Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Phân tích tình hình phân bố nhân lực dược hiện nay ở các địa phương trong toàn quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 51 trang )

BỘ YTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Dược HÀ NỘI
W|^ sl*
# Ị ^ # J % ^¡
1
^
CHU THUỲ DƯƠNG
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH PHÂN Bố NHÂN Lực Dược
HIỆN NAY ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG TRONG TOÀN QUỐC
(KIiOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Dược SỸ KHOÁ 2000- 2005)
Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Thanh Bình
Nơi thực hiện : Bộ môn Quản lý và kinh tế dược
Thời gian 0»«;!:® ^ : Tháng 3- 5/2005
HÀ NỘI - 2005
M i-U 9
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thanh Bình đã tận
tình hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Bác sĩ Nguyễn Văn Hậu cùng tập thể cán bộ
Vụ Tổ chức cán bộ- Bộ Y tế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành khoá luận này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu và các thầy cô giáo trường Đại
học Dược Hà Nội, các thầy cô trong bộ môn Quản lý và kinh tế dược đã tận
tình giảng dạy tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên
khích lệ, giúp đỡ tôi tận tình.
Chu Thuỳ Dương
KÝ HIỆU VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG KHOÁ LUẬN
CSBVSKND
: Chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân


CTCPH
: Công ty cổ phần hoá
CTTNHH
; Công ty trách nhiệm hữu hạn
DN
: Doanh nghiệp
DNDP
: Doanh nghiệp dược phẩm
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
DNTN
: Doanh nghiệp tư nhân
DSĐH
: Dược sĩ đại học
DSTH
: Dược sĩ trung học
HĐBT
: Hội đồng Bộ trưởng
LDSX
: Liên doanh sản xuất
QLHNYDTN
: Quản lý hành nghề y dược tư nhân
SYT
:SỞYtế
TPHCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
THYT
: Trung học y tế
TTĐTCBYT
: Trung tâm đào tạo cán bộ y tế

ITKNDPMP
: Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm
1'IYT
: Trang tâm y tế
ƯBND
: Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VÂN ĐỂ
1
Phần 1: TỔNG QUAN
3
1. Hệ thống tổ chức ngành dược Việt Nam

.

3
1.1. Cơ quan quản lý nhà nước
3
1.1.1. Cơ quan quản lý dược
3
a) Cơ quan quản lý dược ở Trung ương
3
b) Cơ quan quản lý dược ở địa phương 4
1.1.2. Tổ chức thanh tra dược

6
a) Tổ chức thanh tra dược ở Trung ương 6
b) Tổ chức thanh tra dược ở địa phương 7
1.1.3. Tổ chức tiêu chuẩn hoá

9
a) Tổ chức tiêu chuẩn hoá ở Trung ương 9
b) Tổ chức tiêu chuẩn hoá ở địa phương
10
1.2. Tổ chức sản xuất- kinh doanh
11
1.3. Tổ chức đào tạo- Nghiên cứu khoa học


12
1.4. Dược bệnh viện 15
1.5. Thông tin dược 16
1.6. Đoàn thể dược 16
2. Nhân lực dược 17
2.1. Thực trạng nhân lực dược hiện nay ở các địa phương trong
toàn quốc 17
2.2. Nhu cầu nhân lực dược trong những năm tói

19
Phần 2 : Đ ốl TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u

20
1. Đối tượng nghiên cứu 20
2. Phương pháp nghiên cứu 20
1. Kết quả 23
1.1. Tình hình nhân lực dược ở các địa phương trong cả nước

23
1.2. Sự phân bố nhân lực dược của một số cơ quan y tế của địa phương 26
1.2.1. Sở Y tế 26

