách hàng vay trước khi cho vay, trong
cho vay và sau khi cho vay.
+ Trích lập dự phòng rủi ro: Việc trích lập dự phòng rủi ro đúng và đủ sẽ đảm
bảo cho việc phòng ngừa các rủi ro phát sinh đặc biệt là nợ xấu, và kịp thời xử lý các
khoản nợ có khả năng mất vốn.
• Xử lý nợ xấu
Xử lý nợ xấu được thực hiện theo một quy trình nhất định của từng Ngân
hàng, dựa trên các phương thức xử lý nợ xấu như:
+ Yêu cầu tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ: Đối với các khoản
nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích thực trạng tài chính, hoạt
động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có khả năng phát triển để thanh
v
toán nợ xấu cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp cấu trúc lại hay tái
cơ cấu doanh nghiệp.
+ Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu: Chứng khoán hoá là chuyển đổi một
tập hợp có chọn lọc các khoản vay có thế chấp của Ngân hàng mà trước đó không
có thị trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể bán trên
thị trường thứ cấp. Ngân hàng có thể dùng kỹ thuật này để xử lý các khoản nợ xấu
của mình nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng
giao dịch mua bán nợ.
+ Xử lý tài sản bảo đảm, đòi nợ bên bảo lãnh: Đối với những khoản nợ xấu
không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng không có khả năng phát triển, chây ỳ trong việc trả
nợ… NHTM chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả tài sản là bất động sản
bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của Ngân hàng. Đối với
các khoản cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ 3, Ngân hàng yêu cầu bên bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay. Trường hợp bên bảo lãnh không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ thay, Ngân hàng chủ động xử lý tài sản bảo lãnh tương tự như
các tài sản thế chấp cầm cố của bên vay.
+ Bán các khoản nợ: Biện pháp này được Ngân hàng sử dụng đối với các
khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc không muốn mất thời gian đòi nợ. Ngân
hàng sẽ chuyển quyền đòi nợ cho một tổ chức tín dụng hoặc tổ chức hoặc cá nhân
khác có chức năng theo quy định để sớm thu hồi vốn của mình.
+ Sử dụng biện pháp pháp lý để xử lý: Biện pháp kiện khách hàng ra toà để
đòi nợ được Ngân hàng lựa chọn khi các biện pháp trên không khả thi. Ngân hàng
có thể nhờ toà án can thiệp buộc khách hàng trả nợ, chuyển giao tài sản đảm bảo
tiền vay, phát mại tài sản của khách hàng hoặc nếu khách hàng là doanh nghiệp
không trả được nợ và Ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin toà
mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật phá sản.
+ Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý: Những trường hợp được xử lý từ
quỹ dự phòng rủi ro là khi khách hàng vay vốn, bên được bảo lãnh vay vốn, bên
được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị giải thể, phá sản hoặc cá nhân bị
chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ nợ do bất khả kháng và
những khoản nợ thuộc nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn.
+ Sự trợ giúp của Chính phủ: Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các
khoản vay theo chính sách của Chính phủ, các Ngân hàng phải trông chờ vào nguồn
bù đắp từ Ngân sách Nhà nước. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi
vi
như khoản vay có bảo lãnh của bên thứ ba là Chính phủ. Do vậy, khi Ngân hàng
không thể thu hồi được nợ từ khách hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải
đứng ra giải quyết cho Ngân hàng.
