Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

BÀI GIẢNG LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.24 KB, 77 trang )

Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÀI GIẢNG
LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Giảng viên: Ths.Nguyễn Thị Hà
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 3 năm 2013
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
LỜI NÓI ĐẦU
Luật hành chính là môn học cơ sở ngành của ngành quản trị văn phòng. Môn
học này cung cấp cho người học về những kiến thức cơ bản về hoạt động quản lý hành
chính nhà nước và những vấn đề cơ bản về địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức và viên chức.
Cùng với công cuộc cải cách hành chính hiện nay trong nhiều lĩnh vực và yêu
cầu của quá trình dân chủ ở cơ sở là những đòi hỏi khách quan để tăng quyền chủ động
quản lý và điều hành của bộ máy hành pháp, nhất là ở các cấp địa phương, nơi tập
trung quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân và người lao động;
Trên cơ sở giáo trình Luật hành chính Trường Đại học Luật Hà Nội và rất nhiều
giáo trình, tài liệu tham khảo, giảng viên đã biên soạn bài giảng này nhưng đã có sự
cập nhật những nội dung cũng như những văn bản mới nhất để đáp ứng cho việc giảng
dạy, học tập hiện nay.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các sinh viên để
bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn.
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 3 năm 2013
Tác giả
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị




2
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Chương 1
LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM -
NGÀNH LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1.KHÁI NIỆM
1.1.1.Khái niệm quản lý
Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những
quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động
theo ý muốn của người quản lý và nhằm đạt được những mục đích đã định từ trước.
Dưới góc độ pháp lý, Mác đã coi “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ
bản chất xã hội của quá trình lao động”.
Như vậy, ở đâu có sự lao động chung của nhiều người thì ở đó cần có sự quản lý,
trong đó sự liên kết các hoạt động của mỗi cá nhân con người là rất cần thiết. Hoạt động
liên kết chính là nội dung của công tác tổ chức. Tổ chức là sự phân công, phân định rõ
ràng chức trách của từng người trong tập thể, là sự phối hợp các hoạt động riêng rẽ của
các cá nhân trong tập thể. Do đó, tổ chức là yếu tố quyết định mang lại hiệu quả cho
quản lý.
Để điều khiển, phối hợp hoạt động của các cá nhân trong tập thể con người, quản
lý cần có phương tiện để buộc con người phải hành động theo những nguyên tắc nhất
định, phải phục tùng những khuôn mẫu, mệnh lệnh nhất định. Phương tiện đó là uy tín
hoặc quyền uy, quyền lực.
Tóm lại, quản lý nảy sinh bất kỳ lúc nào và bất cứ đâu, nếu ở đó có hoạt động
chung của nhiều người. Vì vậy, quản lý tồn tại từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến xã
hội có nhà nước và cả khi xã hội không còn giai cấp và nhà nước nữa.
- Chủ thể quản lý là con người hay tổ chức của con người. Những cá nhân hay tổ
chức này là những đại diện có quyền uy.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị



3
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
- Khách thể quản lý là trật tự quản lý nhất định mà các bên tham gia quan hệ quản
lý cụ thể đều hướng tới. Trật tự này được điều chỉnh bởi nhiều quy phạm khác nhau như
quy phạm đạo đức, quy phạm chính trị, quy phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật
1.1.2.Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà
nước.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Thông qua pháp luật, nhà nước có thể
trao quyền lực của mình cho các cá nhân hay tổ chức xã hội để các chủ thể đó thay mặt
nhà nước tiền hành hoạt động quản lý nhà nước đối với toàn xã hội.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là hoạt động chỉ đạo thực hiện pháp
luật gọi là quản lý hành chính nhà nước hay còn gọi là quản lý công hoặc hành chính
công.
Quản lý hành chính nhà nước là hình thức hoạt động của nhà nước được thực
hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm
sự chấp hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước nhằm tổ
chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh
tế, văn hoá, xã hội và hành chính - chính trị ở nước ta. Nói cách khác, quản lý hành
chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
- Chấp hành là làm đúng những yêu cầu của pháp luật, là hoạt động đưa pháp luật
vào thực tiễn quản lý nhà nước.
- Điều hành là việc chỉ đạo đối tượng thuộc quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ
theo pháp luật, là việc các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm
quyền và các chủ thể quản lý hành chính khác phải tiến hành hoạt động liên tục, thường
xuyên nhằm trực tiếp và tổ chức chỉ đạo thực hiện pháp luật đối với các đối tượng quản
lý thuộc quyền để đạt mục đích là năng suất, chắt lương, hiệu quả.