1.2.2. Các Doanh nghiệp dược phẩm 28
1.2.3. Hệ điều trị 29
1.2.4. Hệ dự phòng 31
1.2.5. Hệ đào tạo 32
2. Bàn luận 34
2.1. Cơ cấu và sự phân bố nhân lực dược ở các địa phương trong
cả nước 34
2.2. Sự phân bố nhân lực dược ở một số cơ quan y tế của địa phương 35
2.2.1 Sở Y tế 35
2.2.2. Các Doanh nghiệp dược phẩm 36
2.2.3. Hệ điều trị 36
2.2.4. Hệ y tế dự phòng 36
2.2.5. Hệ đào tạo 37
Phần 4 : KÊT LUẬN VÀ ĐỂ XUẤT 40
1. Kết luận 40
2. Đề xuất 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
Danh mục bảng 45
Danh mục hình 46
ĐẬT VẤN ĐỂ
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ (CSBVSK) nhân dân là nhiệm vụ của
ngành y tế nói chung và của ngành dược nói riêng. Đảng và nhà nước ta luôn
xác định “Con người là vốn quí nhất, cần phải chăm sóc sức khoẻ cho toàn
dân ờ mức độ cao nhất trong khả năng có thể”. Trong thập kỷ qua, cùng với đà
tăng trưởng của nền kinh tế, đời sống vật chất của người dân ngày càng được
cải thiện và nhu cầu CSBVSK của người dân ngày càng tăng cao. Để từng
bước cải thiện, đáp ứng được nhu cầu CSBVSK cộng đồng, ngành y tế nói
chung và ngành dược nói riêng cần phải có sự đầu tư cả về nhân lực, tài lực và
vật lực Nghị quyết Hội nghị lần thú 4 BCHTƯ Đảng khoá VII về những vấn
đề cấp bách của sự nghiệp CSBVSK nhân dân đã nêu rõ “Tổ chức lại ngành

dược và trang thiết bị y tế
ờ trung ương và địa phương. Củng cố ngành dược và
trang thiết bị y tế quốc doanh, lập lại trật tự trong sản xuất, xuất nhập khẩu và
lưu thông, phân phối thuốc và trang thiết bị y tế”
Để đáp ứng công tác phát triển ngành dược thời kỳ đổi mới, trong
những năm qua, đội ngũ cán bộ dược đã có sự tăng trưởng đáng kể cả về số
lượng và chất lượng. Nhưng do những khó khăn khách quan và chủ quan, công
tác đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực dược còn có một số bất cập, chưa đáp
ứng được nhu cầu, thậm chí có lúc, có nơi tình trạng thiếu cán bộ dược đã trở
nên bức xúc.
Một trong những thách thức hiện nay đối với ngành dược là “Đội ngũ
cán bộ ngành dược vừa thiếu, vừa ít được bồi dưỡng đào tạo lại, độ tuổi bình
quân của cán bộ quản lý dược cao (45 tuổi). Nhân lực dược phân bố không
đồng đều ở các vùng và các tuyến, đặc biệt là nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa rất thiếu cán bộ dược”. Để khắc phục tình trạng này, Chiến lược phát
triển ngành Dược đến năm 2010 đã đề ra “Chú trọng đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực một cách hợp lý. Tăng cường đào tạo lại các loại hình cán bộ
dược. Đổi mới công tác đào tạo cán bộ dược từ đại học đến sơ cấp, cả nội
dung lẫn phương pháp, cả trên giảng đường lẫn thực địa Xây dựng chính
sách bố trí và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực dược, đặc biệt chú ý đảm bảo
cho tuyến huyện và tuyến cơ sở có đủ cán bộ dược”
Để đánh giá thực trạng nhân lực dược hiện nay, chúng tôi tiến hành đề tài
“Phân tích tình hình phân bố nhân lực dược hiện nay ở các địa phương trong
toàn quốc” với các mục tiêu sau:
- Khảo sát cơ cấu và sự phân bố nhân lực dược ở các địa phương trong cả
nước.
- Khảo sát phân bố nhân lực dược ở một số cơ quan y tế của địa phương.
Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển nhân lực dược nhằm đáp ứng nhu
cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới.
1. HỆ THỐNG TỔ CHỨC NGÀNH Dược VIỆT NAM

