Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tổng hợp một số bài viết về pháp luật trong quản trị công ty của PGS.TS Bùi Xuân Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.48 KB, 10 trang )

VÀI NÉT VỀ CÁC LOẠI HÌNH CÔNG TY THEO LUẬT CÔNG TY
CỦA ÚC
THS. BÙI XUĀN HẢI - ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, NCS ĐH La
Trobe Úc
1. Luật công ty (company law) của Úc, một quốc gia theo truyền thống
thông luật, được hiểu là hệ thống các qui tắc pháp lý điều chỉnh về: (1) việc thành
lập, chấm dứt hoạt động của các công ty và địa vị pháp lý của chúng; (2) mối
quan hệ giữa các chủ thể -thành viên, người quản lý điều hành – trong công ty
với nhau và giữa chúng với công ty; (3) một số vấn đề pháp lý của mối quan hệ
giữa công ty với các đối tác bên ngoài công ty như khách hàng, chủ nợ…1. Luật
công ty của Úc gồm có hai nguồn cơ bản là: (1) các văn bản pháp luật
(legislations), trong đó có đạo luật công ty (the Corporations Act 2001) và các
qui định về công ty (the Corporations Regulations) 2…vv; và (2) các án lệ (case
law)- nguồn luật đặc trưng của các quốc gia theo truyền thống common law. Do
các yếu tố lịch sử, các án lệ được coi là nguồn luật của luật công ty Úc không chỉ
là án lệ của các Tòa án Úc mà còn bao gồm cả các án lệ của Tòa án nước Anh.
Tuy nhiên, Đạo luật công ty (Corporations Act 2001) được coi là có vị trí đặc
biệt quan trọng, là xương sống của luật công ty Úc hiện nay.
2. Về các loại hình công ty
Việc phân loại các công ty theo luật công ty Úc chỉ có ý nghĩa chủ yếu trong
việc xác định trách nhiệm của các thành viên công ty và vấn đề có hay không
việc công ty huy động vốn từ công chúng qua việc phát hành cổ phiếu. Ngoài
những vấn đề kể trên, hầu hết các qui định của luật thành văn (statutory law) và
luật án lệ (case law) đều được áp dụng chung cho tất cả các loại hình công ty.
Theo Điều 112 (1) của Đạo luật công ty 2001, các nhà đầu tư có quyền đăng
ký thành lập công ty tại Úc theo các hình thức dưới đây:
1. Công ty sở hữu chủ (proprietary company) 3. Loại công ty này gồm có
hai hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by
shares) và công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital)
2. Công ty công cộng (public company). Loại công ty này gồm có bốn hình
thức sau đây: (1) Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited


by shares), (2) công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi sự) bảo đảm (company limited
by guarantee), (3) công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares
capital), và (4) công ty không trách nhiệm (no liability company).
2.1. Công ty công cộng và công ty sở hữu chủ
Theo luật Úc, các công ty đều được công nhận là pháp nhân (a separate
legal entity), chỉ cần có ít nhất là một thành viên (có thể là thể nhân hoặc pháp
nhân) và chúng phải đăng ký dưới hình thức là công ty công cộng hoặc công ty
sở hữu chủ. Đạo luật công ty 2001 tuy có qui định cụ thể về các dấu hiệu pháp lý
của công ty sở hữu chủ (Điều 113), nhưng không cần có các qui định trực tiếp về
dấu hiệu của công ty công cộng. Theo Điều 113 (2) thì công ty sở hữu chủ không
được có nhiều hơn 50 thành viên không phải là người lao động của công ty (non-
employee shareholders), trong khi đó, các công ty công cộng thì không bị hạn
chế số lượng thành viên. T rong thực tế, hầu hết các công ty sở hữu chủ được cơ
quan thuế Úc ( Australia Taxation Office ) xếp vào loại kinh doanh nhỏ ( small
business ), chúng có số lượng thành viên ít và họ thường có mối quan hệ gia đình
với nhau. Về bộ máy quản lý Điều hành, nếu như công ty sở hữu chủ chỉ cần phải
có ít nhất một giám đốc (director) và không bắt buộc phải có thư ký công ty
(secretary), thì các công ty công cộng phải có ít nhất ba giám đốc và ít nhất một
thư ký công ty 4. Hơn nữa, chỉ có công ty công cộng mới có quyền huy động vốn
bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, và vì thế chúng phải tuân thủ thêm
một số các qui định của pháp luật công ty và chứng khoán nhằm mục đích bảo vệ
các cổ đông công chúng cũng như hoạt động lành mạnh của thị trường chứng
khoán. Tuy nhiên, cũng giống như các công ty cổ phần ở Việt nam, không phải
tất cả các công ty công cộng của Úc đều có cổ phiếu niêm yết ở thị trường chứng
khoán. Đến giữa năm 2003, trong tổng số trên 20 ngàn công ty công cộng, chỉ có
khoảng 1400 công ty niêm yết cổ phiếu của mình tại thị trường chứng khoán mà
thôi 5.
Do khác nhau về bản chất cho nên mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với
các công ty sở hữu chủ được giảm nhẹ đi rất nhiều so với các công ty công cộng.
Chẳng hạn, khác với công ty công cộng, các công ty sở hữu chủ thường không

