Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT ĐẶC ĐIỂM NỨT NẺ TRONG ĐÁ MÓNG GRANITOID MỎ HẢI SƯ ĐEN TRÊN CƠ SỞ PHÂN TÍCH TỔNG HỢP TÀI LIỆU ĐỊA VẬT LÝ GIẾNG KHOAN VÀ THUỘC TÍNH ĐỊA CHẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

************************




NGUYỄN ANH ĐỨC


ĐẶC ĐIỂM NỨT NẺ TRONG ĐÁ MÓNG
GRANITOID MỎ HẢI SƯ ĐEN TRÊN CƠ SỞ
PHÂN TÍCH TỔNG HỢP TÀI LIỆU ĐỊA VẬT LÝ
GIẾNG KHOAN VÀ THUỘC TÍNH ĐỊA CHẤN

Ngành: Kỹ thuật địa vật lý
Mã số: 62.52.05.02




TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT





Hà Nội - 2015
Công trình được hoàn thành tại: Bộ môn Địa Địa vật lý,
khoa Dầu khí, Trường Đại học Mỏ - Địa chất





Người Hướng Dẫn Khoa Học:
- PGS. TS. Nguyễn Văn Phơn
- TS. Nguyễn Huy Ngọc





-Phản biện 1: TS. Hoàng Ngọc Đang – Tổng công ty Thăm dò
Khai thác Dầu khí (PVEP)
-Phản biện 2: TS. Phan Từ Cơ – Hội Dầu khí Việt Nam
-Phản biện 3 : TS. Nguyễn Thanh Tùng – Viện Dầu khí Việt Nam









Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia – Hà Nội
Hoặc Thư viện Trường Đại học Mỏ - Địa chất
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, dầu khí đã được tìm thấy ngày càng nhiều hơn
trong các đá móng nứt nẻ khác nhau trên thế giới. Tại Việt Nam nhiều mỏ dầu đã
được phát hiện và khai thác trong móng granitoid nứt nẻ như các mỏ: Bạch Hổ,
Rồng, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Nâu, Cá Ngừ Vàng, Rạng Đông, Phương
Đông, Hải Sư Đen, Diamond, Ruby, Hổ Xám South, Thăng Long, Đông Đô, Đồi
Mồi, Kình Ngư Trắng, Kình Ngư Trắng Nam, Kình Ngư Vàng Nam. Tiềm năng dầu
khí còn lại ở bể Cửu Long là rất lớn, trong khi đó mỏ lại nhỏ, hệ thống nứt nẻ phức
tạp dẫn đến việc khoan thăm dò thẩm lượng và khai thác gặp nhiều rủi ro (ví dụ như
Rạng Đông, Phương Đông, Cá Ngừ Vàng, Azurite, Hổ Xám và Hải Sư Đen). Có
nhiều nguyên nhân mà trong đó nổi bật nhất là do khoan không vào các đới nứt nẻ
tốt của mỏ gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Chính vì thế việc nghiên cứu để dự đoán hệ
thống nứt nẻ là rất cần và cấp thiết. Để góp phần giải quyết nhu cầu cấp thiết trên,
NCS đã chọn đề tài luận án nghiên cứu sinh “Đặc điểm nứt nẻ trong đá móng
granitoid mỏ Hải Sư Đen trên cơ sở phân tích tổng hợp tài liệu ĐVLGK và thuộc
tính địa chấn”. Đây là một công trình nghiên cứu thực tiễn, có tính cấp thiết cao, sẽ
đóng góp nhất định trong sản xuất và nghiên cứu và góp phần đảm bảo sản lượng
dầu khí trong những năm tới.
Để thực hiện đề tài luận án, NCS tập trung phân tích, đánh giá các công trình
nghiên cứu hiện có, nêu ra các vấn đề còn tồn tại trong công tác nghiên cứu đặc điểm
nứt nẻ của đá móng granitoid tại bể Cửu Long nói chung và mỏ Hải Sư Đen nói
riêng nhằm định hướng cho các công việc sẽ giải quyết của luận án: lựa chọn các
phương pháp hiện đại nghiên cứu đá chứa móng nứt nẻ và xây dựng mô hình độ
rỗng nứt nẻ cho móng ở mỏ Hải Sư Đen.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu đặc tính nứt nẻ của đá móng dựa trên
tài liệu địa chất, địa vật lý giếng khoan và tài liệu địa chấn, từ đó lựa chọn phương
pháp và tiến hành xây dựng mô hình độ rỗng trong đá móng nứt nẻ của mỏ Hải Sư
Đen – bể Cửu Long.
3. Nhiệm vụ của luận án

Để đạt được mục đích đã nêu trên các nhiệm vụ cần được giải quyết bao gồm:
- Tìm hiểu tính chất của nứt nẻ trong đá móng granitoid, cơ chế hình thành và
ảnh hưởng của chúng lên tài liệu ĐVLGK và địa chấn.
- Tổ hợp tài liệu địa chất, địa vật lý giếng khoan, địa chấn và quan sát thực địa
để làm sáng tỏ sự tồn tại của hệ thống nứt nẻ chứa dầu khí trong đá móng
granitoid mỏ Hải Sư Đen.
- Nghiên cứu áp dụng các phương pháp mô hình hóa nhằm tổ hợp và lựa chọn
các thuộc tính địa chấn với kết quả phân tích tổng hợp tài liệu địa vật lý giếng
khoan, đo kiểm tra khai thác (PLT), để xây dựng mô hình độ rỗng chứa dầu
khí trong đá móng granitoid trong khu vực nghiên cứu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và cơ sở tài liệu
2

Phạm vi nghiên cứu là vùng mỏ Hải Sư Đen thuộc Lô 15-2/01, nằm ở sườn
Tây Bắc bể Cửu Long. Đối tượng nghiên cứu chính là đá móng granitoid.
Tài liệu dùng trong luận án bao gồm:
- Tài liệu địa chất bể Cửu Long.
- Tài liệu địa chấn 3D xử lý bằng CBM (controlled beam migration) và
APSDM (Anistropy pre stack depth migration) năm 2009 của mỏ Hải Sư
Đen.
- Tài liệu địa vật lý giếng khoan của 7 giếng: HSD-1X, HSD-2X/ST, HSD-3X,
HSD-4X, HSD-5X, VD-1X, VD-2X, đo kiểm tra khai thác, thử vỉa tại khu
vực mỏ Hải Sư Đen.
- Các tài liệu nghiên cứu địa chất và kiến tạo lô 15-2/01.
5. Nội dung nghiên cứu
Tổng hợp tài liệu địa chất, kiến tạo, địa vật lý và giếng khoan ở khu vực mỏ Hải
Sư Đen nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm địa chất, địa vật lý, cơ chế hình thành và
biến đổi của nứt nẻ trong móng mỏ Hải Sư Đen.
Phân tích, minh giải tài liệu địa vật lý giếng khoan và mẫu lõi để xác định độ
rỗng nứt nẻ trong đá móng của các giếng khoan khu vực mỏ Hải Sư Đen.

Minh giải tài liệu địa chấn 3D và phân tích khả năng của các thuộc tính địa
chấn trong dự báo nứt nẻ mỏ Hải Sư Đen.
Ứng dụng các phần mềm hiện có (Petrel) để lựa chọn tổ hợp tối ưu các thuộc
tính địa chấn trong xây dựng mô hình độ rỗng nứt nẻ cho đá móng granitoid.
Nghiên cứu tích hợp các kết quả minh giải độ rỗng từ tài liệu giếng khoan và
phân tích thuộc tính địa chấn kết hợp với các thông tin địa chất và kiến tạo trong
vùng bằng phương pháp kết hợp các công cụ toán học: địa thống kê và mạng nơron.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tổng hợp tài liệu địa vật lý giếng khoan, đo kiểm tra khai thác, thử
vỉa trong khu vực nghiên cứu để xác định đặc điểm của các hệ thống nứt nẻ,
tính toán độ rỗng.
- Phân tích tổ hợp tài liệu địa chấn ba chiều (thuộc tính địa chấn) với tài liệu địa
vật lý giếng khoan để xác định sự phân bố và đặc tính của các đới nứt nẻ
trong móng granitoid.
- Xây dựng mô hình độ rỗng bằng cách kết hợp phương pháp mạng nơron
nhân tạo ANN và thuật toán địa thống kê Co-Kriging.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học: Làm sáng tỏ khả năng, công nghệ và kỹ thuật áp dụng các
phương pháp minh giải địa chấn hiện đại (thuộc tính địa chấn) tích hợp với phân
tích tài liệu địa vật lý giếng khoan và các tài liệu địa chất – kiến tạo khác để xây
dựng được mô hình độ rỗng nứt nẻ trong đá móng granitoid.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ đặc điểm phân bố các đới nứt nẻ và
xây dựng mô hình độ rỗng trong đá móng granitoid, từ đó giúp nâng cao hiệu quả
khai thác dầu khí ở mỏ Hải Sư Đen. Các kết quả nghiên cứu của luận án không chỉ
cung cấp thông tin bổ sung phục vụ trực tiếp cho việc khai thác dầu khí ở mỏ Hải Sư
3

Đen, mà còn có thể ứng dụng để nghiên cứa cho các mỏ khai thác dầu khí trong đá
móng nứt nẻ bể Cửu Long.
8. Các luận điểm bảo vệ