Trong quá trình điều hành, các chủ thể quản lý nhà nước có quyền nhân danh nhà
nước, sử dụng quyền lực nhà nước ban hành các văn bản quản lý để đặt ra quy phạm
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


4
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
pháp luật hay mệnh lệnh pháp luật cụ thể có tính bắt buộc đối với các đối tượng quản lý
có liên quan. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật
của các đối tượng quản lý đó.
Chấp hành và điều hành có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ngoài ra quản lý hành
chính nhà nước luôn mang tính chủ động, sáng tạo.
- Chủ thể quản lý nhà nước là cá nhân hay tổ chức mang quyền lực nhà nước, bao
gồm nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân được nhà nước uỷ quyền để
nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Chủ
thể quản lý hành chính nhà nước là cá nhân hay tổ chức có quyền năng thực hiện quyền
lực nhà nước, bao gồm: cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền,
các cá nhân thuộc các cơ quan kiểm sát, xét xử và các tổ chức xã hội hoặc cá nhân khác
được nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể.
- Khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước. Khách thể quản lý
hành chính nhà nước là trật tự quản lý hành chính nhà nước tức là trật tự quản lý trong
lĩnh vực chấp hành điều hành.
1.2. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA
LUẬT HÀNH CHÍNH
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Những quan hệ này được gọi là quan hệ quản lý
hành chính nhà nước hay quan hệ chấp hành - điều hành.
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính có thể được chia thành 3 nhóm quan hệ
quản lý:

Nhóm 1 là các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, bao gồm:
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


5
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính cấp
dưới theo hệ thống dọc. (Ví dụ: Quan hệ giữa UBND TP. Đà Nẵng với UBND Quận Hải
Châu).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp. (Ví dụ: Quan hệ giữa UBND
Thành phố với Sở Tư pháp TP.Đà Nẵng).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên
với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp dưới trực tiếp. (Ví dụ:
Quan hệ giữa Sở giao thông TP. Đà Nẵng với UBND Quận Thanh Khê).
- Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn
cùng cấp với nhau, cơ quan này có quyền hạn nhất định đối với cơ quan kia trong việc
thực hiện chức năng của mình theo quy định của pháp luật. Song giữa các cơ quan này
không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức. (Ví dụ: Quan hệ giữa Sở tài chính với Sở tài
nguyên và môi trường trong việc quản lý thu chi ngân sách).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước địa phương với các đơn vị trực
thuộc trung ương đóng tại địa phương đó. (Ví dụ: Quan hệ giữa UBND Quận Liên
Chiểu với Trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng).
- Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị cơ sở trực thuộc. (Ví dụ:
Quan hệ giữa UBND tỉnh Quảng Nam với Trường cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng
Nam).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị kinh tế thuộc các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. (Ví dụ: Giữa UBND huyện Duy Xuyên với Hợp

tác xã dệt may Duy Trinh).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội. (Ví dụ:
Quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
- Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài.
(Ví dụ: Quan hệ giữa UBND phường Bắc Mỹ An với công dân A trong việc xử phạt vi
phạm hành chính do A có hành vi gây rối trật tự công cộng).
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


6
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Nhóm 2 là nhóm quan hệ quản lý hình thành trong quá trình cơ quan nhà nước
xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan. (Ví dụ: Quan hệ giữa thủ
trưởng cơ quan với các cán bộ, công chức trong cơ quan đó).
Nhóm 3 là nhóm là các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và
tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện quản lý hành chính nhà nước trong một số
trường hợp cụ thể. (Ví dụ: Thẩm phán chủ toạ phiên toà được xử phạt hành chính đối
với công dân có hành vi gây rối trật tự phiên toà).
1.2.2.Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương, được
hình thành từ quan hệ quyền lực phục tùng giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước
ra những mệnh lệnh bắt buộc thi hành với một bên có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh
đó. Do đó, trong quan hệ quản lý hành chính nhà nước có sự bất bình đẳng giữa các bên
tham gia quan hệ này.
1.3. QUY PHẠM VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1.3.1.Quy phạm pháp luật hành chính
Quy phạm pháp luật hành chính là những quy tắc xử sự chung do cơ quan hay
cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành, chủ yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối
với những đối tượng có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế

nhà nước.
Quy phạm pháp luật hành chính do nhiều chủ thể ban hành, do nhiều cấp và ở tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nên có số lượng rất lớn và hiệu lực pháp luật của
chúng rất khác nhau.
Các quy phạm pháp luật hành chính được thực hiện bằng nhiều cách, nhưng tập
trung nhất và phổ biến nhất là hai hình thức như chấp hành và áp dụng.
- Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính là việc các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, đơn vị kinh tế và cá nhân làm theo đúng những yêu cầu của quy phạm pháp
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