1.1. Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan quản lý nhà nước về dược gồm : Cơ quan Quản lý dược, Tổ
chức tiêu chuẩn hoá và Thanh tra dược (nằm trong thanh tra y tế).
1.1.1. Cơ quan quản lý dược
a) Cơ quan quản lý dược ở Trung ương
Cục Quản lý dược ; là cơ quan chuyên trách về quản lý dược của Bộ Y
tế.
Cục Quản lý dược Việt Nam được thành lập theo quyết định số 547/TTg
ngày 13/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Chức năng, nhiệm vụ của Cục được
qui định cụ thể tại Quyết định số 108/2001/ QĐ- BYT ngày 12/1/2001 của Bộ
trưcmg Bộ Y tế. Theo đó Cục Quản lý dược Việt Nam là một cục quản lý
chuyên ngành trực thuộc Bộ Y tế, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực dược và mỹ phẩm có liên quan
trực tiếp đến sức khoẻ nhân dân và thực thi, điều hành về lĩnh vực dược và mỹ
phẩm trong phạm vi toàn quốc [17] .
Ngoài ra Cục Quản lý dược Việt Nam còn được giao nhiệm vụ tham gia
với Thanh tra dược Bộ Y tế thực hiện công tác chuyên ngành; phối hợp với
Hội đồng dược điển Việt Nam tổ chức xây dựng và làm thủ tục ban hành tiêu
chuẩn về thuốc tân dược và mỹ phẩm.
Cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý dược Việt Nam được qui định tại
Quyết định số 159/BYT-QĐ ngày 23/9/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế gồm có 6
phòng (Tài chính kế toán, Đăng ký thuốc và mỹ phẩm, Phòng quản lý thuốc
gây nghiện, Quản lý hành nghề dược và mỹ phẩm, Quản lý chất lượng thuốc
và mỹ phẩm, Quản lý thông tin- Quảng cáo, theo dõi tác dụng phụ) và Văn
phòng Cục. Tính đến hết năm 2002, nhân lực của Cục có 41 người; có 1 Cục
trưởng, 2 Phó Cục trưởng, mỗi phòng có 1 trưởng và 1 phó phòng, có 02 tiến
sĩ, 7 thạc sĩ, 3 chuyên khoa I, 25 đại học (22 dược sĩ đại học) [20].
b) Cơ quan quản lý dược ở địa phương
- Tuyến tỉnh (Sở Y tế) [4] :
Sở Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh/ thành phố trực thuộc

TW, giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác y tế trên
địa bàn, quản lý và chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác y tế,
quản lý kinh phí và nhân lực y tế đối với hệ thống y tế trên địa bàn tỉnh, TP
trực thuộc TW theo phân cấp của cơ quan có thẩm quyền.
Sở Y tế chịu sự quản lý toàn diện của UBND tỉnh/ TP trực thuộc TW,
đồng thời chịu sự chỉ đạo, hưóỉng dẫn về nghiệp vụ của Bộ Y tế.
Trong Sở Y tế có các phòng ban làm công tác quản lý chuyên môn
trong ngành dược : Phòng Quản lý dược, phòng QLHNYDTN, Thanh tra
dược.
Phòng Quản lý dược: Theo qui định tại Thông tư số 02/1998/TTLT-
BYT-BTCCBCP liên tịch Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Bộ Y tế, là phòng
chức năng giúp việc cho Giám đốc Sở Y tế, có chức năng nhiệm vụ qui định
tại Quyết định số 100/2000/QĐ-BYT ngày 18/1/2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế,
là cơ quan tham mưu cho Giám đốc Sở Y tế thực hiện chức năng QLNN về
dược, mỹ phẩm trên địa bàn tỉnh. Phòng có 1 trưởng và 1 phó phòng, biên chế
nằm trong biên chế của Văn phòng Sở. Tính đến hết năm 2003 có 54/64 tỉnh/
thành phố thành lập phòng quản lý dược với biên chế 2 đến 6 dược sĩ. So với
năm 2002, năm 2003 đã có thêm 3 Sở Y tế thành lập phòng Quản lý dược
(Phú Yên, Bình Dương và Sóc Trăng) [11], các tỉnh còn lại bộ phận quản lý
dược nằm trong Phòng nghiệp vụ Y- Dược.
- Tuyến huyện (Trung tâm y tế huyện) :
Trung tâm y tế huyện là tổ chức thuộc Sở Y tế, chịu sự quản lý, chỉ
đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra của Giám đốc Sở Y tế về chuyên môn,
nghiệp vụ, kinh phí, nhân lực y tế, chịu sự quản lý, chỉ đạo của UBND huyện
trong việc xây dựng phát triển kế hoạch phát triển y tế để trình cơ quan có
thẩm quyền và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi được
phê duyệt [4].
Toàn TTYT có tổ hay Bộ phận quản lý dược làm công tác quản lý các
công tác chuyên ngành dược.
Đến năm 2003, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện Nghị định số