Bên cạnh đó, trong chương này tác giả còn đề cập tới những nguyên nhân
gây ra nợ xấu; tác động của nợ xấu tới nền kinh tế, tới hoạt động của ngân hàng và
tới chủ thể khách hàng; cùng với đó là những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý nợ xấu.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐÔNG NAM Á
Chương 2 giới thiệu về Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á
(NHTMCP Đông Nam Á), tiền thân là NHTMCP Hải Phòng, được thành lập và
hoạt động tại Việt Nam theo giấy phép hoạt động số 0051/NH-GP ngày 25/3/1994
của Thống đốc NHNN Việt Nam và được UBND thành phố Hải Phòng cấp giấy
phép thành lập số 676/GP-UB ngày 4/04/1994. NHTMCP Đông Nam Á có tên giao
dịch quốc tế là Southeast Asia Bank (NHTMCP Đông Nam Á) và là một trong
những NHTMCP có mặt sớm nhất tại Việt Nam. Từ những năm đầu thành lập cho
đến nay NHTMCP Đông Nam Á luôn luôn cố gắng để trở thành một tập đoàn Ngân
hàng bán lẻ đa năng, hiện đại. NHTMCP Đông Nam Á không ngừng hoàn thiện các
sản phẩm, dịch vụ và ngày một khẳng định sự phát triển ổn định và bền vững,
hướng tới mục tiêu trở thành một trong những NHTMCP hàng đầu của Việt Nam.
Chương 2 trình bày thực trạng hoạt động quản lý nợ xấu tại NHTMCP Đông
Nam Á, qua đó đánh giá được kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển, hạn chế và
nguyên nhân:
- Hạn chế trong hoạt động quản lý nợ xấu:
+ Việc nhận biết, phân loại chưa chuẩn xác: Tại NHTMCP Đông Nam Á,
thời gian hoạt động vừa qua việc nhận biết, phân loại nợ xấu vẫn chủ yếu được áp
dụng theo điều 6, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN còn theo điều 7, quyết định
493/2005/QĐ-NHNN chưa được thực hiện cụ thể, thống nhất. Việc phân loại nợ
như vậy đã thiếu hẳn sự đánh giá kết hợp các yếu tố khác như tình hình tài chính,
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến sự đánh giá sai
lệch về nợ xấu của Ngân hàng khi khách hàng thực hiện đảo nợ, vay tiền Ngân hàng
này trả nợ Ngân hàng khác. Việc phân loại nợ này chỉ phụ thuộc vào tình hình thanh
vii
toán nợ mà không dựa vào việc đánh giá khả năng trả nợ của người cho vay và giá
trị thị trường của tài sản thế chấp, sẽ dẫn đến tình trạng cơ cấu lại nợ, nhóm nợ nhiều
khi còn chồng chéo, cố tình đưa khoản nợ lên nhóm nợ có độ rủi ro thấp hơn làm cho
kết quả phân loại nợ xấu nhiều khi không phản ánh đúng sự thật.
+ Hạn chế trong việc đo lường nợ xấu: Công tác đo lường nợ xấu tại
NHTMCP Đông Nam Á được thực hiện theo phương pháp đo lường rủi ro định tính
truyền thống, chủ yếu dựa vào các đánh giá, nhận định chủ quan từ cán bộ tín dụng,
chuyên gia Ngân hàng mà chưa đo lường được xác suất rủi ro của khoản vay hay
mức độ tổn thất có thể xảy ra của khoản vay.
+ Hạn chế trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Hệ thống còn chưa
được thống nhất trong các phòng ban, chưa tạo được sự nhất trí cao trong hoạt động
kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời
gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của
người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công
việc kinh doanh.
+ Kết quả xử lý, thu hồi nợ chưa cao: Thu hồi nợ trực tiếp, bán và khai thác
tài sản cùng một số biện pháp khác có hiệu quả chưa cao: tại NHTMCP Đông Nam
Á các khách nợ có nhiều loại khác nhau, để thu được nợ thì phải phân loại và có các
chính sách hợp lý, song kết quả thu nợ không cao.
- Nguyên nhân:
+ Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Thứ nhất, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chưa được áp dụng cho việc
phân loại, đo lường nợ xấu:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được NHTMCP Đông Nam Á ban hành
từ cuối năm 2008 nhưng đến tận cuối năm 2010 mới được toàn hệ thống áp dụng,
tuy nhiên việc áp dụng còn chưa sát với các quy định đã được ban hành, việc kiểm
soát quy trình áp dụng còn lỏng lẻo dẫn đến việc nhiều chi nhánh còn thờ ơ với việc
thực hiện hệ thống này. Vì vậy, kết quả thu được từ việc xếp hạng khách hàng còn
kém, mang tính chính xác không cao và chưa được sử dụng trong công tác phân
loại, đo lường nợ xấu khiến cho việc đánh giá nợ xấu phần nào chưa chính xác và
ảnh hưởng không tốt tới hoạt động quản lý nợ xấu của Ngân hàng.