7
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
luật hành chính. Các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính thực hiện hành vi chấp
hành quy phạm pháp luật hành chính trong các trường hợp sau đây:
+ Khi thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính quy định.
+ Khi thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính buộc phải
thực hiện.
+ Khi không thực hiện những hành vi mà pháp luật của nhà nước nghiêm cấm.
- Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính là việc các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước căn cứ vào pháp luật hiện hành để giải quyết các công việc cụ thể phát sinh
trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính là
sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật
hành chính nhất định.Việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải đáp ứng những
yêu cầu sau đây:
+ Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải đúng với nội dung, mục đích của
quy phạm pháp luật hành chính.
+ Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được thực hiện bởi cơ quan hay
cán bộ nhà nước có thẩm quyền.
+ Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được tiến hành theo đúng thủ tục

do pháp luật quy định.
+ Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được tiến hành nhanh chóng
trong thời hạn pháp luật quy định và phải trả lời công khai, chính thức kết quả giải quyết
cho các đối tượng có liên quan.
+ Kết quả áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được thể hiện bằng văn
bản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).
+ Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật hành chính phải được bảo đảm thực
hiện trên thực tế.
1.3.2. Quan hệ pháp luật hành chính
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


8
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật hành
chính điều chỉnh giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy
định của pháp luật hành chính.
Quan hệ pháp luật hành chính có những đặc trưng, đó là:
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính luôn gắn
với hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do yêu cầu hợp pháp của bất kỳ
bên nào, sự thoả thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc.
- Trong quan hệ pháp luật hành chính, một chủ thể được sử dụng quyền lực nhà
nước. Chủ thể này là chủ thể bắt buộc, nếu thiếu chủ thể này thì không thể hình thành
quan hệ pháp luật hành chính.
- Phần lớn tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải
quyết theo thủ tục hành chính và chủ yếu thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà
nước hay cán bộ nhà nước có thẩm quyền trong những cơ quan này.
- Trong quan hệ pháp luật hành chính, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước
nhà nước chứ không phải trước bên kia

Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là những bên tham gia vào quan hệ
pháp luật hành chính, có năng lực chủ thể, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo
quy định của pháp luật hành chính. Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính gồm: Cơ
quan nhà nước; cán bộ, công chức nhà nước; tổ chức xã hội; đơn vị kinh tế; công dân
Việt Nam; người nước ngoài, người không có quốc tịch.
Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính là trật tự quản lý hành chính nhà
nước. Trật tự này được nhà nước quy định trong pháp luật và được quy phạm pháp luật
hành chính điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật hành chính phát sinh, thay đổi hay chấm dứt khi có đủ hai cơ
sở là quy phạm pháp luật hành chính và sự kiện pháp lý hành chính.
Quy phạm pháp luật hành chính nêu ra các trường hợp, hoàn cảnh giả định và
buộc các đối tượng có liên quan phải thực hiện những hành vi nhất định.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


9
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Sự kiện pháp lý hành chính là sự kiện thực tế mà khi xảy ra, pháp luật hành chính
gắn nó với việc phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của các chủ thể.
1.4.NGUỒN CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH
Hệ thống nguồn của luật hành chính bao gồm:
- Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước: Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị
quyết của Hội đồng nhân dân các cấp;
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
- Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính: Nghị quyết, nghị định của
Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Tủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của
bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân và
chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao; quyết định, chỉ

thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch hoặc liên cơ quan: Nghị quyết liên tịch,
thông tư liên bộ, liên ngành
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân biệt quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước
2. Luật hành chính điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nào? Theo em, nhóm
quan hệ xã hội nào là cơ bản nhất?
3. Vì sao luật hành chính có phương pháp điều chỉnh là phương pháp quyền uy?
4. Thế nào là quy phạm pháp luật hành chính? Quan hệ pháp luật hành chính?
BÀI TẬP NHÓM
Phân tích: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phân nhiệm, phân
nhiệm, phối hợp, chế ước giữa 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