phải nộp báo cáo tài chính hàng năm, có thể không cần triệu tập họp đại hội đồng
cổ đông thường niên, không cần phải mở cửa văn phòng công ty hàng ngày, bộ
máy quản lý điều hành đơn giản hơn… Với các lợi thế của mình, mô hình công ty
sở hữu chủ được coi là rất thích hợp cho qui mô kinh doanh vừa và nhỏ. Vì vậy,
có tới 97% trong tổng số gần 1,3 triệu công ty (thời điểm giữa năm 2003) ở quốc
gia chỉ có khoảng 20 triệu dân này là các công ty sở hữu chủ 6.
2.3. Bốn loại hình công ty theo chế độ trách nhiệm của thành viên
Việc phân loại công ty theo chế độ trách nhiệm của các thành viên cũng đã
được thể hiện trong Điều 112 (1) của Đạo luật công ty 2001. Cho dù là công ty
công cộng hay công ty sở hữu chủ thì tất cả đều phải đăng ký dưới một trong bốn
hình thức công ty dưới đây (tuy nhiên nếu là công ty sở hữu chủ thì chỉ có thể là
công ty TNHH (bởi) cổ phiếu hoặc công ty trách nhiệm vô hạn):
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by shares)
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi sự) bảo đảm (company limited by
guarantee),
3. Công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital),
4. Công ty không trách nhiệm (no-liability company)7.
a. Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by
shares)
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, đây là loại hình công ty có vị trí tuyệt đối
trong nền kinh tế Úc (với số lượng trên 1, 2 triệu, chiếm tới khoảng 98% tổng số
các công ty). Công ty TNHH bởi cổ phiếu có thể đăng ký dưới hình thức là công
ty công cộng hay công ty sở hữu chủ, chúng phải có vốn cổ phần, cổ phiếu của
công ty được coi là tài sản riêng của mỗi thành viên và chúng được tự do chuyển
nhượng. Theo qui định tại Điều 9 và Điều 516 của Đạo luật công ty 2001 thì
công ty TNHH bởi cổ phiếu là công ty được thành lập trên nguyên tắc trách
nhiệm của các thành viên là có giới hạn chỉ trong phạm vi số vốn chưa góp (nếu
có) trên các cổ phiếu mà họ nắm giữ 8. Khi công ty bị mất khả năng thanh toán,
các thành viên của công ty không có nghĩa vụ dùng tài sản riêng của mình để trả
các khoản nợ của công ty.

b. Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi sự) bảo đảm (company limited by
guarantee),
Mô hình công ty này đã tồn tại khá lâu ở Anh, Úc và cả ở Malaysia,
Hongkong 9. Tuy nhiên, các công ty loại này chỉ chiếm khoảng 1% tổng số các
công ty ở Úc. Trước đây, Úc cho đăng ký cả loại hình công ty TNHH bởi sự bảo
đảm và cổ phiếu (companies limited both by shares and by guarantee), nhưng
theo Đạo luật công ty 2001 thì chúng đã không còn được cho đăng ký thành lập
nữa. Khác với công ty TNHH bởi cổ phiếu, công ty TNHH bởi sự bảo đảm không
có vốn cổ phần (share capital) và chỉ có thể đăng ký dưới hình thức công ty công
cộng chứ không thể là công ty sở hữu chủ. Vì thế, cho dù có qui mô nhỏ, loại
công ty này vẫn không được hưỡng sự ưu ái “giảm nhẹ” nghĩa vụ mà pháp luật
dành cho các công ty sở hữu chủ trong sự so sánh với nghĩa vụ của các công ty
công cộng.
Theo Điều 9 của Đạo luật công ty 2001, công ty TNHH bởi sự bảo đảm là
công ty được thành lập trên nguyên tắc trách nhiệm của các thành viên là hữu hạn
trong phạm vi số vốn mà thành viên đó đã cam kết đóng góp vào tài sản của
công ty khi công ty bị thanh lý (chấm dứt hoạt động). Khác với công ty TNHH
bởi cổ phiếu, các thành viên của công ty TNHH bởi sự bảo đảm không phải đóng
góp vốn ngay khi công ty được thành lập và cả trong quá trình công ty đang hoạt
động, cho nên công ty này không có vốn cổ phần và do vậy, rất khó khăn trong
việc huy động vốn từ đó nó bị hạn chế tham gia các hoạt động kinh doanh. Chính
vì lẽ đó, loại công ty này được cho là không thích hợp cho hoạt động kinh doanh,
đặc biệt là kinh doanh thương mại; song, chúng thích hợp cho các mục tiêu phi
lợi nhuận như các trường học hay câu lạc bộ, các hội từ thiện, … mà chủ yếu hoạt
động bằng nguồn vốn từ bên ngoài bởi sự đóng góp của các hoạt động mang tính
xã hội10.
Khác với công ty TNHH bởi cổ phiếu, thành viên của công ty này chỉ có
nghĩa vụ đóng góp tài sản (vốn) khi mà công ty bị thanh lý, chấm dứt hoạt động
(winding up), tuy nhiên nghĩa vụ đóng góp của mỗi thành viên cũng chỉ là hữu
hạn trong phạm vi mà họ đã cam kết bảo đảm (guarantee) mà thôi11. Bởi thế cho

nên, khi công ty TNHH bởi sự bảo đảm không có khả năng trả nợ, nếu muốn thu
hồi nợ, các chủ nợ của công ty cần phải làm thủ tục để yêu cầu thanh lý công ty,
bởi vì chỉ bằng cách thanh lý công ty các thành viên của loại công ty này mới bị
bắt buộc phải góp vốn (tài sản) cho dù chỉ là hữu hạn trong phạm vi mà họ đã
cam kết vào tài sản của công ty.
c. Công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with share capital)
Chỉ có khoảng vài trăm công ty loại này ở Úc, chúng được thành lập trên
nguyên tắc trách nhiệm của các thành viên là vô hạn đối với các nghĩa vụ của
công ty12. Trước năm 1998, Úc cho đăng ký thành lập đối với cả các công ty
trách nhiệm vô hạn không có vốn cổ phần, nhưng sau đó nước này chỉ cho đăng
ký loại công ty này nếu chúng có vốn cổ phần (share capital) mà thôi. Công ty
trách nhiệm vô hạn có thể đăng ký dưới hình thức công ty sở hữu chủ hoặc công
ty công cộng.
Theo Luật công ty Úc, mặc dù tất cả các công ty đều được coi là pháp nhân,
nhưng điều đó không có nghĩa là các nghĩa vụ của pháp nhân chỉ được thanh toán
bằng tài sản riêng của chính nó, cũng không có nghĩa là các thành viên của pháp
nhân đều được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Thế nhưng, cần phải hiểu
rằng, theo luật công ty Úc, chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên công ty phải
được hiểu là đối với công ty chứ không phải đối với các chủ nợ của công ty. Vì
thế các chủ nợ của loại công ty này không có quyền trực tiếp khởi kiện đòi các
thành viên phải thanh toán số nợ mà công ty của họ không trả được trong khi
công ty đó còn đang hoạt động. Do vậy, để thu hồi nợ các chủ nợ của công ty sẽ
phải tiến hành thủ tục đòi thanh lý công ty, khi tiến hành thanh lý công ty thì các
nguyên tắc pháp lý về trách nhiệm vô hạn của thành viên sẽ được áp dụng, nếu tài
sản của công ty không đủ đáp ứng việc thanh toán cho các chủ nợ, thì mỗi thành
viên công ty sẽ phải chịu trách nhiệm không có giới hạn về các nghĩa vụ của công
ty 13. Đặc điểm này tương đối giống với chế độ trách nhiệm vô hạn của các
thành viên trong hợp danh, tuy nhiên, hợp danh theo pháp luật của các bang ở Úc
có một số điểm bất lợi hơn trong kinh doanh so với mô hình công ty trách nhiệm
vô hạn.