Luận điểm 1: Đá móng ở mỏ Hải Sư Đen là khối đá magma đa khoáng, bị xuyên
cắt bởi các đai mạch phun trài, tồn tại các đới nứt nẻ rất phức tạp. Các đới nứt nẻ
trong móng có những đặc điểm riêng biệt thể hiện qua tài liệu địa vật lý giếng khoan
và các thuộc tính địa chấn. Với tài liệu địa chấn thu được từ công nghệ thu nổ và xử
lý hiện đại, lựa chọn các thuộc tính địa chấn cần thiết để tích hợp với tài liệu địa vật
lý giếng khoan, cho phép ta không những phát hiện, khoanh định các đới nứt nẻ
trong đá móng granitoid mà còn dự đoán cả các đặc điểm của chúng như phương
phát triển và hướng cắm.
Luận điểm 2: Phép kết hợp giữa phương pháp mạng nơron nhân tạo (ANN) và
phương pháp địa thống kê (Co-Kriging) và khả năng tổ hợp có trọng số các thuộc
tính địa chấn, kết quả minh giải tài liệu địa vật lý giếng khoan và các thông tin địa
chất – kiến tạo có được trong vùng nghiên đã cho phép xây dựng được mô hình độ
rỗng nứt nẻ trong đá móng granitoid mỏ Hải Sư Đen với độ chính xác và độ tin cậy
cao.
9. Những điểm mới của luận án
Mô hình độ rỗng nứt nẻ trong móng granitoid mỏ Hải Sư Đen đã được xây dựng
bằng phương pháp mạng nơron nhân tạo và phương pháp địa thống kê. Mô hình có
sự phù hợp tốt với kết quả khoan, minh giải tài liệu địa vật lý giếng khoan và thử vỉa.
Khẳng định khả năng và vai trò quan trọng của các thuộc tính địa chấn và tài liệu địa
vật lý giếng khoan trong nghiên cứu các hệ thống nứt nẻ trong móng granitoid mỏ
Hải Sư Đen và các khu vực khác có các đặc điểm địa chất dầu khí tương tự.
10. Bố cục của luận án
Nội dung luận án bao gồm: phần mở đầu, 4 chương , kết luận và kiến nghị, danh
sách tài liệu tham khảo và các công trình khoa học. Toàn bộ luận án được trình bày
trong 137 trang đánh máy khổ giấy A4, 132 hình vẽ, 4 biểu bảng và 32 tài liệu tham
khảo.
Chương 1 - ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT - ĐỊA VẬT LÝ VÙNG NGHIÊN CỨU
TRONG KHUNG CẤU TRÚC BỂ CỬU LONG
Cấu tạo Hải Sư Đen thuộc lô 15-2/01 nằm ở sườn Tây Bắc bể Cửu Long, đây là bể
trầm tích chứa dầu khí quan trọng nhất cho tới thời điểm hiện tại của Việt Nam.

Trong khu vực bể đã tiến hành khảo sát địa chấn 2D và 3D với khối lượng rất lớn,
khoan tổng cộng hơn 500 giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác, phát hiện
18 mỏ trong đó có 11 mỏ đang được khai thác (Bạch Hổ, Sư Tử Đen, Cá Ngừ Vàng,
Rồng…) với tổng sản lượng khai thác cộng dồn đạt 344,8 triệu m
3
dầu quy đổi tính
đến thời điểm hiện tại. Ngoài ra tại đây còn tồn tại rất nhiều các phát hiện và cấu tạo
tiềm năng đang được tiến hành thẩm lượng và thăm dò.
1.1. Vị trí địa lý
Bể Cửu Long nằm ngoài khơi thềm lục địa Nam Việt Nam và một phần đất liền
thuộc khu vực cửa sông Cửu Long. Bể có hình bầu dục, vồng ra về phía biển và nằm
4

dọc theo bờ biển Vũng Tàu - Bình Thuận, được giới hạn trong khung tọa độ địa lý từ
9
0
đến 11
0
vĩ Bắc và từ 106
0
30’ đến 109
0
kinh Đông. Bể Cửu Long tiếp giáp với đất
liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn Sơn bởi đới nâng Côn Sơn, phía
Tây Nam là đới nâng Khorat - Natuna và phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa
ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể có diện tích khoảng 36.000 km
2
, bao gồm các lô:
01&02, 01&02/97, 15-1/01, 15-1/05, 15-2, 15-2/01; 16-1/03, 16-1, 16-2, 09-1, 09-2,
09-2/09, 09-3, 17 và một phần các lô: 127, 01&02/10, 25 và 31.

1.2. Lịch sử tìm kiếm thăm dò
Quá trình tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí ở bể Cửu Long bắt đầu từ những
năm trước 1975 với các hoạt động khảo sát, thăm dò khu vực. Ở khu vực lô 15-2/01
nói chung và cấu tạo Hải Sư Đen đã có hai nhà thầu dầu khí JVPC (từ năm 1994) và
Thăng Long JOC (từ 2005) lần lượt triển khai hoạt động tìm kiếm thăm dò. Cho đến
thời điểm hiện nay lịch sử tìm kiếm thăm dò ở bể Cửu Long có thể chia thành 4 giai
đoạn:
 Giai đoạn trước năm 1975: là giai đoạn tạo nền tảng phát triển cho quá trình
tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí. Thời kỳ này bắt đầu bằng khảo sát địa vật
lý mang tính chất khu vực như từ, trọng lực và địa chấn để phân chia các lô,
chuẩn bị cho công tác đấu thầu và ký kết các hợp đồng dầu khí
 Giai đoạn 1975-1980: được đánh dấu bằng việc công ty địa vật lý CGG của
Pháp đã tiến hành khảo sát 1.210,9 km tuyến địa chấn 2D theo các con sông của
đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu-Côn Sơn, xác định được
sự tồn tại của bể Cửu Long với một lát cắt dày của trầm tích Đệ Tam. Tiếp đó,
măm 1978, công ty Geco của Nauy đã thu nổ 11.898,5 km tuyến địa chấn 2D
trên các lô 09, 10, 16, 19, 20, 21 và làm chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng
lưới tuyến 2x2km và 1x1km. Riêng đối với lô 15, Công ty Deminex đã hợp đồng
với Geco khảo sát 3.221,7 km tuyến địa chấn 2D với mạng lưới 3,5x3,5km trên
lô 15 và cấu tạo Cửu Long (nay là Rạng Đông). Căn cứ vào kết quả minh giải tài
liệu địa chấn này Deminex đã khoan 4 giếng khoan tìm kiếm trên các cấu tạo
triển vọng nhất là Trà Tân (15-A-1X), Sông Ba (15-B-1X), Cửu Long (15-C-1X)
và Đồng Nai (15-G-1X). Kết quả khoan đã cho thấy các giếng này đều gặp các
biểu hiện dầu khí trong cát kết tuổi Mioxen sớm và Oligoxen, nhưng với dòng
dầu yếu, không có ý nghĩa công nghiệp.
 Giai đoạn 1980-1988: là giai đoạn mà công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở
thềm lục địa Việt Nam triển khai rộng khắp, nhưng tập trung chủ yếu vào một
đơn vị là xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt-Xô. Năm 1980 tàu nghiên cứu
POISK đã tiến hành khảo sát 4.057 km tuyến địa chấn 2D điểm sâu chung, và
3.250 km tuyến từ, trọng lực và đã xây dựng được một số sơ đồ cấu tạo dị

thường từ và trọng lực Bouguer. Năm 1981 tàu nghiên cứu Iskatel đã tiến hành
khảo sát địa vật lý với mạng lưới 2x2, 2-3x2-3 km địa chấn 2D MOB-OGT-48,
trọng lực, từ ở phạm vi lô 09, 15 và 16 với tổng số 2.248 km. Năm 1983-1984
tàu viện sĩ Gamburxev đã tiến hành khảo sát 4.000 km tuyến địa chấn 2D để
nghiên cứu phần sâu nhất của bể Cửu Long. Trong thời gian này xí nghiệp liên
5

doanh dầu khí Việt-Xô đã khoan 4 giếng trên các cấu tạo Bạch Hổ và Rồng: R-
1X, BH-3X, BH-4X, BH-5X và giếng khoan TĐ-1X trên cấu tạo Tam Đảo. Trừ
giếng khoan TĐ-1X, tất cả 4 giếng còn lại đều phát hiện vỉa dầu công nghiệp từ
các vỉa cát kết Mioxen dưới và Oligoxen (BH-4X). Cuối giai đoạn 1980-1988
được đánh dấu bằng việc Vietsovpetro đã khai thác những tấn dầu đầu tiên từ hai
đối tượng Mioxen, Oligoxen dưới của mỏ Bạch Hổ vào năm 1986 và phát hiện
ra dầu trong đá móng granite nứt nẻ vào tháng 9 năm 1988.
 Giai đoạn 1988- ngày nay: là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của công tác
tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở bể Cửu Long. Song song với đó là sự
ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Dầu khí, hàng loạt các công ty dầu
nước ngoài đã ký hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc cùng đầu tư vào các lô mở
và có triển vọng tại bể Cửu Long. Khảo sát địa chấn 3D được tiến hành trên hầu
hết các diện tích có triển vọng và trên tất cả các vùng mỏ đã phát hiện.Trong lĩnh
vực xử lý tài liệu địa chấn 3D có những tiến bộ rõ rệt khi áp dụng quy trình xử lý
dịch chuyển thời gian và độ sâu trước cộng (PreSTM, PreSDM). Tính đến cuối
năm 2010 tại bể trầm tích Cửu Long đã phân ra 18 lô hợp đồng, khoan tổng cộng
hơn 500 giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác, phát hiện tổng cộng 18
mỏ trong đó có 11 mỏ đang được khai thác (Bạch Hổ, Sư Tử Đen, Cá Ngừ
Vàng, Rồng…) với tổng sản lượng khai thác cộng dồn đạt khoảng 280 triệu tấn
dầu quy đổi, cùng nhiều phát hiện và các cấu tạo triển vọng. Tính đến thời điểm
hiện tại, có tất cả hơn 58.000 km địa chấn 2D và hơn 15.000 km
2
địa chấn 3D đã