10
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Chương 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. KHÁI NIỆM
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Nguyên tắc là những điều cơ bản định ra, nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”. Nguyên tắc thường được đề cập ở nhiều
lĩnh vực khác nhau. Khoa học tự nhiện coi nguyên tắc là kết quả của khoa học, là cơ sở
để nghiên cứu trong các nguyên lý, định lý, định luật. Khoa học xã hội coi nguyên tắc là
những điều cơ bản nhất, có tính hệ thống bền vững, làm khuôn mẫu cho hành vi xử sự
của con người.
Khoa học pháp lý chủ yếu nghiên cứu các nguyên tắc pháp lý và nhấn mạnh
nguyên tắc là những tư tưởng chỉ đạo bắt nguồn từ bản chất của chế độ, được quy định
trong pháp luật, tạo thành cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và

trong các khâu của quá trình quản lý nhà nước.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những nguyên tắc pháp lý bao giờ
cũng gắn liền với bản chất chính trị của chế độ xã hội, là một dạng của nguyên tắc pháp
lý, là tư tưởng hành động, tạo cơ sở cho việc tổ chức và hành động cho các cơ quan, viên
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


11
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
chức và công chức nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định
cho họ.
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước đều xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê
nin, coi nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân lao động quản lý đất nước, xây dựng
chế độ xã hội mới. chính vì vậy, chúng không tồn tại độc lập mà các nguyên tắc hợp
thành một thể thống nhất, liên hệ chặt chẽ với nhau.
2.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
2.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong cơ chế quản lý toàn xã hội. Đó là
cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố quan
trọng khẳng định vị trí, vai trò của nó trong xã hội. Đảng là người lãnh đạo để đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân. Vì vậy, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định cụ thể:
“Đảng Công sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước
và xã hội”.
- Đảng đưa ra các quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo việc tổ chức
bộ máy nhà nước; xem xét góp ý kiến về các đề xuất của nhà nước để nhà nước quyết
định.

Sự lãnh đạo của đảng đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước là tất yếu,
thông qua uy tín của tổ chức đảng và các đảng viên nhưng không thoát ly những quy
định của Hiến pháp và pháp luật. Chính vì vậy, mà Hiến pháp đã quy định: “ các tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó cho
thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là người xây dựng đường lối phát triển xã hội nhưng họ
đồng thời là người tiên phong thực hiện pháp luật trong việc xây dựng pháp luật.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


12
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
- Nhằm thực hiện tốt đường lối của Đảng và đưa đường lối của Đảng vào cuộc
sống, công tác tổ chức cán bộ phải được xây dựng và củng cố thường xuyên. Công tác
này có tính quyết định đối với hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước vì những đảng
viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực điều hành được Đảng bồi dưỡng, đào tạo để gánh
vác những nhiệm vụ trọng trách trong bộ máy hành chính. Vì thế, Điều 4 Pháp lệnh cán
bộ công chức đã khẳng định: “Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Trong công tác cán bộ, cấp uỷ đảng đề ra tiêu
chuẩn, chính sách, nhà nước thể chế hoá thành luật, quy chế. Tuy nhiên, Đảng không
bao biện và làm thay chính quyền. Vấn đề bầu hay bổ nhiệm các chức vụ nhà nước được
thực hiện bằng pháp luật và bởi các cơ quan nhà nước theo thủ tục do pháp luật quy
định. Nói cách khác, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là khâu quan trọng không chỉ là nhiệm
vụ của Đảng mà còn là nhiệm vụ của các cấp chính quyền, của các cơ quan tổ chức. Tất
nhiên việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch,
tiêu chuẩn đối với từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch.
- Một trong những hình thức lãnh đạo rất cơ bản của Đảng là công tác kiểm tra.
Thông qua hình thức này, Đảng đánh giá được hiệu quả và tính thực tế của đường lối
của mình. Đồng thời, thông qua công tác kiểm tra, Đảng biết được hoạt động thể chế hoá
đường lối của Đảng thành pháp luật của các cấp, ngành trong cả nước. Hoạt động kiểm
tra của Đảng không đồng nhất với hoạt động kiểm tra của chính quyền. Hoạt động kiểm

tra của Đảng là phương pháp lãnh đạo chứ không phải là biện pháp quản lý. Công tác
kiểm tra của Đảng được tiến hành chủ yếu thông qua các đảng viên và các tổ chức đảng,
đồng thời tổ chức vận động quần chúnh giám sát, kiểm tra.
2.2.2. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo và quản lý hành
chính nhà nước
Nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua các hình
thức sau:
- Tham gia vào hoạt động bộ máy nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước làm công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhà nước.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