Với chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên như thế, loại công ty này
được cho là không thích hợp cho hoạt động kinh doanh thương mại và hoạt động
kinh doanh có qui mô lớn. Một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh mang tính nghề
nghiệp đặc thù mà pháp luật yêu cầu các thành viên phải chịu trách nhiệm vô
hạn, người ta thường thành lập công ty trách nhiệm vô hạn hơn là kinh doanh
theo hình thức hợp danh bởi vì họ muốn có được những lợi ích của mô hình công
ty như về tư cách pháp nhân, thuế, huy động vốn … trong sự so sánh với hợp
danh 14
d. Công ty không trách nhiệm (No liability company)
Đây là mô hình công ty khá đặc biệt, nó được công nhận lần đầu tiên tại
bang Victoria vào năm 1871 và gắn liền với sự phát triển của lĩnh vực công
nghiệp khai thác mỏ ở Úc. Nói đến công ty không trách nhiệm, người Úc biết
ngay đến lĩnh vực kinh doanh của nó là ngành khai thác mỏ. Theo qui định tại
Điều 112 (2), Đạo luật công ty 2001, một công ty được đăng ký dưới hình thức
công ty không trách nhiệm nếu như: (1) nó có vốn cổ phần; (2) Điều lệ của công
ty khẳng định rằng đối tượng duy nhất của nó là mục đích khai thác mỏ (mining
purposes)15, và (3) Điều lệ của công ty không có qui định về việc công ty có
quyền đòi hỏi các cổ đông phải góp đủ tiền trên các cổ phiếu mà họ chưa nộp đủ.
Để cảnh báo công chúng, pháp luật qui định ở phần cuối của tên công ty
phải ghi rõ chữ no liability hay NL. Luật công ty Úc qui định loại hình công ty
không trách nhiệm chỉ có thể đăng ký dưới hình thức công ty công cộng chứ
không thể là công ty sở hữu chủ. Chế độ trách nhiệm của thành viên công ty
không trách nhiệm chủ yếu thể hiện qua việc góp vốn cổ phần, phân chia giá trị
còn lại của công ty và giới hạn trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty.
Khác với các loại hình công ty đã nói ở trên, sự chấp nhận góp vốn vào công ty
này không tạo nên quan hệ hợp đồng giữa người cam kết góp vốn và công ty
trong việc đóng góp số vốn đó hay chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ khác của công ty (Điều 254M(2) Đạo luật công ty).
Thành viên công ty không có nghĩa vụ pháp lý phải thanh toán (góp) vốn cổ
phần trên cổ phiếu của họ theo yêu cầu của công ty ngay cả khi công ty đang hoạt

động và kể cả khi công ty bị thanh lý. Tuy nhiên, trong thời gian mà thành viên
chưa nộp đủ tiền cổ phiếu, họ sẽ không có quyền được hưởng cổ tức và nếu yêu
cầu góp vốn không được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì các cổ phiếu
đó sẽ bị mất quyền, khi đó công ty có thể tổ chức bán đấu giá công khai số cổ
phiếu này trong thời hạn sáu tuần kể từ khi cổ phiếu đến thời hạn được thanh toán
(Điều 254Q(2) ). Tuy vậy, luật vẫn cho phép người có cổ phiếu bị mất quyền
được nộp tiền để chuộc lại số cổ phiếu đó bao gồm tiền cổ phiếu và các chi phí
khác liên quan (Điều 254R(1)). Nếu thành viên công ty không kịp thời thanh tóan
đủ tiền thì họ sẽ bị mất các lợi ích có được của các cổ phiếu đó.
Khi công ty không trách nhiệm chấm dứt hoạt động, gía trị còn lại sau khi
thanh toán xong các khoản nợ của công ty sẽ được phân chia cho các cổ đông
theo số lượng cổ phiếu mà họ đang nắm giữ mà không quan tâm đến số tiền mà
họ đã thanh toán trên cổ phiếu, tuy nhiên những cổ phiếu mà chưa được cổ đông
thanh toán đủ (nhưng chưa bị mất quyền) sẽ chưa được phân chia cho đến khi
nào họ thanh toán đủ số tiền còn chưa đóng đủ (Điều 254 B (2)).
Mặc dù nhà đầu tư phải lựa chọn để đăng ký thành lập một trong số các loại
công ty nói trên, nhưng trong quá trình hoạt động các công ty đều có thể làm thủ
tục chuyển đổi loại hình khá dễ dàng, chẳng hạn từ một công ty sở hữu chủ thành
công ty công cộng và ngược lại, cũng như từ một công ty trách nhiệm vô hạn
sang công ty có chế độ TNHH (Điều 162). Tuy nhiên, các công ty chuyển đổi
phải đáp ứng một số điều kiện nhất định và làm thủ tục đăng ký với văn phòng
của Ủy ban chứng khoán và đđầu tư Úc (ASIC) (Điều 164). Bên cạnh sự chuyển
đổi tự nguyện như trên, luật công ty Úc cũng có qui định về việc ASIC có quyền
yêu cầu một công ty sở hữu chủ buộc phải chuyển đổi thành công ty công cộng
(và sau đó ASIC có thể tự quyết định việc chuyển đổi nếu công ty bị yêu cầu
không thực hiện trong một thời hạn nhất định) nếu nó không còn thỏa mãn các
dấu hiệu bắt buộc của một công ty sở hữu chủ theo Điều 113 của đạo luật công
ty.16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Xem H. Pamela, R. Ian & S. Geof. Commercial Applicatoin of Company

