Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vai trò của nền kinh tế tri thức đối với phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.83 KB, 31 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế tri thức là một khái niệm mới, về nội hàm, kinh tế tri thức phản
ánh một trình độ rất cao trong các nấc thang phát triển kinh tế của loài người.
Hiện nay xu hướng phát triển kinh tế tri thức đang tác động ngày càng sâu rộng
trên mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống nhân loại; có thể nói kinh tế tri thức
vừa là mục tiêu vừa là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người trong
tương lai gần. Kinh tế tri thức được xác định chính là cánh cửa mở ra cho các
nền kinh tế đang phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển nếu biết đón bắt và tận dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra
thách thức lớn hơn bao giờ hết đối với các nước đang phát triển, đó là nguy cơ
tụt hậu, đó là khoảng cách ngày càng gia tăng về trình độ phát triển với các
nước phát triển.Trong bối cảnh đó ở nước ta, sau nhiều tranh luận, đã có sự nhất
trí xây dựng nền kinh tế theo hướng tri thức hóa dần các công đoạn của quá
trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, và phát triển kinh tế tri thức ở nước ta đã được khẳng định tại các Báo cáo
Chính trị của Đảng lần thứ IX, X, XI.
Trong chiến lược phát triển nền kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa rút ngắn của vài thập niên tới, làm cho nhiệm vụ xây dựng chương
trình hành động nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam
trở nên đặc biệt cấp bách, thậm chí là rất gay gắt. Hơn nữa, trong Nghị quyết
hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành Trung Ương khoá I VIII đã xác định rõ "Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ",
"khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa". Đến đại hội IX của Đảng điều này lại được khẳng định lại một
lần nữa, "phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam,
coi sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa".,Mặc dù đó còn là thách
thức lớn đối với nước ta, song cơ hội lớn cũng nằm trong thách thức đó Vì thế
tôi đã chọn đề tài: “ VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM” để


tìm hiểu và làm rõ hơn về vấn đề trên.
1
2. Tình hình nghiên cứu :
Vai trò của nền kinh tế tri thức đối với phát triển công nghiệp hóa hiện
đại hóa ở Việt Nam có tính thời sự cao, có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận và
thực tiễn đặt ra. Những đóng góp và nghiên cứu của nhiều tác giả về các vấn đề
trên đã góp phần làm sáng tỏ hay gợi lên vai trò của nền kinh tế tri thức đối với
phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
 Những tác giả đã nghiên cứu đề tài này:
+ Nguyễn Thái Sơn – Tạp chí cộng sản ( Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ quá độ ).
+ ThS. NCS. Bùi Thị Vân - Khoa Lý luận chính trị Trường Đại học Giao
thông Vận tải (Kinh tế tri thức và một số vấn đề đặt ra đối với quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam ).
+ Giáo viên : Văn Đình Tấn – Khoa Kinh tế trường chính trị Nghệ An.
(Nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước ta ).
+ ThS. Trần Mai Ước – Giảng viên Trường Đại học Ngân hàng TP Hồ
Chí Minh. ( Nguồn nhân lực chất lượng cao với sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước).
+ ……
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của tiểu luận về lĩnh vực kinh tế chính trị. Do đó, việc
nghiên cứu để phân tích và giải quyết các vấn đề trong tiểu luận sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau. Trong đó những phương pháp chủ yếu được sử dụng là
phương pháp suy luận, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp
và diễn dịch, ngoài ra còn có phương pháp trừu tượng hóa khoa học,phương
pháp so sánh đối chiếu…
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn bám sát các chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của nền kinh tế tri thức đối
với việc phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa được thể hiện trong các văn

kiện của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
2
Phần 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Khái niệm nền kinh tế tri thức:
Trước hết, nói kinh tế tri thức không phải là nói một hình thái kinh tế mới
của xã hội, mà là nói về lực lượng sản xuất mới của xã hội
Tuy nhiên, một nền kinh tế tri thức cụ thể nào đó đều phải thuộc một hình
thái kinh tế xã hội nhất định, như nền kinh tế tri thức đang bắt đầu hình thành ở
Bắc Mỹ, Nhật Bản và một số nước Tây Âu không thể không phụ thuộc vào cơ
sở hạ tầng của hình thái kinh tế tri thức tư bản chủ nghĩa ở các nước đó. Các
nước đang hoàn thành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng không vì xây
dựng kinh tế tri thức mà từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào thực tiễn thế giới, đặc biệt là ở những nước nền kinh tế tri
thức đã bắt đầu hình thành như đã nói trên, các nhà khoa học đưa ra một số định
nghĩa về Kinh tế tri thức ở Việt Nam, giáo sư Đặng Hữu đã định nghĩa như sau:
“Kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó, sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữu vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Ngoài ra, kinh tế tri thức còn có thể được biểu hiểu là biểu hiện hay xu
hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát
huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả
các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dchj vụ, phục vu.
cho phát triển kinh tế. Từ đó, nền kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế chủ
yếu dưa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sang tạo tri thức,
phản ánh sự phá triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao.Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế ( OCED ) đưa ra khái niệm năm 1995: “ Nền kinh tế tri thức
và nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất
lượng cuộc sống”.

Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật,
văn hóa-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc
học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành
nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
3
Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức
không phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học - công nghệ cao mà là việc
phát triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho
việc sản xuất, khai thác, và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của
nhân loại.
1.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
Gần hai thập kỷ qua, năng lượng trí tuệ của con người ngày càng có vai
trò hết sức quan trọng trong việc tăng năng suất lao động trong sản xuất, dịch vụ
và kinh doanh, trở thành một lực lượng sản xuất quan trọng trong nền kinh tế tri
thức. Hiện nay, trên thế giới, nhiều quốc gia, dân tộc đang có những bước đầu
tiên trong việc xây dựng và phát triển kinh tế tri thức. Mỹ đang hoàn tất việc
xây dựng những cơ sở ban đầu để phát triển triển kinh tế tri thức. Tiếp đến là
các nước Anh, Pháp, Đức, Singapo
Cho tới nay, nhiều nhà chiến lược kinh tế hàng đầu trên thế giới đều
thống nhất triển kinh tế tri thức có 10 đặc điểm chính sau đây:
1. Ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khóa cho
việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền triển kinh tế tri
thức có tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu dịch chuyển nhanh.
2. Tìm các công nghệ mới trở thành loại hình hoạt động quan trọng nhất.
Doanh nghiệp nào cũng có thể tìm ra công nghệ mới; không còn sự phân biệt
giữa phòng thí nghiệm với công xưởng, đồng thời xuất hiện nhiều doanh nghiệp
chuyên về sản xuất công nghệ.
3. Công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng
thông tin phủ khắp nước và trên thế giới, liên kết các tổ chức, gia đình và các
quốc gia. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt

động của con người đều có sự tác động của thông tin.
4. Dân chủ hóa được thúc đẩy vì mọi người đều dễ dàng truy cập thông
tin mà mình cần. Mọi người dân đều có thể biết được các chủ trương, chính
sách một cách chính xác, kịp thời. Các cơ quan chức năng không thể hoạt động
trái luật. Mối liên kết giữa chính quyền và người dân bền vững.
5. Về giáo dục và đào tạo (đầu tư cho con người): được đầu tư cao hơn
hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công xưởng, khai thác
nguyên nhiên liệu ). Mọi người học tập thường xuyên bằng các loại hình đào
tạo đa dạng: học ở trường, học từ xa, học trên mạng thông tin.
6. Tri thức trở thành vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu để tăng
trưởng. Vốn tri thức không giống như các loại vốn vật chất khác (máy móc,
tiền, vàng ) dễ hư hao hoặc mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin dễ chuyển
giao và chia sẻ.
4
7. Chu kỳ đổi mới của xã hội ngày càng ngắn, càng nhanh, năng lực sáng
tạo của con người mở ra vô tận. Công nghệ đổi mới rất nhanh, có khi chỉ tính
từng ngày, từng tháng. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn đi tìm
công nghệ mới và phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
8. Các doanh nghiệp vừa phải cạnh tranh, vừa phải hợp tác để phát triển ở
cả trong nước và quốc tế. Triết lý "cả hai cùng có lợi" thấm rộng trong mọi hoạt
động của con người.
9. Các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Nhiều nước
cùng tham gia vào sản xuất một sản phẩm. Một sản phẩm được tiêu thụ ở nhiều
thị trường nhiều nước.
10. Dù xu hướng thông tin, tri thức mang tính toàn cầu hóa nhưng bản sắc
văn hóa dân tộc phải được chú ý giữ gìn để tránh bị hòa tan, để tạo thêm sức
mạnh nội sinh.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế tri thức với những thách
thức to lớn trước mắt. Chúng ta cần thấy được thời cơ và từng bước tiến vào nền
kinh tế tri thức, san bằng khoảng cách phát triển với thế giới, đưa đất nước tiến

nhanh, mạnh trong những thập kỷ tới.
1.3. Vai trò của nền kinh tế tri thức:
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát
triển chưa từng thấy của nhân loại.
Đối với các nước phát triển, việc thực hiện nền kinh tế tri thức là cơ hội lớn để tiến kịp thời
đại. Hiện nay đã có 38 nước với GDP/người đạt mức 20.000 USD chủ yếu là vận dụng kinh tế tri thức.
Nhưng bên cạnh đó còn những nước chưa phát triển thì phát triển kinh tế dựa vào khai thác tài
nguyên và lao động giá rẻ, chưa biết thực hiện nền kinh tế tri thức nên sẽ trở thành một thách thức
lớn cho các nước này.
- Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày
nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ
thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp
phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới,
năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử
dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc
khai thác các ngường tài nguyên hiện hữu.
- Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu.
5
Thực tiễn của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở các quốc
gia phát triển. Cùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng đã kết hợp bước
chuyển nông nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy tắt để rút ngắn
quá trình xây dựng những cơ sở của nền kinh tế tri thức.
- Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản
xuất sử dụng công nghệ cao ví dụ: Trong nông nghiệp nuôi gà ở Cây Gáo huyện
Trảng Bom tự động…, Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của
toàn bộ nền kinh tế.

Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ có hàm lượng
khoa hoc kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi
cho sự đẩy nhanh xu thế toàn cầu hoá, ví dụ như: các công nghệ mới làm tăng
tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian.
Công nghệ thông tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều
kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở của, giao lưu hội nhập.
- Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách
mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học…
- Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-kỹ
thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử
dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
- Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương
mại, tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú.
1.4. Tính tất yếu phải thực hiện nền kinh tế tri thức ở Việt Nam:
Hiện nay kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh trí tuệ
- văn minh xã hội XHCN. Vì thế phát triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu
để phát triển nước ta.
Theo báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định “phát triển
kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đây là một trong
những chủ trương có vai trò định hướng rất quan trọng trong chiến lược mới
đến năm 2020.
Ngay từ Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng đã xác định: " Kinh tế tri thức có vai
trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất" và xác định
"từng bước phát triển kinh tế tri thức ". Đến Đại hội lần thứ X (2006), Đảng tiếp
tục nhấn mạnh "Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hện đại hóa gắn với từng bước
phát triển kinh tế tri thức ".
6
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI này, Đảng lại có sự phát triển mới về nhận
thức lý luận và thực tiễn thể hiện ở định hướng “phát triển kinh tế tri thức, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Sự đánh giá đúng đắn vị trí vai trò của kinh