13
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Điều 6 Hiến pháp 1992 khẳng đinh: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”
Nhân dân lao động tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư
cách là đại biểu của cơ quan đó để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,
của địa phương và giám sát hoạt động chấp hành pháp luật của công chức và các cơ
quan đó.
Họ cũng có thể tham gia gián tiếp vào cơ quan nhà nước nói chung thông qua
việc bầu cử hoặc với tư cách là cán bộ nhà nước ở những cơ quan như cơ quan xét xử,
cơ quan kiểm sát hoặc cơ quan hành chính nhà nước.
- Sự tham gia của quần chúng nhân dân lao động vào hoạt động của các tổ chức
xã hội. Ở đây, nhân dân lao động đồng thời là các thành viên của các tổ chức này. Vì
thế, thông qua các tổ chức xã hội, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình để “tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước” (Điều 9 Hiến pháp 1992)
- Nhân dân lao động tham gia vào các tổ chức tự quản ở cơ sở như tổ hoà giải,

tổ dân phòng Thông qua những hoạt động tự quản này, đặt biệt qua những phong trào
thi đua sản xuất, nhân dân lao động góp phần bảo vệ của công, giữ gìn an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.
- Nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân như quyền
bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền lao động Việc thực hiện trực tiếp các
quyền và nghĩa vụ của mình là cơ hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận đóng góp công sức và trí tuệ nhằm giải quyết các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu
dân ý.
2.2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp hai yếu tố tập trung và dân chủ. Hai yếu tố
này tác động qua lại, vừa bảo đảm sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ vừa đảm bảo
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


14
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà
nước, hai yếu tố tập trung và dân chủ luôn được coi trọng như nhau, không hạn chế
nhau. Coi trọng quá mức hoặc hạn chế một yếu tố nào đều làm cho hoạt động quản lý
kém hiệu quả.
Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ: Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất
chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cáhc làm việc của mỗi cán bộ,
công chức.
Nguyên tắc tập trung dân chủ biểu hiện trong quản lý hành chính ở những điểm
sau:
2.2.3.1.Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
Sự phụ thuộc này thể hiện sự thống nhất chính trị trong tổ chức và hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta. Yếu tố tập trung thể hiện ở quyền của cơ quan

quyền lực nhà nước trong việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ các cơ quan hành chính
nhà nước, trong việc chỉ đạo và giám sát các hoạt động đối với các cơ quan này. Yếu tố
dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng
tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình những cơ quan này chỉ đạo,
điều hành các đơn vị thuộc quyền thực hiện Hiếp pháp, luật và các văn bản pháp luật của
cơ quan quyền lực nhà nước cũng như văn bản pháp luật của cấp trên.
2.2.3.2.Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương phục tùng
trung ương
Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương phục tùng trung ương
đảm bảo cho trung ương, cấp trên tập trung quyền lực nhà nước chỉ đạo, giám sát hoạt
động cấp dưới và của địa phương. Đồng thời, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý
kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và các vấn đề khác của
quản lý nhà nước; phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới phát huy tính chủ động, sáng tạo
nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


15
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
2.2.3.3.Sự phân cấp quản lý
Hình thức này biểu hiện là việc phân định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước.
Phân cấp quản lý có thể được hiểu là sự chuyển giao một số quyền hạn từ trung
ương xuống địa phương nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong quản lý.
2.2.3.4.Hướng về cơ sở
Đây là biện pháp hữu hiệu để khai thác tốt tiềm năng của cơ sở bởi vì cơ sở là nơi
trực tiếp nhất tạo ra của cải, vật chất cho xã hội, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của nhân dân. Hướng về cơ sở là mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý
tập trung.

2.2.3.5.Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương
Sự phụ thuộc hai chiều (chiều dọc và chiều ngang) bảo đảm sự thống nhất giữa
lợi ích chung của cả nước với lợi ích vùng lãnh thổ Mối phụ thuộc dọc (giữa cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên và cấp dưới theo hệ thống dọc) giúp cho cấp trên có thể
tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo cấp dưới thực hiện hoạt động chung thống nhất.
Mối phụ thuộc ngang (giữa UBND và Hội đồng nhân dân cùng cấp) tạo điều kiện
cần thiết cho cấp dưới mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh của địa phương, hoàn thành
nhiệm vụ mà cấp trên giao cho.
2.2.4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Bản chất của nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật. Tại Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định: “ Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam ”.
Nguyên tắc này biểu hiện trong quản lý hành chính nhà nước như sau:
- Trong các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan quyền lực nhà nước, đại biểu
đông đảo của dân tộc ít người bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ nhất định.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