được thu nổ trên khu vực bể Cửu Long
1.3. Đặc điểm địa chất, kiến tạo
1.3.1. Lịch sử phát triển địa chất
Trên bình đồ kiến tạo khu vực hiện tại, bể Cửu Long nằm về phía nam của phần
đông nam mảng Âu-Á. Đây là bể trầm tích kiểu tách giãn (rift) phát triển miền vỏ
lục địa có tuổi trước Đệ Tam bị thoái hóa mạnh trong thời kỳ Paleogen và chuyển
sang chế độ rìa lục địa thụ động như ngày nay bắt đầu từ thời kỳ Neogen. Lịch sử
phát triển địa chất của bể có thể chia ra 3 thời kỳ: 1) Trước tạo rift (Pre-rift): thành
tạo tầng móng trước Đệ Tam; 2) Đồng tạo rift (Syn-rift) trong Paleogen đến đầu
Neogen thành tạo các trầm tích của tập F(?)/E, D, C và B1; 3) Sau tạo rift: từ Neogen
đến hiện nay, thành tạo các trầm tích tập B2, B3 và A.
1.3.2. Các pha biến dạng hình thành các đứt gãy, đới phá hủy trong móng khu
vực Hải Sư Đen.
Tương ứng với thời kỳ lịch sử phát triển kiến tạo, trong bể Cửu Long và vùng lân
cận, xác định được các giai đoạn biến dạng chính từ Jura đến hiện này gồm 4 giai
đoạn: (D1) Giai đoạn Jura sớm-giữa; (D2) Giai đoạn Jura muộn-Kreta; (D3) Giai
đoạn Paleogen-Neogen sớm và (D4) từ Neogen đến hiện nay.
Trong khu vực mỏ Hải Sư Đen, hoạt động kiến tạo gây nên các đứt gãy chủ yếu
diễn ra trong giai đoạn (D3). Các pha tách giãn D3.1, D3.3 và D3.5 tạo nên các đứt
gãy thuận, đồng trầm tích và các bán địa hào. Các pha nén ép D3.2, D3.4 và D3.6
tạo nên các đứt gãy trượt bằng, các đứt gãy thuận, các đứt gãy nghịch và các thành
6

tạo trầm tích bị uốn nếp. Hầu hết các đứt gãy hoạt động mạnh trong D3.4, D3.6 và
các đứt gãy hoạt động từ trước trong D3.1 và D3.2 đều tái hoạt động lại trong các
pha đứt gãy này.Trường ứng suất kiến tạo qua các giai đoạn trong khu vực này về cơ
bản cũng xảy ra như ở bể Cửu Long ngoại trừ pha D3.4, có sự xoay trục nén ép từ
phương tây bắc-đông nam sang phương kinh tuyến (bắc nam) ở khu vực HSĐ và
phương vĩ tuyến (đông tây) ở khu vực cấu tạo Gió Đông. Tác động vào móng mạnh
nhất là trường ứng suất kiến tạo D3.2 có phương nén ép TB-ĐN tạo ra các hệ thống

đứt gãy trượt bằng có đường phương theo phương kinh tuyến và vĩ tuyến, hệ thống
đứt gãy nghịch đường phương theo phương đông bắc-tây nam. Trong pha D3.4,
trường ứng suất kiến tạo tại khu vực HSĐ có phương kinh tuyến, mang tính cục bộ
so với hướng chung của toàn bể là tây bắc-đông nam hình thành các hệ thống đứt
gãy theo phương tây bắc-đông nam, kinh tuyến và vĩ tuyến
1.3.3. Cấu trúc địa chất khu vực
Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn Sơn
ở phía đông nam bằng đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat -
Natuna và phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể
Cửu Long được xem là bể trầm tích Kainozoi khép kín điển hình của Việt Nam. Tuy
nhiên, nếu tính theo đường đẳng dày trầm tích 1000m thì bể có xu hướng mở về phía
đông bắc. Theo tài liệu Địa chất và Tài Nguyên Dầu Khí Việt Nam, 2007 [15], bể
Cửu Long được xác định là đơn vị cấu trúc bậc I. Đơn vị cấu trúc bậc I này được
chia thành các đơn vị cấu trúc bậc II bao gồm: 1) Trũng phân dị Bạc Liêu, 2) Trũng
phân dị Cà Cối, 3) Đới nâng Cửu Long, 4) Đới nâng Phú Quý và 5) Trũng chính bể
Cửu Long.
1.3.4. Địa tầng khu vực nghiên cứu
Theo tài liệu khoan, địa tầng được mở ra của bể Cửu Long gồm đá móng cổ trước
Kainozoi và trầm tích lớp phủ Kainozoi.
1.3.5. Hệ thống dầu khí.
1.3.5.1. Đặc điểm tầng sinh. Bể Cửu Long tồn tại 2 tầng đá mẹ: trầm tích tuổi
Oligoxen và Mioxen sớm
1.3.5.2. Đặc điểm đá chứa. Đá chứa Bể Cửu Long bao gồm: cát kết tuổi Mioxen,
Oligoxen và đá móng granitoid nứt nẻ trước Đệ Tam
1.3.5.3. Đặc điểm đá chắn
Đá chắn dầu khí ở bể Cửu Long được xem là những vỉa hoặc tập sét nằm trong
khoảng địa tầng từ Mioxen tới Oligoxen, bao gồm 1 tầng chắn khu vực và 3 tầng
chắn địa phương.
1.3.5.4. Đặc điểm bẫy chứa. Bẫy chứa dầu khí ở bể Cửu Long bao gồm: bẫy cấu
trúc, bẫy phi cấu tạo và bẫy hỗn hợp

1.3.5.5. Thời gian dịch chuyển dầu khí
- Tại đáy tập E (Oligoxen dưới), đá mẹ chủ yếu đang trong pha sinh dầu & khí ẩm-
condensat ngoại trừ phần nhỏ thuộc trũng Đông Bắc và trũng Tây Bạch Hổ (độ
sâu vượt 5800m). Trong khi đó tại nóc tập D, C (Oligoxen trên) đá mẹ đang trong
pha sinh dầu.
7

- Dầu khí di cư mạnh theo phương thẳng đứng qua các đứt gãy lớn tới tầng chứa
phía trên hoặc dịch chuyển dọc tầng theo vỉa cát xen kẹp trong chính tầng đá mẹ
hoặc theo các tập tiếp xúc trực tiếp với tầng sinh.
- Bẫy được hình thành chủ yếu trong giai đoạn tạo rift và đầu giai đoạn sau rift
(Mioxen sớm), sớm hơn với giai đoạn sinh mạnh và di
cư chính của dầu, khí.
Chương 2 – PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH HÓA ĐỘ RỖNG NỨT NẺ TRONG
ĐÁ MÓNG MỎ HẢI SƯ ĐEN
2.1. Tổng quan về đá móng nứt nẻ.
Móng granitoid nứt nẻ là đối tượng chứa dầu đặc biệt trong bể Cửu Long nói chung
và của cấu tạo Hải Sư Đen nói riêng. Bản thân đá granitoid không có độ rỗng nguyên
sinh, và không có độ thấm. Các quá trình địa chất trong và sau tạo đá hình thành các
nứt nẻ, hang hốc, vi rãnh rửa lũa và đặc biệt là các nứt nẻ mở đã tạo độ rỗng và độ
thấm thứ sinh hình thành nên "tầng chứa móng granit nứt nẻ" với độ rỗng trung bình
1-3%, độ thấm lên tới hàng nghìn mD tại các đới nứt nẻ tốt.
2.1.1. Hiện trạng và phương pháp nghiên cứu đá móng nứt nẻ
Hiện trạng: dầu khí trong đá móng nứt nẻ đã được phát hiện trong những năm
đầu của thế kỷ 20. Cho đến nay, dầu khí đã được phát hiện ở hơn 30 nước trên thế
giới tại hầu hết các châu lục và trong hầu hết các loại đá móng, từ những đá trẻ
granite tuổi Mezozoi (tại bồn trũng Cửu Long hoặc các khu vực khác thuộc đông
nam Châu Á) cho đến những trầm tích biến chất tiền Cambri (một số mỏ thuộc
Trung Đông như Azura, Libi) hay trong những đá cổ nhất tuổi Proterozoi (ở khu vực
Đông Xibieri). Một số ví dụ điển hình của dầu khí được tìm thấy trong đá móng có