12/2001/NĐ- CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ về việc chuyển nhiệm vụ
quản lý nhà nước về y tế từ Trung tâm y tế quận, huyện, thị xã và thành phố
thuộc tỉnh về UBND cung cấp và Thông tư liên tịch số 20/2001/TTLT-
BTCCBCP- BYT ngày 27/4/2001 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là
Bộ Nội vụ) và Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Nghị định [11]. Tại văn phòng Hội
đồng nhân dân và UBND quận, huyện có chuyên viên (có trình độ đại học y,
dược) trực tiếp tham mưu cho Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND quận, huyện
quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn. Như vậy Trung tâm y tế quận, huyện chỉ
còn thực hiện nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật y tế [19].
Tuy nhiên, theo báo cáo của các Sở Y tế, việc thực hiện Nghị định,
Thông tư gặp nhiều vướng mắc do cán chuyên môn vừa thiếu, vừa yếu, cơ chế
làm việc theo chức năng ngành giữa Sở Y tế và cán bộ dược của quận huyện
chưa hợp lý. Nhiều tỉnh chưa cử được cán bộ có chuyên môn y, dược giúp
UBND huyện trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về dược [11].
Đến nay một số tỉnh, thành phố đã quan tâm thực hiện, tuy nhiên vấn đề
thiếu dược sĩ đại học ở tuyến huyện lại vẫn là cản trở lófn nhất cho việc thực
thi Nghị định này, hoặc là không có cán bộ hoặc cán bộ không đủ năng lực
chuyên môn, gây không ít lúng túng cho cả Sờ Y tế và UBND huyện thị [7].
Theo Quyết định số 370/2002/QĐ- BYT thì mỗi trung tâm y tế phải có cán bộ
có trình độ dược tá (có thể kiêm nhiệm) để quản lý thuốc trên địa bàn [14\
- Tuyến xã (trạm y tế xã):
Trạm y tế cơ sở có trách nhiệm giúp Giám đốc TTYT huyện và UBND
xã thực hiện các nhiệm vụ được giao về công tác y tế trên địa bàn.
Trạm y tế cơ sở chịu sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra
của Giám đốc TTYT huyện về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh phí, nhân lực y
tế, chịu sự quản lý, chỉ đạo của UBND xã trong việc xây dựng phát triển kế
hoạch phát triển y tế để trình cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện kế hoạch đó sau khi được phê duyệt ; phối hợp với các ban
ngành, đoàn thể trong xã tham gia vào các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ nhân dân [4].

Về mặt nhân lực dược, theo qui định của Thông tư 08/TT-LB ngày
20/4/1995, mỗi trạm y tế xã, phường có từ 3 đến 6 cán bộ y tế chuyên trách,
số cán bộ này có trình độ là bác sỹ, y sỹ, nữ hộ sinh, y tá nhưng không có cán
bộ chuyên môn về dược [15]. Tuy nhiên, về nhân lực dược trong “Qiuẩn quốc
gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010” đã được qui định ; “Trạm y tế phải có cán
bộ có trình độ dược tá (có thể kiêm nhiệm) để quản lý thuốc trên địa bàn xã”
[14]. Trên thực tế số lượng dược tá đã tăng lên rất nhiều so với trước đây. Tại
Bắc Ninh, Hà Nam, Bà Rịa- Vũng Tàu đã có 100% Trạm y tế xã có dược tá.
Các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam, Kon Turn, Đồng Tháp,
Tiền Giang có trên một nửa số Trạm y tế xã có dược tá. Tuy nhiên ở nhiều
địa phương trong khi số dược tá được đào tạo ra khá nhiều thì Trạm y tế xã
vẫn không có dược tá do không có định biên. Có 12/61 tỉnh, thành phố báo
cáo không có dược tá tại trạm y tế xã, đó là: Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam
Định, Thái Bình, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hoà Bình, Quảng Trị, Quảng
Ngãi, Bình Phước, Long An, Vĩnh Long [11].
1.1.2. Tổ chức Thanh tra dược
a) Tổ chức Thanh tra dược ở Trung ương (nằm trong Thanh tra Bộ Y tế)
Thanh tra y tế được thành lập căn cứ Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
được cụ thể hoá tại Pháp lệnh Thanh tra nhà nước về y tế ban hành theo Nghị
định số 23/HĐBT ngày 24/1/1991 của Hội đồng Bộ trưcmg (nay là Chính phủ)
và Pháp lệnh thanh tra năm 1994 [20].
Thanh tra dược là một bộ phận của thanh tra nhà nước về y tế, chịu sự
chỉ đạo trực tiếp của Chánh thanh tra y tế đồng thời có quan hệ chặt chẽ với cơ
quan quản lý dược cùng cấp để góp phần thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về công tác dược của ngành y tế [19].
Thanh tra dược Bộ Y tế có chức nặng: Thực hiện quyền thanh tra nhà
nước việc chấp hành các quy định của pháp luật về dược của các tổ chức nhà
nước, tập thể, tư nhân kể cả tổ chức của người nước ngoài kinh doanh dược tại
Việt Nam. Thanh tra dược có trách nhiệm thanh tra việc chấp hành pháp luật
về dược trong các lĩnh vực sản xuất thuốc, lưu thông phân phối thuốc, xuất