tế tri thức còn thể hiện trong việc coi phát triển kinh tế tri thức kinh tế tri thức là
phương hướng số 1 trong 8 phương hướng cơ bản xây dựng nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; là một trong những định hướng lớn về khoa học
công nghệ; và là nội dung, nhiệm vụ chủ yếu trong sự nghiệp đổi mới trong
nhiệm kỳ 5 năm tới của Đảng. Có thể coi đây là một trong những chủ trương có
tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta và
là nhân tố bảo đảm sự phát triển cân bằng, nhanh và bền vững của nền kinh tế
nước nhà trong tương lai.
Mặt khác, đây cũng là một chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo có cơ sở lý luận và thực tiễn
cao, chắc chắn sẽ sớm phát huy vai trò tích cực, là động lực trong phát triển kinh tế - xã hội và tăng
cường quốc phòng-an ninh bảo vệ Tổ quốc.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ TRI THÚC ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA.
2.1. Tình hình thực hiện kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay:
Những con số khách quan do Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World
Intellectual Property Organization - WIPO thuộc Liên Hợp Quốc) công bố
tưởng như vô hồn đã nói lên rằng trí tuệ quốc gia Việt nam hay còn gọi là nền
7
kinh tế tri thức của Việt Nam đang ngụp lặn ở nửa dưới của thế giới và với xu
hướng ngày càng chìm sâu, thụt lùi xa so với láng giềng.
Nếu nhìn vào tình hình xuất khẩu hàng hóa kỹ thuật cao - một chỉ số quan
trọng của nền kinh tế tri thức - thì thấy năm 2008, Việt Nam xuất khẩu đạt 48,6
tỉ USD. Con số này có vẻ ấn tượng nhưng vẫn chưa bằng 1/3 của Thái Lan
(153,6 tỉ USD) và chỉ bằng 16% của Singapore (399,3 tỉ USD). Và thật ra, xuất
khẩu hàng hóa kĩ thuật cao của Việt Nam thấp nhất so với các nước trong khu
vực. Hơn 1/5 tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam là khoáng sản và có tới 41%
là hàng công nghiệp mà chủ yếu là gia công, dệt may. Trong khi đó, ngành xuất
khẩu chủ đạo của Thái Lan là máy móc và thiết bị (chiếm 45% tổng giá trị xuất
khẩu) và hàng công nghiệp (24%). Singapore cũng tương tự Thái Lan.
Đến năm 2011 chúng ta vui mừng trên bảng chỉ số đổi mới/sáng tạo toàn

cầu Việt Nam vươn lên được trên trung bình đứng thứ 51 trong 125 nước. Niềm
vui chưa được bao lâu thì đến năm 2012 ta lại tụt sâu xuống nửa dưới của thế
giới, thứ 76 trên 141 nước. Nhìn lại quá trình từ 2007 khi bắt đầu có sự đánh giá
thì tình hình vẫn không khả quan hơn, chẳng những kém cỏi mà xu hướng là
suy giảm liên tục. Sự vươn lên năm 2011 có thể là ngẫu nhiên, không phải là
thực chất như sẽ phân tích về điểm số ở phần dưới. Thứ bậc đơn lẻ chưa nói lên
điều gì nhiều, cần phải có sự so sánh với bạn bè xung quanh thì mới biết ta đang
ở đâu.Chúng ta có thể nhìn thấy qua bảng sau:
Năm Số
nước
Điểm
cao
nhất
Việt Nam Malaysia Singapore Thailand
Điểm Bậ
c
Điể
m
Bậc Điể
m
Bậ
c
Điểm Bậc
200
8
153 5.8 2.38 65 3.47 26 4.1 7 3.01 34
200
9
130 5.28 2.97 64 4.06 25 4.81 5 3.4 44
201

0
132 4.86 2.95 71 3.77 28 4.65 7 3.06 60
201
1
125 74.1 36.71 51 44.0
5
31 74.11 1 43.33 48
201
2
141 68.2 33.9 76 45.9 64.
8
64.8 3 36.9 57
Bảng 1: Thứ bậc, Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt nam và các
nước xung quanh
Năm Số nước xếp Tổ chức nhà Vốn về con Đầu ra sáng
8
hạng nước người tạo
Điểm Bậc Điểm Bậc Điểm Bậc
2009 130 3.38 99 3.82 69 2.52 63
2010 132 3.47 113 3.27 92 2.38 67
2011 125 54.9 84 31.7 85 33.34 42
2012 141 40.9 112 26.1 107 30.8 59
Bảng 2 : Việt Nam - Điểm và thứ hạng của các tiêu chí Tổ chức, Vốn con người
và Đầu ra sáng tạo
Về tình hình thực hiện nền kinh tế tri thức trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay cũng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đã có câu hỏi được đặt ra là “ Việt
Nam có cần nền kinh tế tri thức để phát triển các ngành kinh tế không, và nếu có
sẽ gặp những thách thức nào”. Để trả lời câu hỏi này hãy xem kinh tế ta đang ở
đâu và cách nào để có thể tiến lên. Lấy một ví dụ để so sánh hai nền kinh tế Việt
Nam và Nhật Bản, một là nền kinh tế thị trường phát triển nhưng đang hướng

đến và đã mang nhiều tính chất của kinh tế tri thức, và một là nền kinh tế hỗn
hợp còn mang ít tính chất của kinh tế tri thức. Sự nhiều ít này được nhìn nhận
theo mức độ ảnh hưởng và chi phối của tri thức trong các hoạt động kinh tế.
Ta có thể thấy qua bảng sau:
Việt Nam (2007) Nhật Bản (2007)
Ngành kinh tế
Đóng
góp
cho GDP
Ngành kinh tế
Đóng
góp
cho GDP
Nông, lâm nghiệp, thủy
hải sản
20,34% Nông, lâm nghiệp, thủy
hải sản
0.9%
Công nghiệp (chế biến,
khai mỏ)
41,48% Công nghiệp (chế tạo) 28,9%
Thương mại, dịch vụ, du
lịch, (tài chính, tín dụng)
38,18% Thương mại, dịch vụ, du
lịch, (dịch vụ)
70,8%
Bảng 3. So sánh đóng góp vào GDP của Việt Nam và Nhật Bản theo
các ngành kinh tế (phần trong dấu ngoặc là nội dung của một vài lĩnh vực).
Bảng 3 tóm tắt các số liệu tổng hợp về đóng góp cho tổng thu nhập quốc
dân năm 2007 theo ba ngành kinh tế của Việt Nam và Nhật Bản. Các số liệu