thể kể đến như: bể trầm tích ở Argentina (Cuyo và Neuquen), bể trầm tích ở Yemen
(DNO lô 43, Nexen lô 14, Total lô 10, ONV lô S2), bể trầm tích ở Việt Nam (Cửu
Long) Dầu khí được phát hiện trong đá móng, ở các loại đá từ trầm tích biến chất
mức độ thấp cho đến các trầm tích biến chất mức độ cao hay trong các loại đá
magma. Tính chất cho dòng trong các nhóm đá móng khác nhau cũng khác nhau,
trong đó khả năng cho dòng lớn nhất là đối tượng đá móng granitoid nứt nẻ. Một số
mỏ điển hình của nhóm đá móng granitoid trên thế giới có thể kể đến như: đá móng
granitoid có tuổi Mezozoi thuộc mỏ Kora của New Zealand.
Tại Việt Nam, các mỏ lớn trong đối tượng đá móng garnitoid nứt nẻ có thể kể
đến như: đá móng granitoid trước Đệ Tam tại các mỏ Bạch Hổ, Rồng, Sư Tử Đen,
Sư Tử Trắng, Sư Tử Vàng, Hải Sư Đen, Cá Ngừ Vàng, Phương Đông, Rạng Đông
Dầu chứa trong đá móng lớn nhất thuộc về bể Cửu Long, tiềm năng ước tính 6.400
triệu thùng. Cho đến nay đã phát hiện 25 cấu tạo trong tổng số 42 cấu tạo được
khoan thăm dò đến đối tượng móng, trong đó 16 cấu tạo được đưa vào phát triển.
Các phương pháp nghiên cứu: việc nghiên cứu đá móng ở Việt Nam mới chỉ
ở mức độ nghiên cứu sự hình thành nứt nẻ, dự đoán sự tồn tại của các đới nứt nẻ,
đặc tính thấm chứa và các nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng thấm chứa của đá
móng nứt nẻ. Công tác tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trong đá móng nứt nẻ
hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc minh giải, dự đoán sự phân bố và đặc
8

tính chấm chứa của các đới nứt nẻ. Mặc dù dầu khí trong đá móng là rất tiềm năng,
nhưng việc tìm kiếm, phân tích, đánh giá trữ lượng thu hồi của các mỏ này lại rất
khó khăn do tính chất phức tạp của đá móng. Có một số trường hợp mặc dù ban đầu
mỏ cho sản lượng rất cao, nhưng lại giảm xuống rất nhanh. Nguyên nhân là do chưa
phân tích, đánh giá, và nắm bắt được hệ thống độ rỗng, tính chất lưu thông của dầu.
Vì vậy việc xây dựng mô hình độ rỗng cho đá móng nứt nẻ là rất cần thiết trong việc
đánh giá tiềm năng cũng như trữ lượng của các mỏ dạng này.
Việc xây dựng mô hình độ rỗng trong đá móng hiện nay có 3 phương pháp
chính đó là phương pháp Halo, phương pháp DFN (Discrete Fracture Network),

phương pháp ANN (Artificial Neural Network) đang được ứng dụng. Mỗi phương
pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Bên cạnh đó, việc chọn lựa
phương pháp cho việc xây dựng mô hình còn bị khống chế bởi chất lượng và số
lượng của số liệu đầu vào.
2.1.2. Cơ chế hình thành nứt nẻ trong đá móng granitoid
Các nứt nẻ hình thành trong đá cứng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau,
hay tổng hợp của một số nguyên nhân nào đó. Các nguyên nhân chính bao gồm: sự
đông nguội và co rút thể tích của khối magma, quá trình phá hủy do kiến tạo, hoạt
động nhiệt dịch, quá trình phong hóa, mối quan hệ giữa tuổi của nứt nẻ và thời gian
sinh dầu khí.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng chứa của đá móng nứt nẻ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thấm chứa của đá móng bao gồm thành
phần thạch học - khoáng vật, các biến đổi nhiệt dịch, hoạt động kiến tạo và độ sâu,
hoạt động magma trẻ (volcanic activity), mối quan hệ giữa quá trình hình thành nứt
nẻ và dịch chuyển dầu khí. Những yếu tố này đã tác động tương hỗ quyết định đến
chất lượng tầng chứa mà trong đó quá trình phá vỡ kiến tạo chính là nguyên nhân
quan trọng nhất.
2.2. Đặc điểm địa chất - kiến tạo tầng chứa granitoid ở cấu tạo Hải Sư Đen.
2.2.1. Đặc điểm hình thái cấu trúc móng
Nóc móng trước Kainozoi của cấu tạo Hải Sư Đen là một cấu trúc nâng có
đường khép kín 4100m, kéo dài theo phương đông bắc-tây nam với chiều dài
khoảng 16km, chiều rộng khoảng 5,3km, mở rộng về phía tây bắc, nam, đông nam
và thu hẹp dần lại về phía đông bắc. Khối nâng móng bị chia cắt bởi các đứt gãy có
phương á vĩ tuyến, tây bắc - đông nam và đông bắc - tây nam. Tại khu vực phía Tây
Nam, bề mặt nóc móng nằm thấp hơn phần còn lại và được tách biệt bởi hệ thống
đứt gãy phương á vĩ tuyến. Phủ trên móng trước Kainozoi ở khu vực này là các trầm
tích có tuổi từ Oligoxen (tập E) đến Đệ Tứ (tập A).
2.2.2. Thành phần thạch học
Tham gia vào cấu trúc địa chất cấu tạo Hải Sư Đen bao gồm các đá móng
granitoid tuổi Mesozoi muộn và lớp phủ trầm tích, trầm tích-phun trào Cenozoi

(gồm các tập địa chấn E, D, C, BI, BII, BIII & A). Theo kết quả phân tích thạch học
các mẫu lấy từ 8 giếng khoan cho thấy các đá granitoid trong móng Hải Sư Đen chủ
9

yếu là monzogranite và granodiorite. Ngoài ra còn gặp các đai mạch trung tính
xuyên cắt qua đá móng.
2.2.3. Hệ thống đứt gãy
Kết quả minh giải tài liệu địa chấn cho thấy trong móng của cấu tạo Hải Sư
Đen tồn tại 03 hệ thống đứt gãy chính được phân chia theo đường phương và loại
đứt gãy, bao gồm hệ thống đường phương Đông Bắc – Tây Nam; vĩ tuyến và á vĩ
tuyến (Đông – Tây); và hệ thống đường phương Tây Bắc - Đông Nam
2.3. Các phương pháp nghiên cứu đặc điểm nứt nẻ trong đá móng.
Có nhiều phương pháp nghiên cứu đặc điểm và tiếp cận xây dựng mô hình độ
rỗng đá chứa nứt nẻ khác nhau. Trong nghiên cứu này, NCS sử dụng một số phương
pháp cổ điển kết hợp với hiện đại như phương pháp địa chất, phương pháp địa vật lý
giếng khoan, phương pháp địa chấn và các phương pháp toán học: mạng nơron nhân
tạo (ANN) và phương pháp địa thống kê (Co-Kriging).
2.3.1. Các phương pháp địa chất: Phương pháp địa chất nghiên cứu nứt nẻ bao
gồm nghiên cứu mẫu lõi, đo vẽ trên thực địa và ảnh hàng không/vệ tinh.
2.3.2. Các phương pháp Địa Vật Lý Giếng Khoan: các phương pháp địa vật lý
giếng khoan bao gồm phương pháp gamma tự nhiên và phổ gamma tự nhiên, các
phương pháp xác định độ rỗng từ phương pháp âm (sonic log), phương pháp
neutron (Neutron log) và các phương pháp quét hình ảnh thành giếng khoan (FMI
và Sonic Scanner)
2.3.3. Các phương pháp Địa chấn: tại mỏ Hải Sư Đen các tài liệu địa chấn ba
chiều đã được thu nổ và xử lý bằng những công nghệ hiện đại bao gồm: cáp thu dài
(6000m), bội cộng lớn (80), chiều sâu đặt nguồn và cáp thích hợp để nâng cao tần số
thấp của tín hiệu, mật độ thu nổ lớn (6.25 x 18.75m), và xử lý bằng dịch chuyển bất
đẳng hướng chiều sâu trước cộng bằng cả hai phương pháp Kirchhoff và chùm tia
(3D Kirchhoff APSDM và 3D CBM) nên phản xạ từ các đới nứt nẻ sinh kèm với

đứt gãy trong móng được thể hiện khá rõ. Tuy nhiên do khả năng chống nhiễu cao
và các đới nứt nẻ trong móng được đặc trưng bởi độ cứng âm học (AI) thấp, tài liệu
địa chấn đã được xử lý thêm bằng giải ngược địa chấn tương đối sau cộng (Post-
stack inversion) trước khi nghiên cứu thuộc tính địa chấn ở khu vực mỏ Hải Sư Đen
nhằm nâng cao tính chính xác và độ tin tưởng của tài liệu đầu vào [26]. Các thuộc
tính địa chấn có thể dùng để nghiên cứu nứt nẻ trong nghiên cứu này bao gồm:
thuộc tính trở kháng âm tương đối (Relative Acoustic Impedance), thuộc tính biên
ngoài (Envelope), thuộc tính biến đổi (Variance), thuộc tính Sweetness, thuộc tính
cường độ phản xạ (Reflection Intensity), thuộc tính côsin của pha (Cosine of Phase),
thuộc tính biển đổi độ lớn gradient (Gradient Magnitude), thuộc tính biên độ trung
bình bình phương (RMS), thuộc tính theo dấu vết (Ant tracking)
2.3.4. Các phương pháp toán học để tổ hợp số liệu
Phương pháp mạng nơ-ron (ANN): Mạng nơ-ron được ứng dụng trong phân
tích và minh giải tài liệu địa chất-địa vật lý; phân tích và đánh giá rủi ro; xây
dựng cơ sở dữ liệu, với mục đích nhằm: (i) giảm tối đa rủi ro trong tìm kiếm,
thăm dò dầu khí, (ii) giảm thiểu chi phí trong tìm kiếm, thăm dò và khai thác
10