nhập khẩu thuốc và nguyên liệu làm thuốc, tồn trữ quản lý và sử dụng thuốc
kể cả thuốc y học cổ truyền và trang thiết bị y tế [13].
Tính đến hết năm 2002, nhân lực thanh tra dược hiện có 5 người gồm 1
Phó Chánh thanh tra, 3 Thanh tra viên chính, 1 chuyên viên thanh tra; có 1
tiến sĩ; 1 chuyên khoa II; 1 thạc sĩ, 2 chuyên khoa I; cả 5 đều là dược sĩ và có
2 người có thêm bằng về luật. Ngoài ra có thêm một số cán bộ kiêm nhiệm
công tác thanh tra [20].
b) Tổ chức Thanh tra dược ở địa phương (nằm trong Thanh tra Sở Y tế)
- Tuyến tỉnh :
Thanh tra dược là một bộ phận của Thanh tra Sở Y tế, có chức năng
thực hiện quyền thanh tra nhà nước việc chấp hành các qui định của pháp luật
trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, xuất nhập khẩu thuốc, nguyên
liệu làm thuốc, tồn trữ quản lý và sử dụng thuốc, trang thiết bị y tế trong phạm
vi tỉnh, thành phố [20]. Ngoài ra, thanh tra Sở Y tế còn có nhiệm vụ hướng
dẫn các chuyên viên quản lý nhà nước về y tế thuộc UBND cấp huyện trong
việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn phân theo cấp quản lý được qui định
tại Nghị định số 12/2001/NĐ- CP của Chính phủ [9].
Tính đến hết năm 2002, toàn quốc có 62 thanh tra viên dược tại Sở Y tế
và 42 cán bộ thanh tra dược chuyên trách được Sở Y tế bổ nhiệm tại các quận
huyện [20]. Và theo báo cáo của hội nghị công tác dược năm 2003, 12 tỉnh
chưa có Thanh tra dược [11].
- Tuyến huyện (Thanh tra y tế quận, huyện):
Trước năm 1991, Trung tâm y tế quận, huyện không có cán bộ thanh tra
y tế. Nhiệm vụ giám sát kiểm tra về qui chế, chế độ chuyên môn do phòng kế
hoạch nghiệp vụ đảm nhận. Công tác thanh tra chủ yếu là tiếp nhận, kiểm tra,
giải quyết và trả lời các đơn từ phản ánh, khiếu nại của nhân dân cũng như các
vụ việc khiếu tố thuộc phạm vi nội bộ Trung tâm y tế. Giám đốc Trung tâm y
tế sẽ phân công và chỉ đạo cho các bộ phận có liên quan giải quyết [19].
Căn cứ vào Pháp lệnh thanh tra nhà nước về y tế được ban hành kèm