tổng hợp này cho thấy ngành nông lâm ngư nghiệp của Việt Nam góp một phần
lớn của GDP (20,34%) trong khi ngành này của Nhật chỉ góp chưa đầy 1%.
9
Ngành công nghiệp của Việt Nam đóng góp 41,48% của GDP, trong đó khai mỏ
(dầu khí, than chưa có phần bô-xít) và công nghiệp chế biến (may mặc quần
áo, giày dép xuất khẩu ) góp đến 31,03%, tức gần một phần ba của GDP.
Ngành công nghiệp của Nhật Bản chỉ góp gần một phần ba của GDP (28,9%),
trong đó phần của công nghiệp chế tạo là 21%. Điều này có thể làm nhiều người
ngạc nhiên khi vẫn thường nghĩ rằng GDP của Nhật phần lớn do làm ra và bán
được nhiều ô tô Toyota, xe máy Honda, máy ảnh Canon, máy tính Fujitsu
Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch của Việt Nam đóng góp 38,18% của
GDP, trong khi ngành này của Nhật Bản góp 70,8%, tức khoảng hai phần ba
GDP. Đáng chú ý là ngành tài chính và tín dụng của ta chỉ khiêm tốn góp 1,8%,
còn các ngành dịch vụ của Nhật góp 30,9% của GDP, tức gần một phần ba.
Từ đây có thể thấy rõ hơn là GDP của ta phần lớn thu được từ các ngành sản
xuất đơn giản ít đòi hỏi hàm lượng tri thức cao, như công nghiệp chế biến hay
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Ngược lại, GDP của Nhật Bản phần lớn có
được do các hoạt động kinh tế không liên quan đến việc làm ra hàng hóa, họ gọi
là “công nghiệp tri thức”, hoặc các ngành chế tạo dựa trên công nghệ cao.
Ngoài ra, Công nghệ thông tin và truyền thông là hạ tầng cơ sở để thực
hiện hầu hết các hoạt động của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ
cho ba trụ cột về giáo dục và đào tạo, hệ thống cách tân, môi trường kinh tế và
thể chế xã hội thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri thức. Nhưng việc xây
dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin – truyền thông của nước ta hiện nay lại
là một thách thức lớn khi Nhà nước đang đặt mục tiêu tăng tốc để trở thành một
nước mạnh về công nghệ thông tin – truyền thông.
Những kết quả phân tích trên cho thấy vị trí của Việt Nam trên bản đồ
kinh tế tri thức thế giới còn rất thấp. Những số liệu một lần nữa cho thấy lĩnh
vực nghiên cứu chủ đạo của Việt Nam là y sinh học và vật lý chứ không phải
toán. Và cho thấy ngay “nội lực” khoa học cũng kém vì có tới 62% công trình

nghiên cứu phải hợp tác với nước ngoài và vì xuất khẩu hàng hóa kĩ thuật cao ở
mức thấp nhất trong vùng.
Năm 2020 được xem là thời điểm đến đích của sự nghiệp công nghiệp
hóa đất nước của Việt Nam, tức chỉ còn bảy năm (tính từ năm 2013). Đại hội
Đảng XI mới đây cũng nhấn mạnh đến “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.
Vậy thì vói vị trí hiện nay như vây, mục tiêu cao cả đó có thể hoàn thành được
không nếu không có một cuộc cách mạng trong khoa học và công nghệ?
10
2.2. Vai trò của nền kinh tế tri thức đối với phát triển công nghiệp
hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:
Kinh tế tri thức có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tiến hành
hiện đại hoá - công nghiệp hoá đất nước. Nước ta hiện nay cần phải xây dựng
một nền kinh tế vững chắc song song với quá tŕnh hiện đại hoá - công nghiệp
hoá đất nước. Từ những năm 80 đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ và hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng… nền kinh tế thế giới
đang biến đổi một cách sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương
thức hoạt động. Đây không phải là một sự biến đổi bình thường mà là một bước
ngoặc lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế chuyển từ kinh tế công nghiệp
sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp
sang văn minh trí tuệ. Những năm gần đây nhiều công tŕnh nghiên cứu, nhiều
hội nghị, nhiều hội thảo quốc tế và trong nhièu văn bản chiến lược của nhiều tên
gọi khác nhau nhưng nền kinh tế tri thức là tên gọi thường dùng nhất, tên gọi
này nói lên được nội dung cốt lõi của nền kinh tế mới. Chính vì vậy nước ta cần
phải đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng của nền kinh tế tri thức trong quá tŕnh
tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa nền kinh tế nước nhà bắt
kịp và phát triển cùng thế giới.
Cụ thể hơn về vai trò của nền kinh tế tri thức đối với sự phát triển công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:

Thứ nhất : Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào trí tuệ con người nhiều
hơn dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Phát triển kinh tế tri thức sẽ tiết kiệm được
tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm bớt nặng nhọc
trong lao động. Việc chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức
trên thế giới hiện nay là một chuyển biến vô cùng to lớn, nó vừa đặt ra những
thách thức, nhưng đồng thời cũng mang lại không ít cơ hội cho tất cả các nước.
Trước tình hình đó mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế đều rất quan tâm và đưa ra
những chính sách hết sức khác nhau hoặc là để thích ứng, hoặc là để tiến thẳng
vào nền kinh tế tri thức hoặc là chuẩn bị những điều kiện cần thiết tối thiểu cho
sự ra đời của nền kinh tế tri thức. Tùy theo hoàn cảnh của mình, các nước đều
tìm cách tận dụng cơ hội và cố gắng đối phó với những thách thức này nhằm để
chiếm lĩnh vị trí dẫn đầu hoặc khỏi bị tụt hậu quá xa so với thời đại.
Ví dụ : Chẳng hạn việc khai thác và bán một số tài nguyên thiên nhiên ở
dạng thô là những hoạt động kinh tế không chứa hàm lượng tri thức cao. Một
11
nền kinh tế tri thức sẽ hướng đến việc làm sao để biết cách chế biến các tài
nguyên thô thành các sản phẩm có giá trị cao hơn trước khi bán ra, đến việc có
các thông tin toàn cầu về những quốc gia nào cần bán và mua các tài nguyên
này để có quyết sách hợp lý nhất. Nếu có hiểu biết và không chỉ nhằm thị
trường trước mắt, rất có thể việc hoãn vài chục năm không khai thác và bán
ngay một số tài nguyên sẽ có lợi hơn trong toàn cục. Đây là việc “sử dụng hiệu
quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội”.
Thứ hai : Ngay từ năm 2001, Đảng ta đã nhận định: kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Báo cáo
chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ: Con đường
công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với
các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa

học và công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Ví dụ: Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2012, chỉ số sản xuất công
nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng
3,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%; sản xuất, phân phối điện, khí
đốt tăng 12,3%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%.
Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tăng cao so với năm 2011 là: Đóng
tàu và cấu kiện nổi tăng 136,7%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 48,3%; sản
xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ tăng 39,6%; sản xuất linh kiện điện tử tăng
23,7%; sản xuất đường tăng 17,7%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng
12,3%; khai thác dầu thô tăng 9,8%; sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng
9,7%; sản xuất bia tăng 9,7%. Một số ngành có mức tăng khá là: Khai thác, xử
lý và cung cấp nước tăng 8,8%; sản xuất sợi tăng 8,1%; sản xuất thức ăn gia
súc, gia cầm tăng 7,9%; chế biến và bảo quản thuỷ sản tăng 7,9%.
Những con số trên đã cho thấy được những thành công bước đầu trong việc sử
dụng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong các ngành công nghiệp
Thứ ba : Qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ngành khoa
học và công nghệ nước ta đã có những bước phát triển mới, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Khẳng định vai trò
12
không thế thiếu của khoa học công nghệ, Đại hội X đã chỉ rõ: Phát triển mạnh,
kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục đào tạo để
thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XI với sự
phát triển mới về nhận thức lý luận và thực tiễn, Đảng ta đã xác định rõ: thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Đây là một trong những chủ trương có vai trò định hướng rất quan trọng trong
thời kỳ phát triển của Việt Nam đến năm 2020.
Ví dụ : Nói về những thành công trong lĩnh vực khoa học – công nghệ
trong thời gian qua, Thứ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ Hoàng Văn Huây
cho biết: Có những công nghệ Việt Nam đã đạt trình độ hiện đại của thế giới

như công nghệ đóng tàu. Việt Nam đã xuất khẩu được những tàu biển cỡ lớn
sang nhiều nước có ngành công nghiệp đóng tàu nổi tiếng như Anh, Pháp, Thụy
Sĩ Chỉ với đầu tư khoảng 50 tỉ đồng từ Bộ Khoa học – Công nghệ , các đề tài
dự án đã giúp ngành đóng tàu nắm vững các công nghệ hàn và lắp ráp tàu tiên
tiến, tạo ra một số sản phẩm và thiết bị hiện đại, tương đương với trình độ quốc
tế. Sức mạnh công nghệ đã góp phần giúp Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy
đóng thành công tàu hàng 6.500 tấn và 12.500 tấn, tàu hút bùn công suất 1.500
m3/h Ông Phạm Thanh Bình - Tổng giám đốc Tổng công ty Công nghiệp tàu
thủy Việt Nam cho biết: Mới đây phía Anh đã ký hợp đồng đóng 15 tàu trọng
tải 53.000 tấn, trị giá trên 300 triệu USD.Đó chính là tin vui cho nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư : Kinh tế tri thức là cách thức nhanh chóng để thoát khỏi tình trạng
lạc hậu. Quan tâm, đầu tư phát triển kinh tế tri thức mới có thể đẩy nhanh tốc độ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2020. Ngược lại, việc thực hiện mục tiêu và các bước đi của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kể cả
hạ tầng xã hội cho phát triển kinh tế tri thức, mới có điều kiện để đầu tư vào
phát triển kinh tế tri thức. Với lợi thế của các nước đi sau tranh thủ ứng dụng
những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất vào phát triển kinh tế, rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa ở nước ta phải thực
hiện hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và
từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Ở các nước đi trước hai quá trình
này kế tiếp nhau, còn ở Việt Nam hai quá trình này lồng ghép vào nhau và hỗ
trợ lẫn nhau.
13
Ví dụ: Tri thức sẽ thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, đưa các nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu như phát triển các
phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý,
vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Thực tế cho thấy khi chúng ta
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, internet, mạng viễn thông kỹ

thuật số, điện thoại di động , tức là phát triển một số bộ phận của kinh tế tri
thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của
công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ.
Thứ năm : Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, kinh tế tri thức tạo ra sự
ảnh hưởng nhanh chóng và sâu rộng đối với sản xuất và đời sống. Kinh tế tri
thức và các sản phẩm của nó nhanh chóng thâm nhập đời sống thông qua việc
đầu tư cho học tập, cho các phương tiện thông tin (điện thoại di động, Internet,
mạng viễn thông kỹ thuật số, truyền hình số…). Điều đó còn được thể hiện cả
trong tiêu dùng bởi giá trị của kiến thức được coi trọng, những người được đào
tạo có hệ thống, có kỹ năng làm việc, có kinh nghiệm thường được hưởng thù
lao cao hơn và cuộc sống tốt hơn.
Ví dụ : Khả năng thực hiện những bước nhảy vọt cơ cấu mạnh mẽ (nhảy
vọt công nghệ, nhảy vọt cấp độ sản phẩm). Thực tiễn phát triển hiện đại ở nhiều
nước đã chứng tỏ khả năng nhảy vọt này. Việc Ấn Độ trở thành một thế lực lớn
của nền kinh tế thông tin, Trung Quốc trở thành cường quốc sản xuất hàng điện
tử hay Estonia, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, với 1,3 triệu dân, trở
thành trung tâm phát triển công nghệ điện thoại miễn phí toàn cầu Skype và nhờ
bệ phóng đó, đã nhanh chóng gia nhập vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu ở
khâu có giá trị gia tăng cao nhất để nhanh chóng đuổi kịp các nước Tây Âu
(trước hết là ở những lĩnh vực “nhảy vọt”)
Từ những vai trò đó, khi đứng trước xu thế có tính thời đại, Việt Nam
không còn sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận, quan tâm, đầu tư xây dựng
nền kinh tế tri thức, xác định hướng đi, tốc độ sao cho phù hợp với khả năng,
điều kiện hiện tại. Chính vì vậy chúng ta cần khẩn trương xây dựng và triển
khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020 . Đây không chỉ là chủ
trương có tính đột phá nhằm rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta mà còn là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của
nền kinh tế nước nhà.
2.3. Đánh giá chung về vai trò của nền kinh tế tri thức đối với phát
triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:

14
2.3.1. Ưu điểm của nền kinh tế tri thức trong nền kinh tế Việt Nam:
Đánh giá theo vai trò của nền kinh tế tri thức, thì trong hơn 20 năm đổi
mới, nền kinh tế tri thức đã giúp Việt Nam đã đạt được những kết quả, thể hiện
chủ yếu như sau:
Thứ nhất: giúp tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Liên lục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định. Trong 6 tháng đàu năm 2012, GDP của nước ta tăng 4,38%,
Cụ thể, GDP trong quý 1 tăng 4% và lên 4,66% trong quý 2.
"Từ quý 2 nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt đối với khu
vực công nghiệp và xây dựng: Giá trị tăng thêm của khu vực này quý 1/2012 chỉ
tăng 2,94% so với cùng kỳ năm trước, sang quý 2 đã tăng lên 4,52%, trong đó
công nghiệp tăng từ 4,03% lên 5,40%", báo cáo của Tổng cục Thống kê cho
biết.
Ngoài ra, đóng góp vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế 6
tháng đầu năm 2012, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,81%, đóng
góp 0,48 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,81%, đóng
góp 1,55 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,57%, đóng góp 2,35 điểm
phần trăm.
Một số lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các
lĩnh vực dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo,
nghiên cứu phát triển công nghệ đã dần hình thành và có bước phát triển.
Những thành tựu này được chờ đợi sẽ hình thành và thúc đẩy phát triển, đổi mới
toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai : giúp nước ta xây dựng được thể chế thị trường, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế trong khu vực.
Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dung hệ
thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước,
tăng cường năng lực, tính năng dộng và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ, công chức, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt đẹp