(iii) nâng cao hệ số thu hồi dầu và kéo dài tuổi thọ cho giếng khai thác. Các
ứng dụng của mạng nơ-ron trong lĩnh vực dầu khí chủ yếu là trong xử lý, minh
giải tài liệu địa chấn và địa vật lý giếng khoan.
Phương pháp địa thống kê (Kriging và Co-Kriging): Kriging là 1 phương
pháp thống kê dùng để dự đoán/nội suy giá trị của các biến địa phương từ các
giá trị mẫu. Phép thống kê này là 1 hàm phi tuyến trung bình trọng số của các
giá trị đã biết. Trong ngành công nghiệp dầu khí thường có ít tài liệu cứng –
hard data, là những tài liệu chính xác và tin tưởng được xác định trực tiếp từ
giếng khoan, các tài liệu giếng khoan này thường ở cách xa nhau, nên việc nội
suy giữa chúng có thể không chính xác. Tuy nhiên lại có khá nhiều tài liệu
mềm – soft data, là các tài liệu không xác định trực tiếp từ giếng khoan (phần
lớn là từ tài liệu địa chấn và các tài liệu địa chấn khác). Co-Kriging tận dụng

cả 2 loại tài liệu này trong phương pháp thống kê.
2.4. Phương pháp, quy trình xây dựng mô hình độ rỗng nứt nẻ trong đá móng
mỏ HSĐ
2.4.1. Cơ sở dữ liệu: Tài liệu sử dụng trong nghiên cứu và xây dựng mô hình độ
rỗng móng nứt nẻ mỏ Hải Sư Đen bao gồm: báo cáo nghiên cứu địa chất; tài liệu
log, mẫu lõi, FMI, DST của các giếng HSD-1X, HSD-2X/ST, HSD-3X, HSD-4X,
HSD-5XP, VD-1X và VD-2X; các cube địa chấn PSTM 2007, Kirchhoff APSDM
2009, CBM APSDM 2009, cube giải ngược địa chấn (AI inversion).
2.4.2. Các bước thực hiện
Trong luận án này, NCS đề xuất
hướng nghiên cứu của mình theo
sơ đồ sau:

Hình 2.29: Sơ đồ biểu diễn các
bước thực hiện trong phương
pháp xây dựng mô hình độ rỗng
bằng phương pháp ANN và Co-
Kriging.



Chương 3 - ĐẶC ĐIỂM NỨT NẺ TRONG ĐÁ MÓNG GRANITOID MỎ
HẢI SƯ ĐEN THEO TÀI LIỆU ĐỊA VẬT LÝ
3.1. Đặc điểm nứt nẻ theo tài liệu Địa vật lý giếng khoan
"Tầng chứa móng granitoid nứt nẻ" ở khu vực mỏ Hải Sư Đen có thành phần
thạch học bao gồm đá granodiorite, granite, monzogranite Đôi khi gặp các đá xâm
nhập trẻ dạng đai mạch xuyên cắt, lấp đầy khoảng rỗng và các khe nứt trong móng.
Hoạt động biến đổi hậu magma cũng hình thành các khoáng vật thứ sinh trám đầy
khe nứt, ảnh hưởng đến khả năng thấm chứa của đá móng. Thông thường, phân biệt
thành phần thạch học của đá móng trên tài liệu địa vật lý giếng khoan và trên tài liệu

11

địa chấn là một việc khó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, với chất lượng tài liệu
được xử lý tốt, sự khác biệt về thành phần khoáng vật, thành phần hóa học cũng
được phản ánh trên các đường cong địa vật lý giếng khoan.



Hình 3.1: Đặc trưng đường cong Địa
vật lý giếng khoan đối với các loại đá
và khoáng vật khác nhau.

Bảng 3.1. Nhận biết các đới nứt nẻ và đá mạch trẻ thông qua đặc tính các đường
cong địa vật lý giếng khoan.

Trên cơ sở thống kê kết quả nghiên cứu trong móng của các giếng khoan trong móng
ở khu vực bể Cửu Long, đặc trưng về tính chất vật lý của các nhóm đá khác nhau
của tầng móng bể Cửu Long và các đới nứt nẻ mở được trình bày như sau:
12

Bảng 3.2: Đặc trưng vật lý các nhóm đá móng và các đới nứt nẻ bể Cửu Long
Loại đá
GR (API)
Density (g/cc)
Neutron (v/v)
Vp/Vs
Granite Aplite
180-245
2,55-2,62
0,01-0,03

1,66-1,70
Đá mạch
70-100
2,60-2,70
0,1-0,15
1,70-1,80
Monzogranite
120-159
2,55-2,70
0,03-0,09
1,60-1,80
Granodiorite
50-70
2,70-2,80
0,10-0,2
1,40-1,65
Đới nứt nẻ
100-123
2,54-2,60
0,06-0,08
1,80-1,90
Tài liệu ĐLVGK cho phép xác định đới nứt nẻ. Trên tài liệu FMI, các đới nứt
nẻ được xác định tại các độ sâu mà giá trị đường mật độ nứt nẻ của FMI cao (FMI
intensity). Minh giải tài liệu FMI trong khu vực mỏ Hải Sư Đen cho thấy hệ thống
nứt nẻ trong khu vực chủ yếu gồm ba loại chính: nứt nẻ liên tục, nứt nẻ không liên
tục và nứt nẻ tạo thành do quá trình hòa tan, trong đó nứt nẻ không liên tục chiếm ưu
thế. Hệ thống nứt nẻ liên tục và nứt nẻ tạo thành do quá trình hòa tan có phương
phân bố chủ yếu theo phương á vĩ tuyến và Tây Bắc – Đông Nam. Ngoài ra kết quả
minh giải FMI và độ rỗng từ các giếng khoan (HSD-2X, HSD-3X, HSD-4X và
HSD-5XP) còn cho thấy độ rỗng của các đới nứt nẻ này giảm dần theo chiều sâu.


Hình 3.2: Đặc trưng tổ hợp các
đường cong ĐVLGK của đá
granit, granodiorit và đới nứt nẻ.

Hình 3.3: Đặc trưng tổ hợp các đường
cong ĐVLGK của các đá mạch trẻ.

Hình 3.4: Đặc trưng tổ hợp các
đường cong ĐVLGK của các mạch
đá xâm nhập nông Aplit.



Hình 3.6: Biểu đồ thể hiện hướng dốc và
góc dốc theo phân loại hệ thống nứt nẻ
trên tài liệu FMI khu vực mỏ Hải Sư Đen
3.2. Đặc điểm nứt nẻ theo tài liệu Địa chấn
13

Trong đá móng nứt nẻ, các đới nứt nẻ
có vận tốc truyền sóng và mật độ thấp, giá
trị trở kháng âm AI giảm so với đá tươi
xung quanh, tạo nên độ tương phản giữa
đới nứt nẻ này với đá xung quanh, do đó có
thể phát hiện và quan sát thấy sự tương
phản này trên tài liệu địa chấn. Dựa trên
chất lượng và đặc điểm của tài liệu địa
chấn hiện có ở khu vực mỏ Hải Sư Đen,
theo tính toán lý thuyết độ rộng nhỏ nhất

của đới nứt nẻ có thể quan sát được trên tài
liệu địa chấn là khoảng 14m. Kết quả thống
kê thực tế cho thấy độ rộng của đới nứt nẻ
trong khu vực này tập trung trong khoảng từ 20 đến 30m. Trên cơ sở đó, phần lớn
các đứt gãy này có thể được quan sát và phát hiện được trên tài liệu địa chấn. Để
đánh giá chất lượng của tài liệu địa chấn trong móng, các phản xạ địa chấn từ các đới
nứt nẻ đã được liên kết với giếng khoan bằng địa chấn tổng hợp, kết quả cho thấy
phản xạ địa chấn từ các đới nứt nẻ tương đối trùng khớp với kết quả phân tích địa
chấn tổng hợp (systhetic seismogram).
Tài liệu địa chấn khu vực HSD được xử lý nhiều lần với các thuật toán khác
nhau (PSTM, Kirchoff APSDM, CBM), trong đó tài liệu CBM 2009 cho hình ảnh rõ
nhất trong móng, đặc biệt là các phản xạ địa chấn có góc nghiêng lớn liên quan đến
các đới nứt nẻ sinh kèm với đứt gãy trong móng. Để nâng cao thêm tỉ số tín
hiệu/nhiễu trong móng, tài liệu địa chấn gốc đã được xử lý thêm bằng giải ngược địa
chấn (Seismic Inversion). Do đó, việc phân tích thuộc tính địa chấn và xây dựng mô
hình độ rỗng trong nghiên cứu này sử dụng tài liệu địa chấn đầu vào là cube tài liệu
xử lý bằng giải ngược địa chấn (Acoustic Impedance Inversion).