Law, 5th ed, CCH Australia Limiter, Sydney, 2004, Sđd., tr. 23.
2 H. Pamela, R. Ian & S. Geof, Sđd , tr. 26, 35.
3 Theo Từ điển pháp luật – Black’s Law Dictionary, do West Group xuất
bản năm 2001 (tr. 565) và Oxford Advanced Learner’s Dictionary xuất bản 2000
(tr. 1017) thì có thể tạm dịch là công ty sở hữu chủ. Tuy nhiên proprietary
company cũng tương đồng với private company của Anh hay close corporation
trong pháp luật Hoa Kỳ. Các công ty sở hữu chủ ở Úc cũng được luật công ty
chia thành hai loại: loại lớn (large proprietary company) và loại nhỏ (small
proprietary company); nếu là công ty loại lớn thì sẽ phải thực hiện nhiều hơn
một số nghĩa vụ so với công ty loại nhỏ (chủ yếu là về báo cáo tài chính và kiểm
toán).
4 Luật công ty Úc qui định các công ty có nhiều giám đốc (directors) và vai
trò của mỗi giám đốc có thể khác nhau. Thư ký công ty (secretary) không có
trong thực tiễn cũng như trong luật thực định của Việt Nam. Tuy nhiên cần phải
hiểu rằng, thư ký công ty khác hoàn toàn với thư ký Giám đốc (Tổng giám đốc)
có thể có trong các công ty ở nước ta.
5 H. Pamela, R. Ian & S. Geof, Sđd , tr. 7 & 92.
6 Số liệu của Ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia (Uc Securities and
Investments Commission) Annual Report 2002-2003,tr . 66. Đây chỉ là số liệu
thống kê các công ty, không bao gồm các chủ thể kinh doanh khác như kinh
doanh cá thể (sole trader), hợp danh (partnership), liên doanh (joint venture), …
vv. Trong khi đó, nước ta với dân số khoảng 82 triệu, mặc dù đã có sự tăng lên
rất nhanh từ khi có Luật doanh nghiệp, số lượng các doanh nghiệp của Việt nam
cũng chỉ khoảng 150 ngàn đã phần nào phản ánh mức độ phát triển của nền kinh
tế thị trường ở mỗi nước.
7 Ba loại công ty đầu tiên cũng là những loại hình công ty được công nhận
ở trong luật công ty của nhiều nước như: Anh, Hongkong, Malaysia. Xem thêm:
L.D. Paul. Gower and Davies’ Principles of Modern Company Law (7th ed),
Thomson, Sweet & Maxwell, London, 2003, pp.7-9, 16; và K. Arjunan & Low.
C.K. Lipton & Herzberg Understanding Company Law in Malaysia, LBC

Information Services, Sydney, 1995, pp. 30-42; và K. Arjunan & Low. C.K.
Lipton & Herzberg Understanding Company Law in Hongkong, LBC
Information Services, Sydney, 1996, tr .29-36.
8 Australia Corporations And Securities Legislation- Vol 1, CCH Sydney,
2004.
9 H. Pamela, R. Ian & S. Geof, Sđd, tr. 92.
10 Xem L. Phillip & H. Abe, Understanding Company Law, Lawbook Co,
Sydney,2004, tr. 65-66
11 Điều 517, Đạo luật công ty 2001.
12 Điều 9, Đạo luật công ty 2001.
13 L. Paul, Sđd, tr. 667.
14 S. Brendan & O. Jennifer. Law In Commerce, Butterworths, Sydney,
2001, p. 300 and L. Phillip & H. Abe, Sđd, tr. 66.
15 Mining purposes đã được định nghĩa khá cụ thể tại Điều 9 của Đạo luật
công ty 2001.
16 Xem thêm điều 165 đạo luật công ty 2001.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 6/2004

×