16
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
- Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người trong quá
trình giáo dục, đào tạo cán bộ, giúp đỡ họ cả về vật chất lẫn tinh thần để họ có điều kiện
học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.
- Nhà nước có chính sách đúng đắn đối với những người đi xây dựng vùng kinh
tế mới, có kế hoạch và thường xuyên tổ chức phân bố lao động tới các vùng cao, vùng
sâu
- Nhà nước đặc biệt ưu tiên tới việc đầu tư xây dựng công trình quan trọng về
kinh tế, quốc phòng ở các vùng biên giới, hải đảo nhằm khai thác những tiềm năng kinh

tế ở những vùng này và từng bước xoá bỏ sự chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và
văn hoá tốt đẹp của mình.
2.2.5. Những tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”
Trong quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc này biểu hiện như sau:
- Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan quản lý hành chính nhà không được trái Hiến pháp và các văn bản luật
do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
- Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật phải lấy Hiến pháp, luật làm cơ sở. Việc áp
dụng quy phạm pháp luật phải phù hợp cả về nội dung và hình thức của luật hay các văn
bản quy phạm pháp luật khác.
- Trong lĩnh vực tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước
phải thống nhất, hạt nhân của sự thống nhất đó chính là pháp luật.
2.2.6. Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý của các cơ quan đơn vị, tổ chức kinh tế,
văn hoá xã hội có cùng cơ cấu kinh tế - kỷ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


17
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
nhau làm cho hoạt động tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng,
đáp ứng được với yêu cầu của nhà nước và xã hội.
- Quản lý theo lãnh thổ: Là quản lý theo sự phân cấp quản lý ngành và cơ quan
quản lý lãnh thổ phải có sự phối hợp với nhau để tránh sự mâu thuẩn, chồng chéo đi đến
thống nhất.

Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương là sự phối hợp chặt chẽ
giữa quản lý theo chiều dọc (của bộ) và quản lý theo chiều ngang (chính quyền địa
phương) theo sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý.
Nguyên tắc kết hợp này bảo đảm sự phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật, văn
hoá xã hội trên địa bàn địa phương, bảo đảm sự phối hợp đúng đắn về trách nhiệm giữa
các đơn vị kinh tế và chính quyền địa phương.
2.2.7. Nguyên tắc quản lý ngành kết hợp với quản lý theo chức năng
- Các cơ quan quản lý theo chức năng có quyền ban hành các quy định, các mệnh
lệnh cụ thể liên quan đến chức năng quản lý của mình theo quy định của pháp luật, có
tính bắt buộc thực hiện đối với các ngành, các cấp đồng thời các cơ quan quản lý theo
chức năng kiểm tra thực hiện các chính sách, chế độ do mình ban hành, xử lý hoặc đề
nghị các cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm các chính sách, chế độ do mình
ban hành theo quy định của pháp luật.
- Các cơ quan quản lý ngành có quyền hạn ban hành các quyết định, quản lý có
tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với các ngành có liên quan trong phạm vi những
vấn đề thuộc quyền quản lý của ngành và kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý
đó.
- Trong phạm vi công việc của mình, các cơ quan quản lý ngành, chức năng có
quyền phối hợp với nhau để ban hành các quyết định quản lý có hiệu lực chung.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày nội dung của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước?
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


18
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
2. Sự cần thiết phải kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ? Quản lý ngành với
quản lý theo chức năng?
BÀI TẬP NHÓM
Trong các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc nào là quan trọng

nhất? Vì sao?
Chương 3
NHỮNG HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
3.1. NHỮNG HÌNH THỨC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
3.1.1. Khái niệm:
Hình thức quản lý là biểu hiện bên ngoài các hoạt động quản lý do các chủ thể
thực hiện quyền hành pháp tiến hành như việc ban hành văn bản quản lý, tiến hành các
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


19
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
biện pháp tổ chức và tác nghiệp vật chất, kỹ thuật để nhằm thực hiện tốt chức năng quản
lý hành chính nhà nước.
3.1.2. Các hình thức quản lý:
3.1.2.1. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Đây là hoạt động mang tính đặc thù của hoạt động chấp hành - điều hành của các
chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động này được bắt nguồn từ quyền hành
pháp của các chủ thể. Quyền ban hành các văn bản này chính là quyền đặt ra các quy tắc
hành vi trên cơ sở các văn bản luật và nhằm mục đích để thi hành luật (quyền lập quy).
Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật không chỉ là hoạt động đặc thù
của các chủ thể thực hiện quyền hành pháp mà còn thông qua hình thức này chúng ta
còn thấy được vị trí, tính chất của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trung ương
hay địa phương; cơ quan có thẩm quyền chung hay thẩm quyền chuyên môn; cơ quan
lãnh đạo tập thể hay lãnh đạo cá nhân trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực hành pháp do luật định.
3.1.2.2. Ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật
- Hình thức này thể hiện bằng việc ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp

luật, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước giải quyết những vụ việc cụ thể liên
quan đến cơ quan, tổ chức hay các nhân trên cơ sở những yêu cầu và điều kiện đã được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
- Hoạt động này làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật.
3.1.2.3.Hoạt động áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp
Đây là những hoạt động không liên quan gì đến hoạt động ban hành văn bản
quản lý. Các biện pháp này có thể được thực hiện trước hoặc sau thời gian các chủ thể
ban hành văn bản quản lý. Đó là hàng loạt các biện pháp như: phân tích, nghiên cứu,
tổng kết, phổ biến kinh nghiệm
Ngoài ra, các biện pháp tổ chức còn bao gồm cả việc xây dựng kế hoạch công tác,
việc tuyển chọn và sử dụng cán bộ, phân chia chức năng tổ chức thực hiện quyết định,
kiểm tra việc thực hiện quyết định, tiến hành các cuộc họp, hội nghị
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