Thứ hai, sự phối hợp xử lý nợ xấu còn hạn chế
Quá trình xử lý nợ tại NHTMCP Đông Nam Á cho thấy cơ chế điều hành và
sự phối hợp giữa các phòng ban tại Hội sở chính với chi nhánh và đặc biệt là đối với
viii
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản NHTMCP Đông Nam Á (SeABank AMC)
còn yếu. Điều đó dẫn tới hiệu quả xử lý nợ xấu tại SeABank AMC còn chưa cao và
kết quả xử lý nợ tại NHTMCP Đông Nam Á còn thấp.
Thứ ba, trình độ cán bộ hạn chế và rủi ro đạo đức
Việc sắp xếp vào các vị trí trong Ngân hàng vẫn chưa được tối ưu, chế độ đãi
ngộ chưa được hợp lý, do đó, hàng năm Ngân hàng luôn mất đi một số lượng lớn
nhân viên mới tuyển vào. Thời gian gần đây vẫn còn hiện tượng cán bộ làm việc
chưa chuyên tâm, chất lượng các báo cáo thẩm định, kiểm tra vốn vay còn nhiều
điểm cần khắc phục.
+ Nguyên nhân từ phía khách hàng
Một là: Kỹ thuật, trình độ sản xuất của Doanh nghiệp chưa cao, tính toán
chọn phương án kinh doanh thiếu thông tin, thiếu chính xác dẫn đến hiệu quả đầu tư
thấp, lợi nhuận thấp có khi còn thua lỗ gây khó khăn cho việc trả nợ Ngân hàng.
Hai là: Khả năng tài chính của Doanh nghiệp còn non yếu nên chỉ một rủi ro
nhỏ cũng làm mất khả năng thanh toán không trả nợ được Ngân hàng.
Ba là: Tư cách đạo đức của người đi vay. Đến hạn trả nợ lãi họ không chịu
trả trong nhiều tháng liền khiến cho các khoản vay đều bị chuyển thành nợ xấu.
Bốn là: Sử dụng vốn sai mục đích như dùng vốn của Ngân hàng để kinh
doanh những ngành nghề không hợp pháp.
+ Nguyên nhân khách quan
Sự suy thoái của nền kinh tế: Nền kinh tế thế giới, sau một thời gian dài tăng
trưởng ở mức cao, đã phải đối mặt với suy giảm kinh tế trầm trọng mà bắt nguồn từ
suy thoái kinh tế Mỹ, và Việt Nam cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng tiêu
cực của nó. Đặc biệt sang năm 2012 nền kinh tế Việt Nam càng suy thoái trầm
trọng. Hoạt động của khách hàng bị suy giảm, thu hẹp đồng nghĩa với tăng trưởng
tín dụng nói chung cũng như quản lý nợ xấu nói riêng gặp khó khăn.
Môi trường pháp lý chưa đầy đủ: Thủ tục pháp lý, công chứng, đấu giá phát
mại tài sản thế chấp còn phức tạp, mất nhiều thời gian. Hiệu quả phối hợp giữa các
cơ quan ban ngành như UBND các cấp, địa chính, cơ quan thi hành án…chưa cao,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến xử lý nợ xấu tại chi nhánh…
Chủ trương, chính sách còn thiếu tính ổn định: Những năm qua, thị trường
tài chính Việt Nam đang có dấu hiệu cạnh tranh quá mức, thiếu lành mạnh, khó
kiểm soát bằng các công cụ kinh tế, nên việc điều hành bằng các công cụ hành
chính là rất cần thiết. Song sự hạn chế căn bản của việc điều hành bằng các công cụ
ix