hơn cho người dân, cơ cấu lao động thay đổi với sự từng bước gia tăng của lực
lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản phẩm, làm văn
phòng (còn gọi là lao động tri thức)
Thứ ba: giúp nước ta chủ động hội nhập quốc tế.
15
Kết quả cho đến nay, lần đầu tiên nước ta đã thiết lập được mối quan hệ
bình thường vói tất cả các nước lớn, các nhóm nước và trung tâm tài chính lớn
trên thế giới. Nhờ vậy nước ta đang từng bước trở thành một mắt khâu trong
mạng lưới sản xuất kinh doanh toàn cầu, thoát khỏi tình trạng lạc hâu, trong đó
có những hoạt động liên quan đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức.
Nhờ vậy, nếu chúng ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa theo hướng
trên thì sẽ tạo ra những bứt phá ngoạn mục trong phát triển kinh tế ở nước ta
theo hướng kinh tế tri thức.
2.3.2. Hạn chế của nền kinh tế tri thức trong nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Nền kinh tế tri thức chẳng những ở một vị trí thấp trên thế giới
mà còn thấp so với các nước trong vùng. Tính chung, ta chỉ cao hơn Lào,
Campuchia và Myanmar.
Thứ hai: Cả nước hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, cùng với
trên 3 vạn tiến sĩ nhưng mỗi năm chỉ có khoảng 900 bài báo khoa học trên các
tập san quốc tế. Đó là một năng suất cực kỳ khiêm tốn, nếu nhìn theo chuẩn
mực quốc tế mỗi giáo sư phải có ít nhất một bài báo khoa học mỗi năm.
Vấn đề là ở nước ta vẫn tồn tại một sự nhầm lẫn giữa bài báo khoa học và
bài báo phổ thông. Chẳng hạn, gần đây báo chí nói đến một nhà khoa học có số
lượng bài báo kỷ lục về rùa, nhưng tìm hiểu thì ông này chỉ có hai công trình
nghiên cứu và chưa có bài nào trên một tập san quốc tế. Không ít nhà khoa học
nghĩ rằng những bài báo trên các tạp chí chuyên ngành hay thậm chí trên báo
chí phổ thông là công trình nghiên cứu. Với cách làm khoa học như thế, chúng
ta không ngạc nhiên khi thấy năng suất khoa học quốc gia rất thấp so với quốc
tế.
Vấn đề là cộng đồng khoa học Việt Nam chưa nhất trí tạo ra những chuẩn

mực khách quan để đánh giá thành tựu một nhà khoa học. Vì thiếu một chuẩn
mực khách quan nên có sự lẫn lộn giữa bài báo phổ thông, bảng tóm tắt trong
hội nghị và một bài báo khoa học nghiêm chỉnh. Từ sự lẫn lộn này dẫn đến
những sai lầm trong đánh giá và đề bạt các chức danh khoa học. Từ đó chúng ta
có rất nhiều nhà khoa học “phổ thông”, nhưng rất ít những nhà khoa học thứ
thiệt.
Theo thông lệ quốc tế, một công trình khoa học chỉ có thể xem là hoàn tất
nếu kết quả công trình đó được công bố trên những tập san khoa học có bình
duyệt, để người ta có thể công khai đánh giá công trình khoa học đó giá trị ra
sao. Một công trình mang tiếng là nghiên cứu khoa học, tiêu nhiều triệu, thậm
16
chí nhiều tỉ đồng (tiền thuế của dân đóng) mà không được công bố trên các tập
san khoa học có bình duyệt, tức không công khai quốc tế, thì không thể xem là
hoàn tất được và như vậy tác giả vẫn còn nợ người dân.
Thứ ba: Việt Nam vẫn là nước đang phát triển có thu nhập thấp. Một tỉ lệ
lớn (khoảng 57%) công việc vẫn nằm trong khu vực nông nghiệp, trong khi khu
vực công nghiệp chỉ chiếm 17,4% và dịch vụ là 24,7%. Hơn thế nữa, phần đóng
góp của tri thức vào phát triển kinh tế rất hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu
do lao động và vốn tạo nên.
Thứ tư : Nhận định rằng tri thức là một động lực phát triển mới nhưng
vẫn còn hạn hẹp về nguồn nhân lực nên nền kinh tế vẫn phát triển một cách hạn
chế.
Vì thế gây ra nhiều khó khăn trong quá trình phát triển công nghiệp hóa –
hiện đại hóa ở Việt Nam. Tuy Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam
sẽ trở thành một nước công nghiệp nhưng với những hạn chế về mặt kinh tế tri
thức như vậy thì cần phải có nhiều giải pháp tích cực hơn để có thể phát triển
đất nước.
17
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VỀ VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN

CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM:
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò của nền kinh tế tri
thức đối với phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:
3.1.1. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và
vị trí, vai trò của trí thức.
Lịch sử phát triển của mỗi quốc gia dân tộc đều phải trải qua thời kỳ công
nghiệp hoá đất nước.
Ở Việt Nam từ Đại hội III (1960) đến Đại hội V (1982) về đường lối xây
dựng kinh tế, Đảng ta chủ trương ''tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng
văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ”
.
Tại Đại hội V và Đại hội VI, Đảng ta đưa ra khái niệm: ''chặng đường
trước mắt'', ''chặng đường đầu tiên'' của thời kỳ quá độ. Theo đó: ''Chặng đường
đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn''. Độ dài và vị trí của
chặng đường này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội V: ''Chặng đường
trước mắt bao gồm thời kỳ đầu 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990, là
khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt''.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V, đến Đại hội VI, Đảng ''Xác
định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội trong chặng đường
tiếp theo”.
Đại hội VII (1991) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh 1991, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Cương lĩnh viết: Phát
triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời

sống nhân dân.
18
Tháng 1 - 1994, Đảng ta tiến hành Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII. Trên cơ sở đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế
của đất nước, Hội nghị cho rằng: ''Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục,
nhưng thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất
nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước'' .
Đại hội VIII (1996) của Đảng khẳng định những thành tựu sau 10 năm
đổi mới (1986-1996) đề ra phương hướng phát triển cho chặng đường tiếp theo.
Văn kiện Đại hội VIII viết: Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực của nước ta về chất đã có sự
chuyển biến về chất. ''Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nghiêm
trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo
được tiền đề cần thiết chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước''. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được Đảng ta khẳng định từ Đại hội VIII, tiếp tục được bổ sung, phát triển
trong các văn kiện Đại hội IX, X, XI và các văn kiện của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa VIII, IX, X.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn còn những nhận thức khác nhau về đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa:
- Tại Đại hội X của Đảng có ý kiến cho rằng chúng ta bàn nhiều về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng đến nay vẫn chưa thực sự đưa ra được những
tiêu chí cơ bản của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm mục tiêu
phấn đấu. Giải trình vấn đề này, Đoàn chủ tọa Đại hội X cho biết xin tiếp thu bổ
sung vào văn kiện Đại hội, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những tiêu chí
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong quá trình xây dựng chiến lược
phát triển đất nước giai đoạn 2010 – 2020.
- Mới đây, tại Đại hội XI vẫn còn ý kiến đề nghị làm rõ các tiêu chí của
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại, xác định rõ nội dung cụm từ ''nước công nghiệp''.
- Việc ghi các chỉ tiêu định lượng vào mục tiêu phấn đấu trong văn kiện
Đại hội X có 3 loại ý kiến khác nhau:
+ Không ghi các chỉ tiêu đó vào trong Nghị quyết Đại hội.
+ Nhiều chỉ tiêu đề ra là quá cao, khó thực hiện.
19
+ Một số chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết còn thấp chưa tương xứng với
mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Giải trình những ý kiến trên, Đoàn Chủ tịch Đại hội XI cho biết trong quá
trình chuẩn bị văn kiện Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ
đạo nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ để xác định mục tiêu tổng quát, các mục
tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xã hội, môi trường đến năm 2020.
Mục tiêu tổng quát mà chúng ta cần đạt được là ''phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững, vị trí của Việt Nam được tiếp tục nâng lên, tạo tiền đề vững
chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau''
Từ mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội XI còn đề ra những mục tiêu chủ
yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường đến năm 2020: GDP năm
2020 bằng khoảng 2,2 lần so với 2010, GDP bình quân đầu người khoảng 3,5
lần so với năm 2010, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng
85 % trong GDP, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35 % lao
động xã hội, chỉ số phát triển con người HDI đạt nhóm trung bình của thế giới,
tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, lao động qua đào tạo đạt từ 70 %, đào tạo nghề
đạt 55 % tổng lao động xã hội, số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Điểm mới
trong văn kiện Đại hội XI là Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu về bảo vệ
môi trường: Đến năm 2020 tỉ lệ che phủ rừng đạt 45 %, hầu hết dân cư ở cả
thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch, trên 80 % các cơ sở sản xuất
kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.

Có thể nói với Đại hội XI của Đảng, mục tiêu tổng quát và những mục
tiêu chủ yếu về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của nước Việt Nam đến
năm 2020 đã được xác định trên những nét chủ yếu.
Một trong nhĩmg nhân tố quan trọng nhất để đạt các mục tiêu trên là đội
ngũ trí thức - nguồn lực chất lượng cao chủ yếu của đất nước.
Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân
tộc, trong đấu tranh giành chính quyền cần trí thức, kháng chiến, kiến quốc cần
trí thức, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần trí thức hơn, Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định''. Đội ngũ cán bộ khoa học, đặc biệt là cán bộ có trình
độ khoa học cao là vốn quý báu của dân tộc”
.
20
Ngay từ Đại hội VIII - Đại hội xác định nước ta bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chỉ rõ: Cùng với khoa học công
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát
triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội III yêu cầu: Phát triển và kết hợp chặt chẽ các
ngành khoa học phục vụ việc xác định phương hướng, bước đi của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình kinh
tế xã hội.
Trong văn kiện Đại hội XI từ đổi mới mô hình tăng trưởng đến phát triển
nhanh gắn với phát triển bền vững. Đảng ta đều chú trọng làm nổi bật vị trí, vai
trò của trí thức. Đảng ta khẳng định phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước.
3.1.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và vị trí, vai trò của trí thức.
Từ thập kỷ 80 thế kỷ XX đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học, công nghệ, sự bùng nổ các công nghệ cao, nhất là công nghệ thông

tin, công nghệ tin học đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến nền kinh tế thế giới và
xã hội loài người. Nền kinh tế thế giới bước sang một giai đoạn mới: Trí thức
trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển sản xuất. Hiện nay, có
nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất.
Kinh tế tri thức là khái niệm được các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) nêu lên từ năm 1985 và hiện đang được sử dụng phổ biến, kinh
tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất khi hàm lượng lao
động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp trong lao động xã hội ngày một giảm đi
trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc ngày càng tăng. Kinh tế tri
thức là sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Theo quy định một ngành, một nước có thể nói là đã trở thành kinh tế tri
thức khi tỉ lệ đóng góp của yếu tố tri thức trong tăng trưởng kinh tế, sản xuất các
sản phẩm, dịch vụ chiếm từ 70% trở lên.Có người đưa ra quy định tiêu chí của
kinh tế tri thức được thể hiện ở 4 con số trên 70%.
21
- Trên 70 % GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ sử dụng công nghệ
cao mang lại.
- Trên 70 % cơ cấu giá trị gia tăng là do kết quả của lao động trí óc.
- Trên 70 % lực lượng lao động là công nhân trí thức.
- Trên 70 % tư bản là tư bản con người.
Từ năm 2000 ở một số nước phát triển nhất như Mỹ, Nhật Bản, Canađa,
kinh tế tri thức chiếm tỉ lệ trên 50 %. Cũng từ năm 2000 trong các nước OECD
công nhân trí thức chiếm trên 35% lực lượng lao động.
Đảng ta quan niệm kinh tế tri thức là một xu thế khách quan, một trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất. Việc nước ta tích cực, chủ động tiếp thu
kinh tế tri thức phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như là một
biểu hiện cụ thể của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với chủ trương đó, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta.