20
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
3.1.2.4. Thực hiện các tác nghiệp vật chất kỹ thuật
Hoạt động này bao gồm: Văn thư, thông tin, chuẩn bị tài liệu, kiểm tra thống kê
Đây là hoạt động có tính chất giúp việc nhưng có ý nghĩa rất lớn trong quản lý hành
chính nhà nước. Việc áp dụng các thành tựu của khoa học, nhất là công nghệ thông tin
vào các khâu trong quá trình quản lý hành chính đem lại hiệu quả rất lớn.
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
3.2.1. Khái niệm, đặc điểm của phương pháp quản lý
Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là những cách thức biện pháp mà nhà
nước tác động lên các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước nhằm để hướng cho các hành vi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hành chính đạt
được mục tiêu do nhà nước đặt ra từ trước.
Phương pháp quản lý hành chính có một số đặc điểm sau:

- Phương pháp quản lý phản hành chính phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quản
lý và đối tượng quản lý.
- Phương pháp quản lý hành chính do chính các chủ thể được thực hiện quyền
hành pháp tiến hành.
- Phương pháp quản lý hành chính được áp dụng trong phạm vi hoạt động chấp
hành và điều hành của quản lý nhà nước.
- Phương pháp quản lý hành chính được áp dụng nhằm để tác động một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng quản lý.
- Phương pháp quản lý hành chính được thể hiện dưới những hình thức cụ thể do
pháp luật quy định.
3.2.2. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước
3.2.2.1.Phương pháp thuyết phục
Thuyết phục: Là cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện
những hành vi nhất định.
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


21
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Phương pháp thuyết phục thể hiện trong việc sử dụng những biện pháp khác
nhau như: Giải thích, nhắc nhở, tổ chức, giáo dục tuyên truyền nhằm làm cho đối tượng
hiểu rõ nội dung và mục đích hoạt động quản lý hành chính nhà nước và họ tự nguyện,
tự giác hướng tới mục tiêu do nhà nước đặt ra từ trước.
Phương pháp thuyết phục luôn được sử dụng thường xuyên, chỉ khi nào phương
pháp này không đạt được mục đích thì mới sử dụng phương pháp cưỡng chế.
3.2.2.2.Phương pháp cưỡng chế
- Cưỡng chế: là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cá nhân hoặc tổ chức nhất định về mặt tổ chức hoặc mặt tinh thần,
nhằm buộc cá nhân hay tổ chức đó thực hiện những hành vi nhất định, do pháp luật quy
định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định về tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc

phải chịu sự hạn chế về tự cá nhân, tự do thân thể.
* Có bốn loại cưỡng chế nhà nước:
Cưỡng chế dân sự
Cưỡng chế kỷ luật
Cưỡng chế hình sự
Cưỡng chế hành chính
Trong 4 hình thức cưỡng chế trên, cưỡng chế hành chính là phương pháp được áp
dụng nhiều trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với mọi đối tượng quản lý.
Cưỡng chế hành chính có một số đặc điểm sau:
- Các chủ thể tiến hành áp dụng các biện pháp cưỡng chế là các chủ thể thực hiện
quyền lực nhà nước thuộc hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
- Cưỡng chế hành chính được áp dụng theo trình tự, thủ tục hành chính.
- Cưỡng chế hành chính hướng đến lợi ích công.
- Cưỡng chế hành chính bao gồm: Phòng ngừa, ngăn chặn và xử phạt và các biện
pháp xử lý hành chính khác.
3.2.2.3. Phương pháp hành chính
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


22
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
Là phương pháp ra mệnh lệnh, phục tùng xuất phát từ đặc điểm của quan hệ
quản lý.
3.2.2.4. Phương pháp kinh tế ( phương pháp đòn bẩy kinh tế )
Nhà nước sử dụng lợi ích vật chất để tác động lên đối tượng quản lý, nhằm kích
thích các đối tượng quản lý tự nguyện, tự giác hướng tới mục tiêu quản lý: khen thưởng
nâng mức lương trước thời hạn
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy nêu khái niệm hình thức quản lý hành chính nhà nước?
2. Các hình thức quản lý hành chính nhà nước?