Hình 3.13: Các cube địa chấn có
trong khu vực mỏ Hải Sư Đen.

Hình 3.14: Cube địa chấn Relative AI
từ cube CBM 2009 cho hình ảnh trong
móng tốt hơn so với cube CBM 2009
Thuộc tính trở kháng âm tương đối (Relative Acoustic Impedance): Trong
nghiên cứu này, thuộc tính trở kháng âm tương đối đóng vai trò quan trọng trong
việc xác định đặc tính các đới nứt nẻ. Về mặt vật lý, trở kháng âm học biểu diễn tính
Hình 3.11: Độ rộng của đới nứt nẻ
có thể quan sát được trên tài liệu địa
chấn khu vực mỏ Hải Sư Đen là

14m.

14

phân lớp (layer property), và được phân biệt với các thuộc tính khác thể hiện đặc
tính của mặt ranh giới (surface property). Do đó thuộc tính này giúp trực tiếp xác
định đặc điểm của đới nứt nẻ trong móng và chỉ ra các đặc trưng của móng nứt nẻ có
mật độ và vận tốc địa chấn thấp hơn so với móng tươi).

Hình 3.16: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể hiện
sự trùng khớp giữa kết quả minh giải độ
rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan
(đường màu đỏ) và thuộc tính Relative
AI
Thuộc tính biên ngoài (Envelope): Thuộc tính biên ngoài hay còn gọi là biên
độ tức thời có liên quan đến mức độ khác biệt về giá trị trở kháng âm giữa móng
tươi và móng nứt nẻ, và mật độ của đới nứt nẻ. Do đó thuộc tính Envelope không
những cho hình ảnh của đới nứt nẻ trong móng và còn giúp xác định đặc tính của
các đới nứt nẻ này. Hình bên dưới biểu diễn thuộc tính envelope trên một mặt cắt địa
chấn ở mỏ Hải Sư Đen. Trên mặt cắt có thể quan sát thấy các dị thường của giá trị
biên độ tức thời hiện diện ở một số khu vực và có xu hướng giảm dần theo chiều
sâu. Các đới có dị thường biên độ tức thời cao trùng với kết quả thử vỉa ở giếng
HSD-5XP.

Hình 3.19: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể hiện
sự trùng khớp giữa kết quả minh giải độ

rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan
(đường màu đỏ) và thuộc tính Envelope

Thuộc tính biến đổi (Variance): Thuộc tính biến đổi được xem là một dấu
hiệu điềm chỉ tốt cho đứt gãy và nứt nẻ trong lát cắt trầm tích và nóc móng do có thể
chỉ ra vị trí và phân bố của các đới không đồng nhất. Tuy nhiên đối với bên trong
móng nứt nẻ, thuộc tính này không phát huy thế mạnh do tín hiệu địa chấn bị ảnh
hưởng mạnh của nhiễu, các đới bất đồng nhất trong móng nứt nẻ do thuộc tính này
chỉ ra bao gồm cả đới nứt nẻ và nhiễu, dẫn đến độ tin cậy không cao.

Hình 3.22: Mặt cắt địa chấn dọc
theo giếng khoan HSD-5XP và các
mặt cắt ngang tại các độ sâu khác
nhau thể hiện sự trùng khớp giữa
kết quả minh giải độ rỗng từ tài liệu
địa vật lý giếng khoan (đường màu
đỏ) và thuộc tính Variance
15

Thuộc tính Sweetness: Thuộc tính Sweetness hàm chứa cả thông tin về biên
độ và tần số nên có thể chỉ ra sự tương phản giữa móng tươi và móng nứt nẻ, và
chiều dày của đới nứt nẻ. Nếu đới nứt nẻ trong móng có chiều dày lớn và độ tương
phản so với đá tươi xung quanh cũng lớn thì dị thường sweetness càng cao.

Hình 3.25: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể
hiện sự trùng khớp giữa kết quả minh
giải độ rỗng từ tài liệu địa vật lý
giếng khoan (đường màu đỏ) và thuộc

tính sweetness
Thuộc tính côsin của pha (Cosine of Phase ): Thuộc tính côsin của pha
có thể chỉ ra vị trí của các đới nứt nẻ trong móng, tuy nhiên không thể phân
định rõ ràng các đới có mật độ nứt nẻ khác nhau.

Hình 3.30: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể
hiện sự trùng khớp giữa kết quả minh
giải độ rỗng từ tài liệu địa vật lý
giếng khoan (đường màu đỏ) và thuộc
tính Cosine of phase.

Thuộc tính biển đổi độ lớn gradient (Gradient Magnitude): Thuộc tính độ lớn
biên độ giúp xác định vị trí các đứt gãy và các đới có mật độ nứt nẻ cao trong móng,
từ đó chỉ ra đặc tính của các đới này. Hình bên dưới cho thấy kết quả phân tích thuộc
tính này có thể khoanh vùng vị trí các đứt gãy và đới nứt nẻ trong móng.

Hình 3.34: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể hiện
sự trùng khớp giữa kết quả minh giải độ
rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan
(đường màu đỏ) và thuộc tính độ lớn
biên độ.

Thuộc tính biên độ trung bình bình phương (RMS): Thuộc tính này biểu
diễn giá trị căn bậc hai của trung bình tổng biên độ bình phương tại một điểm mẫu.
Thuộc tính biên độ RMS có thể giúp khoanh vùng các đới nứt nẻ trong móng. Tuy
nhiên thuộc tính này không cho phép phân biệt các đới nút nẻ với những đai mạch có

độ cứng âm học lớn hơn đá granite và không có khả năng hạn chế nhiễu phản xạ nhiều
lần trong móng.
16


Hình 3.37: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể hiện sự
trùng khớp giữa kết quả minh giải độ rỗng
từ tài liệu địa vật lý giếng khoan (đường
màu đỏ) và thuộc tính RMS amplitude
Thuộc tính theo dấu vết (Ant tracking): Thuộc tính lần theo vết được đánh giá
là một công cụ tốt để giúp đánh giá đặc tính của đứt gãy và hệ thống khe nứt cho cả
trầm tích và móng, bao gồm góc dốc, góc phương vị và mật độ của đới nứt nẻ. Tuy
nhiên rất khó để có thể tách biệt được các đới có mật độ nứt nẻ cao và thấp trong
móng, do bản chất của thuộc tính này sẽ làm bù biên độ cho các phản xạ địa chấn có
biên độ thấp (do biên độ giảm dần theo chiều sâu hoặc do bị hấp thụ năng lượng
sóng). Kết quả là Ant tracking không thể hiện được biên độ thực của phản xạ địa
chấn ở các đứt gãy/đới nứt nẻ, làm ảnh hưởng đến tính chính xác của mô hình độ
rỗng trong các bước nghiên cứu tiếp theo. Có thể nhận thấy thuộc tính này giúp
khoanh vùng rất tốt vị trí của các đới nứt nẻ. Tuy nhiên ant tracking không thể đánh
giá được mức độ bất đồng nhất của độ rỗng đới nứt nẻ dọc theo mặt đứt gãy, nên
thuộc tính này có thể giúp khoanh vùng đới nứt nẻ nhưng không thể sử dụng để xác
định đặc điểm của các đới này

Hình 3.40: Mặt cắt địa chấn dọc theo
giếng khoan HSD-5XP và các mặt cắt
ngang tại các độ sâu khác nhau thể hiện
sự trùng khớp giữa kết quả minh giải độ
rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan

(đường màu đỏ) và thuộc tính Ant
tracking

Chương 4 – MÔ HÌNH ĐỘ RỖNG NỨT NẺ VÀ ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM
NỨT NẺ TRONG MÓNG MỎ HẢI SƯ ĐEN
Cho đến nay, việc xây dựng mô hình độ rỗng nứt nẻ trong móng đã được thực
hiện ở Việt Nam bằng nhiều phương pháp khác nhau như đã trình bày ở các phần
trước. Trong nghiên cứu này tác giả đề suất sử dụng kết hợp ANN và Co-Kriging để
xây dựng mô hình độ rỗng nứt nẻ trong móng trên cơ sở tổ hợp có trọng số các tài
liệu địa chấn, địa vật lý giếng khoan và các nghiên cứu địa chất chất – kiến tạo trong
khu vực nghiên cứu, nhằm tối ưu hóa và tăng độ tin cậy cho mô hình kết quả.
4.1. Mô hình độ rỗng nứt nẻ theo phương pháp mạng nơ-ron nhân tạo
(Artificial Neural Network – ANN).
Các thuộc tính địa chấn đã được thảo luận ở các chương trước có ý nghĩa rất
lớn trong việc phát hiện, khoanh định và đánh giá hệ thống khe nứt và đặc điểm của
đới nứt nẻ trong móng, bao gồm các thuộc tính: biến đổi (Variance), biên độ trung
bình bình phương (RMS Amplitude), biên ngoài (Envelope), lần theo dấu vết (Ant
17

tracking), Sweetness, Gradient Magnitude, cường độ phản xạ (Reflection Intensity),
trở kháng âm tương đối (Relative Acoustic Impedance). Trong đó, các thuộc tính
mang tính tích phân như biên độ trung bình bình phương (RMS amplitude), biên
ngoài hay còn gọi là cường độ phản xạ (Envelope), biên độ tổng (Sum amplitude),
Sweetness, Reflection Intensity có khả năng giảm nhiễu ngẫu nhiên nhưng đồng thời
giảm độ chi tiết, nên các thuộc tính này có thể giúp dự đoán các đới nứt nẻ và phân
bố của chúng trong móng, tuy nhiên các thuộc tính này bị hạn chế về khả năng phân
giải khi đánh giá các đặc điểm nứt nẻ. Ngược lại, các thuộc tính mang tính vi phân
như Variance, Ant Tracking, Gradient Magnitude có khả năng xác định đặc tính của
các đới nứt nẻ, bao gồm góc dốc, góc phương vị, độ rộng của đới nứt nẻ và điểm
giao nhau giữa các đới.