Văn kiện Đại hội IX khẳng định: Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ áp dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn, phổ biến hơn những thành tựu mới về
khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế kinh tế tri thức.
Mười năm sau, nhận thức của Đảng ta về kinh tế tri thức đối với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có bước tiến rõ rệt. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
XI viết: ''Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên
môi trường”.
Cũng như vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề kinh tế tri thức
mấy năm gần đây trong Đảng và ngoài xã hội còn những nhận thức khác nhau:
- Một số ý kiến cho rằng trong điều kiện nước ta, chưa nên gắn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế tri thức. Bởi vì, cho đến nay nước ta vẫn
còn là nước nông nghiệp, hơn 70 % dân cư vẫn sống ở địa bàn nông thôn. Nên
chăng chỉ dùng cụm từ ''từng bước phát triển kinh tế tri thức như chủ trương tại
Đại hội IX của Đảng''.
22
Một số ý kiến khác bày tỏ quan điểm không nên coi kinh tế tri thức là
chiếc đũa thần có thể giải quyết được mọi việc. Quá chú trọng đầu tư vào lĩnh
vực này là vượt quá khả năng của nước nhà.
Cần nhận thức rằng chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là cần thiết và có tính khả thi vì:
- Kinh tế tri thức là xu thế phát triển mới của thế giới hiện nay. Tất cả
mọi quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế
chung mà cần tích cực, chủ động phát triển kinh tế tri thức phù hợp với điều
kiện bên trong và xu thế bên ngoài.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức vừa thể hiện bước tiến trong nhận thức của Đảng vừa đáp ứng yêu cầu phát

triển của đất nước. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế tri thức thực chất là thực hiện
chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức.
- Trên thực tế, những năm gần đây ở nước ta đã xuất hiện những mô hình
phát triển mới dựa vào tri thức. Đó là Tổng công ty Bưu chính viễn thông, là
những cánh đồng cho thu hoạch 500 - 600 triệu đồng/ l ha ở Hải Dương, Đà Lạt.
Đó còn là việc ứng dụng những công nghệ cao trong một số cơ sở sản xuất công
nghiệp như đóng tàu, dầu khí, nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Việc phát triển kinh tế tri thức đã đặt người trí thức vào vị trí trung tâm
của sự phát triển đó. Văn kiện Đại hội XI viết: ''Thực hiện các chương trình, đề
án đào tạo nhân lực chất lượng cao, đổi mới các ngành, lĩnh vực chủ yếu mũi
nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho
phát triển kinh tế tri thức''. Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những ngành, những
lĩnh vực khoa học công nghệ làm nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức cần tập
trung để phát triển là: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ môi trường.
3.1.3. Lựa chọn khâu đột phá chiến lược để khai thông các điểm
nghẽn và vị trí, vai trò của trí thức.
Đối với Việt Nam việc gắn công nghiệp hoá với hiện đại hóa, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế tri thức đều khá mới mẻ. Đi vào các lĩnh
vực này nảy sinh những khó khăn, vướng mắc cần phải tháo gỡ là một tất yếu.
Các văn kiện của Đảng trước Đại hội XI đã nhiều lần đề cập đến ách tắc, khó
khăn, bất cập cần giải quyết. Đại hội Đảng lần thứ XI nêu lên 3 điểm nghẽn cản
trở sự phát triển đất nước;
23
- Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện.
- Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn
nhiều hạn chế, yếu kém.
- Kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ.
Vấn đề đặt ra cần tháo gỡ ở điểm nghẽn thứ hai không phải là nguồn nhân
lực nói chung mà là chất lượng nguồn nhân lực. Có thể nói Việt Nam đang ở

trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực: Thừa nhân lực phổ thông, lao
động giản đơn, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề, nhất
là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu đàn. Văn kiện Hội nghị Trung ương bảy,
khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nuớc chỉ rõ ở nước ta: ''Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít”. Đây là
một nguyên nhân trực tiếp tạo nên điểm nghẽn thứ hai và tác động đến các điểm
nghẽn khác.
Để từng bước tháo gỡ 3 điểm nhấn nêu trên, Đại hội XI của Đảng đã xác
định 3 khâu đột phá chiến lược:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất luợng cao.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại.
Có thể coi 3 khâu đột phá chiến lược như là những giải pháp để tháo gỡ 3
điểm nghẽn.
Từ việc giải quyết 3 điểm nghẽn, nhất là điểm nghẽn thứ hai, Đảng ta đã
khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức: ''Ngày nay, cùng với sự phát triển
nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức
trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia
trong chiến lược phát triển''.
Như vậy, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển
rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn nhân lực, tiềm năng trí tuệ của
dân tộc, đặc biệt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
24
3.2. Giải pháp của Đảng, Nhà nước về vai trò nền kinh tế tri thức đối
với phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam:
Để mở đường cho kinh tế tri thức phát triển, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần chú trọng các giải pháp sau đây:
1. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, chính sách, thể chế, tổ chức quản

lý, tạo môi trường kinh doanh sôi động, giải phóng mọi khả năng sáng tạo, mở
đường cho kinh tế tri thức phát triển.
Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong tình hình mới. Đặc biệt
cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa để huy động lực lượng lớn trí
thức người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao tri thức mới, công nghệ mới
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
2. Cải cách, hiện đại hóa nền giáo dục, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế tri thức
Chú ý đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công
nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề; thực hiện liên kết chặt
chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước
để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Đồng thời, thực hiện tốt các
chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực
chủ yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo
nhân lực cho phát triển KTTT. Theo đó, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách
đồng bộ trong thực hiện Nghị quyết số 27, ngày 06-8-2008 của Hội nghị Trung
ương 7, khoá X về xây dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Cải cách giáo dục là một cuộc cách mạng sâu sắc không chỉ trong ngành
giáo dục mà là trong xã hội; nó bắt nguôn từ sự đổi mới tư duy về giáo dục.
3. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, tạo động lực
mạnh mẽ cho phát triển kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống là tạo ra tri thức và sử
dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Do đó chính sách quốc gia ưu tiên quan
trọng hàng đầu là nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia, nhằm có đủ
khả năng truy cập vào kho tri thức toàn cầu, làm chủ các tri thức mới của thời
25

×