theo Nghị định số 23/HĐBT ngày 24/01/1991, tổ chức Thanh tra nhà nước
chuyên ngành y tế được thành lập và hoạt động từ tuyến trung ương (Thanh tra
Bộ Y tế) đến tuyến tỉnh (Thanh tra Sở Y tế). Tuyến quận, huyện vẫn chưa có
tổ chức thanh tra chuyên ngành y tế [19].
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế ở các cấp,
ngày 4/4/1997 Bộ trưởng Bộ Y tế đã có Chỉ thị số 04/CT- BYT, theo đó về
nhân lực thanh tra cần được bố trí và bổ xung như sau: “Trong tổng số biên
chế của Sở Y tế, Giám đốc Sở Y tế có trách nhiệm tăng cường cho thanh tra Sở
Y tế từ 3 đến 5 thanh tra viên và bố trí từ 1 đến 2 thanh tra viên ở các Trung
tâm y tế quận, huyện” [8].
Tuy nhiên sau hơn 4 năm thực hiện, lực lượng thanh tra y tế vẫn còn
thiếu nhiều cả ở tuyến Trung ương và địa phương, năng lực công tác của một
số cán bộ thanh tra vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với các yêu cầu nhiệm
vụ được giao. Vì vậy hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về y tế
chưa cao. Ngày 29/4/2001, Bộ trưởng Bộ Y tế tiếp tục ra Chỉ thị số
10/2001/CT- BYT về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về y tế, trong đó yêu cầu “ Giám đốc Sở y tế các tỉnh
căn cứ vào chỉ tiêu biên chế của địa phương có trách nhiệm bố trí hợp lý, tăng
cường cán bộ cho thanh tra Sở y tế; Chỉ đạo các Trung tâm y tế quận, huyện
bố trí cán bộ làm công tác thanh tra từ Bộ Y tế, Sở Y tế tỉnh và Trung tâm y tế
quận, huyện; Tăng cường đầu tư trang thiết bị và kinh phí, thực hiện đầy đủ
các chế độ, chính sách theo qui định của pháp luật đối với thanh tra viên và
cán bộ thanh tra” [9]
Tính đến năm 2001 đã có 51 tỉnh, thành phố xây dựng được mạng lưới
thanh tra y tế quận, huyện, chiếm 52%. Trong đó có 4 địa phương có thanh tra
viên chuyên trách, số còn lại kiêm nhiệm gọi là “cộng tác viên thanh tra” trực
thuộc Trung tâm y tế quận, huyện với tổng số trên 1000 cán bộ. Hoạt động
của lực lượng này trong thời gian qua tương đối tích cực, đã góp phần đáng kể
giúp cho các địa phương làm tốt công tác thanh kiểm tra về hành nghề y dược
tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm, về sinh lao động [6].

1.1.3. Tổ chức tiêu chuẩn hoá
a) Tổ chức tiêu chuẩn hoá ở Trung ương
Tổ chức tiêu chuẩn hoá ở Trung ương gồm Viện kiểm nghiêm (ở Hà
Nội) và Phân viện kiểm nghiệm (ở TP Hồ Chí Minh). Đây là hai cơ quan giữ
vai trò quan trọng trong việc quản lý chất lượng thuốc của ngành, là cơ quan
kiểm nghiệm xác định chất lượng thuốc, các nguyên liệu làm thuốc ở tuyến
cao nhất của ngành, đồng thời là nơi tập trung nghiên cứu khoa học kỹ thuật
về kiểm nghiệm thuốc nhằm ngày càng nâng cao chất lượng thuốc.
Viện Kiểm nghiệm được thành lập theo Thông tư số 31/BYT-TT ngày
27/10/1971 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Theo đó Viện là đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Bộ Y tế, có chức năng chính là kiểm tra, giám sát chất lượng thuốc;
nghiên cứu khoa học về kiểm nghiệm thuốc; đào tạo bổ túc cán bộ chuyên
khoa, chỉ đạo tuyến, thông tin, tuyên truyền, phổ biến khoa học kỹ thuật về
kiểm nghiệm thuốc [20].
Cơ cấu tổ chức của Viện có Viện trưởng, 2 Phó Viện trưcmg; có 4
phòng chức năng: Kế hoạch tổng hợp, Tổ chức hành chính, Tài chính kế toán,
Vật tư quản trị; có 8 phòng chuyên môn: Hoá lýl, Hoá lý 2, Mỹ phẩm, Đông
dược, Vi sinh vật, Dược lý, độc chất pháp y, Vật lý Đo lường. Tính đến hết
năm 2002, nhân lực của Viện có 131 người. Phân theo trình độ có 2 phó giáo
sư, 5 tiến sĩ, 28 thạc sĩ, 13 chuyên khoa I, đại học 57, trung học 18, sơ cấp và
công nhân 16 [20].
Phân viện Kiểm nghiệm được hình thành theo Quyết định số 85/TC-
QĐ ngày 18/01/1977 của Bộ trưẻmg Bộ Y tế về công nhận và định tên các đơn
vị sự nghiệp thuộc B2 cũ, trực thuộc Ngành Y tế Trung ương (tiền thân của
Phân viện là Nha thực phẩm do Chính quyền Sài Gòn lập ra từ năm 1974).
Ngày 12/10/1977, Bộ Y tế ban hành Quyết định số 1125/BYT-QĐ về việc qui
định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Phân viện. Theo đó Phân
viện có chức năng giống như Viện Kiểm nghiệm, chỉ có khác là Phòng chức
năng tăng thêm một phòng và Phòng chuyên môn giảm một phòng (không có
Phòng Đông dược). Tính đến hết năm 2002, nhân lực của Phân Viện có 100