3. Vì sao trong quản lý hành chính nhà nước thường kết hợp phương pháp thuyết phục
và phương pháp cưỡng chế?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Hiện nay, trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, người ta thường sử dụng
phương pháp nào để quản lý? Theo em, phương pháp nào là hiệu quả nhất?
Chương 4
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VÀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
4.1. QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
4.1.1. Khái niệm, đặc điểm
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


23
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
4.1.1.1.Khái niệm
Quyền lực nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của bộ máy nhà
nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một trong những biểu hiện của
việc thực hiện quyền lực nhà nước là ra các quyết định pháp luật. Quyết định pháp luật
bao gồm những quyết định của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư
pháp.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật…”. Những quy định được ghi nhận trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008 đều thể hiện rằng Nhà nước muốn quản lý xã hội nói chung nhất là trong
lĩnh vực công thì không thể không thể hiện ý chí thông qua quyền lực của mình dưới
hình thức là những quyết định pháp luật, trong đó có quyết định hành chính.
Để thực hiện quyền lực nhà nước, trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn
người ta đều thừa nhận vị trí và vai trò quan trọng của hệ thống cơ quan nhà nước có
chức năng quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở của quyền hành pháp- lĩnh vực thể
hiện quyền lực nhà nước một cách thiết thực nhất bởi lẽ đó là những hoạt động với mục
đích thực hiện luật (thi hành luật) nhằm cụ thể hóa các quy định của luật vào các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Chính vì vậy, hình thức hoạt động của các cơ quan trong lĩnh
vực này chủ yếu và quan trọng đó là ra quyết định hành chính để đề ra những chủ
trương, chính sách lớn, xây dựng quy tắc xử sự hoặc áp dụng pháp luật cho một công
việc cụ thể (quyết định hành chính cá biệt) nhằm mục đích thực hiện chức năng của nhà
nước thông qua quyền hành pháp .
Mặt khác, quyết định hành chính do nhiều chủ thể khác nhau ban hành với những
nội dung phong phú, đa dạng liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành
chính nhà nước. Trong số những chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính
thì các chủ thể trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng,
bởi lẽ, đây là những chủ thể cơ bản, chủ yếu thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vì vậy, quyết định hành chính
được đề cập ở Chương này là những quyết định của chủ thể trong hệ thống cơ quan hành
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


24
Trường Đại học Đông Á Khoa KHXH&NV
chính nhà nước khi thực hiện quyền lực nhà nước để quản lý các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Mặt khác, những quyết định hành chính được đề cập ở đây chỉ giới hạn những
quyết định được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Từ cơ sở nêu trên, chúng ta có thê đưa ra định nghĩa về quyết định hành chính
như sau:
Quyết định hành chính là một dạng quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể
hiện ý chí quyền lực nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiện
quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo một
trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật, nhằm đưa ra
những chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng những quy tắc đó
giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước.
4.1.1.2. Đặc điểm

Quyết định hành chính là một loại quyết định pháp luật, do vậy nó vừa mang
những đặc điểm của một quyết định pháp luật nói chung, đồng thời nó cũng lại mang
đặc điểm của một quyết định hành chính nói riêng.
Về đặc điểm chung, trước hết phải đề cập tính quyền lực nhà nước. Việc thực
hiện quyền lực nhà nước thường thể hiện dưới hình thức là những quyết định bằng văn
bản, trong số những quyết định thành văn đó thì những quyết định do các chủ thể quản
lý hành chính ban hành rất nhiều. Tính quyền lực nhà nước trước hết thể hiện ở ngay
hình thức của những quyết định, bởi lẽ theo quy định của pháp luật thì chỉ có cơ quan
nhà nước mới được quyền đơn phương ra các quyết định pháp luật xuất phát từ những
lợi ích chung, còn các tổ chức xã hội chỉ được phép kết hợp với cơ quan nhà nước để ra
một số quyết định cần thiết (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008).
Tính quyền lực, đơn phương của quyết định hành chính còn thể hiện rõ ở nội dung và
mục đích của quyết định. Để thực thi quyền hành pháp trên cơ sở luật và để thi hành
luật, quyết định hành chính luôn thể hiện tính mệnh lệnh rất cao, chính vì vậy tính quyền
lực nhà nước còn thể hiện ở tính đảm bảo thi hành của quyết định. Về nguyên tắc, mọi
Bài giảng Luật hành chính GV: Nguyễn Thị


25

×