Các thuộc tính trên là cơ sở cho quá trình huấn luyện của mô hình độ rỗng bằng
phương pháp ANN. Kiểm tra kết quả đánh giá các mặt cắt địa chấn và các lát cắt độ
sâu cho cả cube địa chấn, liên kết định tính thuộc tính địa chấn với giá trị độ rỗng từ
giếng khoan cho thấy ba thuộc tính cường độ phản xạ (Reflection Intensity),
Gradient Magnitude và Sweetness có hệ số liên kết cao với kết quả minh giải độ
rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan và có khả năng thể hiện tốt nhất các đặc điểm
của các đới nứt nẻ trong móng như góc dốc, góc phương vị, độ rộng vị trí và mật độ
của đới nứt nẻ so với các thuộc tính còn lại. Trong khu vực mỏ Hải Sư Đen, các đới
nứt nẻ mở phân bố chủ yếu theo phương Đông Bắc – Tây Nam và Đông – Tây.
Nhìn chung trong khu vực nghiên cứu sự phân bố của thuộc tính địa chấn tương đối
liên kết với độ rỗng xác định từ giếng khoan và cấu trúc địa chất.
Theo đó việc xây dựng mô hình độ rỗng theo ANN được tiến hành dựa trên
việc kết hợp 3 thuộc tính địa chấn nói trên (Reflection Intensity, Gradient Magnitude
và Sweetness) với kết quả minh giải độ rỗng từ tài liệu địa vật lý giếng khoan của 05
giếng khoan (HSD-1X, 2X, 3X, 4X và, VD-1X).

Hình 4.2: Lát cắt ngang tại độ sâu
3624m từ mô hình độ rỗng ANN.

Hình 4.3: Phân bố độ rỗng dọc
theo nóc móng từ mô hình ANN
18

Độ rỗng từ mô hình ANN sau khi xây dựng cho thấy có sự trùng khớp tương
đối với kết quả độ rỗng thực tế từ giếng khoan. Mô hình độ rỗng này có khả năng
thể hiện rõ sự hiện diện của các hệ thống đứt gãy và đới nứt nẻ. Từ một số mặt cắt
ngang qua cấu tạo Hải Sư Đen ta có thể nhận thấy, nứt nẻ trong khu vực chủ yếu
phân bố dọc theo các đứt gãy có phương Đông - Tây, Đông Bắc - Tây Nam và một
số ít phân bố theo phương Tây Bắc - Đông Nam. Các hệ thống đứt gãy và đới nứt nẻ
chủ yếu tập trung nhiều tại phần khu vực gần nóc móng và giảm dần theo chiều sâu.

Tuy nhiên ngay tại các vị trí dọc theo các giếng khoan thì giá trị độ rỗng đo được
không hoàn toàn trùng khớp, nguyên nhân do mô hình độ rỗng theo ANN đã nội suy
các giá trị độ rỗng tại vị trí các giếng khoan dựa trên các thuộc tính địa chấn có tần
số thấp hơn rất nhiều tài liệu ĐVLGK. Ngoài ra do tỉ số tín hiệu/nhiễu trong móng
nhỏ nên mặc dù đã ứng dụng những công nghệ thu nổ và xử lý hiện đại nhất cho tới
thời điểm bắt đầu nghiên cứu, nhiễu vẫn còn tồn tại với cường độ đáng kể. Chính vì
thế, các giá trị độ rỗng nội suy từ mô hình này ít nhiều có chênh lệch với giá trị thực
theo tài liệu địa vật lý giếng khoan



Hình 4.6: Kiểm chứng kết quả giữa
mô hình độ rỗng theo phương pháp
ANN và độ rỗng từ giếng khoan
HSD-1X.

Nhằm giảm thiểu sai số, tăng độ chính xác và tin cậy của mô hình kết quả trên
cơ sở tổ hợp thêm các thông tin như: FMI, Sonic Scaner, DST, PLT và các kết quả
nghiên cứu địa chất – kiến tạo trong vùng, phương pháp Co-Kriging được áp dụng ở
bước tiếp theo để hoàn thiện mô hình độ rỗng nứt nẻ.
4.2. Áp dụng phương pháp Co-Kriging để hoàn thiện mô hình độ rỗng nứt nẻ.
Dựa trên kết quả mô hình dự đoán độ rỗng nứt nẻ ban đầu từ phương pháp
ANN, áp dụng thuật toán Co-Kriging để hoàn thiện mô hình trên cơ sở hiệu chỉnh
xu hướng phân bố và phát triển của các khe nứt bằng các thông tin thu được từ giếng
khoan, thông tin địa chất và các yếu tố kiến tạo của khu vực nghiên cứu. Trong quá
trình này, mô hình dự đoán độ rỗng được sử dụng như một biến số thứ 2 trong khi
đó giá trị độ rỗng từ giếng khoan là biến số chính quan trọng nhất.






Hình 4.5: Mô hình độ rỗng từ
phương pháp ANN.

19


Hình 4.9: Đồ thị thể hiện mối
quan hệ của độ rỗng theo độ sâu
từ nóc móng

Hình 4.10: Bản đồ mặt móng biểu diễn
thuộc tính biến đổi Variance giúp xác
định giá trị khoảng tối thiểu.
Ở đây, sự phân bố của các khe nứt trong mô hình độ rỗng được khống chế
bằng các yếu tố địa - kiến tạo như góc dốc, góc phương vị của hệ thống đứt gãy hay
các đới nứt nẻ (xác định được từ tài liệu FMI). Theo kết quả minh giải độ rỗng từ tài
liệu địa vật lý giếng khoan, đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa độ rỗng và độ sâu cho
thấy các giá trị độ rỗng giảm dần theo chiều sâu, và tiến đến rất nhỏ (nằm dưới giá
trị ngưỡng) tại độ sâu 1270m tính từ mặt móng. Ngoài ra, theo kết quả thử vỉa và tài
liệu khai thác PLT cùng với kết quả phân tích tài liệu địa chất – kiến tạo thu thập
được trong khu vực nghiên cứu cho thấy, hệ thống nứt nẻ theo phương á vĩ tuyến
cho dòng tốt. Dựa vào việc phân tích thuộc tính biên độ địa chấn dọc theo mặt móng
kết hợp với kết quả phân tích tài liệu FMI trong móng tại mỏ Hải Sư Đen có thể dự
đoán được độ rộng cực đại của các đới nứt nẻ dao động từ 80-100m. Theo đó, các
giá trị 1270m, 90m và 90o được chọn để sử dụng lần lượt là các giá trị tối đa
(major), tối thiểu (minor) và giá trị thẳng đứng (vertical) là phương á vĩ tuyến (đã
được chứng minh cho dòng tốt nhất theo kết quả PLT so với các phương khác) là
thông số đầu vào của Co-Kriging. Độ rỗng từ mô hình Co-Kriging được xây dựng

không những phù hợp với tài liệu địa chấn mà còn phù hợp với kết quả minh giải tài
liệu địa vật lý giếng khoan. Nhìn chung, mô hình Co-Kriging đã cho một bức tranh
rõ nét hơn về sự tồn tại của các hệ thống nứt nẻ trong móng với các đặc tính riêng
biệt (vị trí, kích thước, góc dốc, góc phương vị, mật độ), đây chính là cơ sở quan
trọng cho các công tác tìm kiếm thăm dò và thẩm lượng trong tương lai.

Hình 4.11: Mặt cắt dọc qua các giếng
khoan HSD-4X, VD-1X, VD-2X, HSD-
2X và HSD-3X từ mô hình độ rỗng Co-

Hình 4.12: Mặt cắt qua giếng khoan
HSD-4X cho thấy có sự tương đồng giữa
mô hình độ rỗng từ Co-Kriging và độ
20

Kriging.
rỗng từ giếng khoan.


Hình 4.15: Phân bố độ rỗng dọc theo
nóc móng từ mô hình Co-Kriging
Hình 4.14: Lát cắt ngang tại độ sâu
3624m từ mô hình độ rỗng Co-Kriging.
4.3. Kiểm tra, so sánh, đối chiếu kết quả
Trong luận án, NCS chỉ sử dụng năm (05) giếng khoan (HSD-1X, HSD-2X,
HSD-3X, HSD-4X và VD-1X) đề làm đầu vào cho các bước xây dựng mô hình độ
rỗng. Giếng khoan còn lại trong khu vực là HSD-5XP và VD-2X dùng để so sánh
sau khi đã hoàn thành mô hình (blind test). Ngoài ra, NCS cũng đã tiến hành xây
dựng đồ thị so sánh giữa mô hình độ rỗng ANN và Co-Kriging so sánh với độ rỗng
thu được từ giếng khoan của 02 giếng kiểm tra HSD-5XP và VD-2X. ). Kết quả

cho thấy giá trị độ rỗng từ mô hình Co-Kriging có hệ số tương quan với độ rỗng từ
địa vật lý giếng khoan cao hơn so với độ rỗng từ mô hình ANN. Nguyên nhân có thể
lý giải như sau: phương pháp ANN sử dụng phép nội suy các giá trị độ rỗng tại vị trí
các giếng khoan dựa trên các thuộc tính địa chấn có tần số thấp hơn nhiều so với tài
liệu địa vật lý giếng khoan. Ngoài ra do tỉ số tín hiệu/nhiễu trong móng thấp, mặc dù
đã sử dụng các công nghệ xử lý hiện đại nhất cho đến thời điểm nghiên cứu nhưng
nhiễu vẫn tồn tại đáng kể trong móng. Mặc khác phương pháp Co-Kriging có thể kết
hợp có trọng số các tài liệu địa chấn, địa vật lý giếng khoan và thông tin địa chất –
kiến tạo nên có hệ số tương quan cao hơn.
Bảng 4.1. Bảng so sánh hệ số tương quan giữa độ rỗng từ mô hình và độ rỗng từ tài
liệu địa vật lý giếng khoan ở các giếng VD-2X và HSD-5XP

21




Hình 4.21-4.23: So sánh độ rỗng từ các phương pháp ANN và Co-Kriging với độ
rỗng từ giếng khoan HSD-1X, HSD-2X, HSD-4X


Hình 4.25: So sánh độ rỗng từ các
phương pháp ANN và Co-Kriging với
độ rỗng từ GK VD-2X


Hình 4.26: So sánh độ rỗng từ các
phương pháp ANN và Co-Kriging với
độ rỗng từ GK HSD-5XP
4.4. Đánh giá đặc điểm và phân vùng khu vực

nứt nẻ mỏ Hải Sư Đen
Dựa trên kết quả xây dựng mô hình độ rỗng nứt
nẻ bằng phương pháp mạng nơ-ron nhân tạo
ANN kết hợp với Co-Kriging, móng granitoid
nứt nẻ mỏ Hải Sư Đen được chia thành 6 phân
vùng riêng biệt với các đặc điểm độ rỗng và khả
năng tồn tại nứt nẻ khác nhau, được đánh số từ 1
đến 6. Dựa vào các mặt ngang và các mặt cắt dọc.
Có thể thấy các phân vùng được chia có các đặc
điểm về nứt nẻ tương đối rõ rệt

Hình 4.27. Sơ đồ phân chia các phân
vùng các đặc điểm nứt nẻ khác nhau
trong móng mỏ Hải Sư Đen.
22

Phân vùng 1: Nằm ở khu vực phía
Tây Nam cấu tạo Hải Sư Đen. Phân
vùng có diện tích trong khoảng 8
km
2
. Độ rỗng theo mô hình được xác
định từ 1-2.5%. Dựa theo kết quả
phân tích FMI, hệ thống khe nứt chủ
yếu phân bố theo phương Tây Bắc –
Đông Nam. Có thể thấy phân vùng
này có độ rỗng tốt đã được chứng
minh bằng kết quả giếng khoan HSD-
4X (thử DST: 1500 BOPD).
Phân vùng 2: Nằm ở phía trung tâm

cấu tạo mỏ Hải Sư Đen, bao gồm các
giếng khoan HSD-1X, HSD-5XP và
VD-1X. Phân vùng này có diện tích
khoảng 13 km
2
. Phân vùng 2 có độ
rỗng từ 1-3%, hệ thống khe nứt phân
bố chủ yếu theo phương Đông – Tây,
là phương cho dòng chính trong mỏ
Hải Sư Đen theo các nghiên cứu hiện
có trong phân vùng. Theo kết quả FMI,
đới nứt nẻ phân bố chủ yếu tại độ sâu
3200-3300mTVD và 3500-3600mTVD. Có thể thấy phân vùng 2 có độ rỗng tốt,
giàu tiềm năng và đã được chứng minh bằng kết quả DST của 2 giếng HSD-1X
(DST#1: 2552 BOPD, DST#1ª: 4254 BOPD) và HSD-5XP (DST: 1440 BOPD).
Phân vùng 3: Phân vùng 3 nằm ở
khu vực trung tâm cấu tạo mỏ Hải
Sư Đen, phân vùng có phương kéo
dài theo phương Tây Bắc-Đông
Nam và có diện tích khoảng 17km
2
.
Phía Bắc của phân vùng này đã có
giếng khoan VD-2X, kết quả biểu
hiện dầu khí tốt nhưng không cho
dòng, có thể sơ bộ nhận định giếng
khoan khoan thẳng đứng nên không
khoan qua nhiều đối tượng và khoan
vào hệ thống nứt nẻ kín, không có tính liên thông. Theo kết quả từ mô hình, phân
vùng 3 có độ rỗng tốt, trong khoảng từ 1-2%, hệ thống nứt nẻ phân bố khá dày đặc.

Mặt cắt ngang tại phân vùng này cho thấy các hệ thống nứt nẻ chủ yếu theo hướng
Đông Bắc - Tây Nam. Ngoài ra trong phân vùng 3 còn tồn tại một số nứt nẻ theo
hướng Đông Tây kéo dài từ phân vùng 2 sang. Có thể nhận định rằng, phân vùng 3
này là phân vùng tiềm năng
Hình 4.33: Mặt cắt dọc theo giếng khoan
HSD-1X và HSD-5XP từ mô hình độ rỗng
Co-Kriging tại phân vùng 2
Hình 4.35: Mặt cắt dọc theo giếng khoan
HSD-1X và VD-2X từ mô hình độ rỗng Co-
Kriging tại phân vùng 3
Hình 4.32: Mặt cắt dọc theo giếng khoan
HSD-4X từ mô hình độ rỗng Co-Kriging tại
phân vùng 1

23

Phân vùng 4: Phân vùng này hiện
tại vẫn chưa có giếng khoan, diện
tích khoảng 8km
2
, theo kết quả từ
mô hình, độ rỗng tại phân vùng này
tương đối thấp, chỉ từ 0-0.5%. hệ
thống nứt nẻ thưa thớt đến hầu như
không tồn tại, chủ yếu tập trung tại
phần rìa giáp với phân vùng 2. Trên
mặt cắt ngang có thể thấy sự hiện
diện một số đới nứt nẻ theo phương Đông Bắc – Tây Nam. Theo đó có thể nhận
định rằng phân vùng này có tiềm năng từ trung bình đến kém, không phải là đối
tượng để đặt các giếng khoan thăm

dò thẩm lượng trong tương lai.
Phân vùng 5: Hiện tại vẫn chưa có
giếng khoan trong phân vùng này,
diện tích khoảng 6km
2
, theo kết quả
từ mô hình, phân vùng có độ rỗng từ
0.5-1.5%, hệ thống phân bố nứt nẻ
khá dày đặc. Mặt cắt ngang tại phân
vùng này cho thấy các hệ thống nứt
nẻ chủ yếu theo hướng Đông Bắc -
Tây Nam và Đông Tây. Nứt nẻ theo
hướng Đông Tây trong phân vùng
đã được chứng minh là hướng nứt nẻ mở cho dòng chính và đã được kiểm chứng
thực tế theo kết quả giếng khoan HSD-5XP. Có thể nhận định đây là phân vùng giàu
tiềm năng, có thể đặt các GK thăm dò thẩm lượng trong tương lai
Phân vùng 6: Nằm ở khu vực Đông
Bắc cấu tạo mỏ Hải Sư Đen, diện tích
khoảng 8km
2
, bao gồm giếng khoan
HSD-2X, có độ rỗng từ 0.5-1%, hệ
thống khe nứt chủ yếu theo phương Tây
Bắc – Đông Nam và Đông – Tây. Kết
quả minh giải FMI cho thấy đới nứt nẻ
phân bố chủ yếu tại độ sâu 3650-
4050mTVD. Khu này này có độ rỗng
rất kém, điều này đã được chứng minh bằng giếng khoan HSD-2X, giếng khoan này
cho kết quả khô, không có dòng tự nhiên. Từ mô hình, có thể thấy giếng khoan
HSD-2X gần như không khoan qua hệ thống đứt gãy hay đới nứt nẻ nào.

KẾT LUẬN
1. Tham gia vào cấu trúc địa chất cấu tạo Hải Sư Đen bao gồm móng granitoid có
tuổi Mz muộn và lớp phủ trầm tích Kz có tuổi từ Oligoxen đến Đệ Tứ. Đá móng
granitoid bể Cửu Long nói chung hay khu vực mỏ Hải Sư Đen nói riêng được phân
Hình 4.38:Mặt cắt dọc từ mô hình độ rỗng
Co-Kriging qua phân vùng 4, 5 và 6
Hình 4.36: Mặt cắt dọc từ mô hình độ rỗng Co-
Kriging qua phân vùng 3 và 4 cho thấy phân
vùng 4 có độ rỗng kém, hệ thống nứt nẻ thưa
thớt, rải rác.
Hình 4.37. Mặt cắt dọc từ mô hình độ rỗng
Co-Kriging qua phân vùng 4 và 5

×