người, phân theo trình độ có 2 tiến sĩ, 12 thạc sĩ, 3 chuyên khoa I, 43 đại học,
16 trung học, 11 nhân viên và công nhân [20].
b) Tổ chức tiêu chuẩn hoá ở địa phương
- Tuyến tỉnh (Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm) [20] :
Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm : theo Thông tư số
02/1998/TTLT-BYT-BTCCBCP liên tịch Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Bộ
Y tế, là tổ chức chuyên môn kỹ thuật trực thuộc Sở Y tế. Trung tâm có chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo qui định tại Quyết định số
2176/2000/QĐ-BYT ngày 18/7/2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Theo đó Trung
tâm là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế có chức năng tham mưu giúp Giám
đốc Sở Y tế trong việc kiểm tra, giám sát và quản lý chất lượng thuốc, mỹ
phẩm được sản xuất, lưu hành tại địa phương; có cơ cấu tổ chức gồm 1 Giám
đốc, 1-2 Phó Giám đốc, có các phòng nghiệp vụ chuyên môn và mỗi phòng có
1 Trưởng và 1 Phó phòng. Nhân lực của Trung tâm nằm trong biên chế Văn
phòng Sở Y tế. Đến năm 2003, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có Trung tâm
kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm (TTKNDPMP), 5 tỉnh, trong đó 2 tỉnh
Kon Turn, Tây Ninh là còn Trạm kiểm nghiệm dược phẩm và 3 tỉnh mới thiết
lập là Lai Châu, Đăk Nông và Hậu Giang [11]
Hệ thống cơ quan tham mưu cho Giám đốc Sở Y tế thực hiện chức năng
QLNN về dược ở địa phương kể từ khi có Nghị định 01/1998/NĐ- CP và
Thông tư 02/TTLT- BYT- BTCCBCP đã từng bước được củng cố. Bộ Y tế đã
ban hành các quyết định qui định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các
cơ quan này là cơ sở pháp lý cho các tổ chức này hoạt động, tuy nhiên chưa có
văn bản qui định cụ thể sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan: Phòng quản
lý dược- Thanh tra Sở Y tế- Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm
trong quá trình hoạt động quản lý dược. Tuy Bộ Y tế đã ban hành qui định về
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các cơ quan tham mưu cho Giám đốc
Sở Y tế thực hiện chức năng QLNN về dược, nhưng biên chế nhân lực cho các
cơ quan này để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lại phụ thuộc vào điều kiện và sự
quan tâm của từng địa phương đối với công tác quản lý dược. Thực tế nhân lực

còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, thậm chí ở một số địa phương có quá
ít dược sĩ đại học [20].
1.2. Tổ chức sản xuất- kinh doanh
Tổ chức sản xuất- kinh doanh trực thuộc Tổng công ty dược Việt Nam,
bao gồm các doanh nghiệp dược phẩm của nhà nước, doanh nghiệp cổ phần
hoá, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp tư nhân trực
tiếp tham gia vào sản xuất và kinh doanh thuốc cho thị trường dược phẩm
trong nước. Bên cạnh đó còn có các quầy thuốc và các đại lý bán lẻ thuốc
nhằm đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời thuốc cho nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng. Tính đến ngày 30/12/2003, cả nước có trên 540 doanh
nghiệp và trên 37000 cơ sở bán lẻ. Khu vực tư nhân phát triển mạnh, doanh
nghiệp tư nhân chiếm 75,6%, doanh nghiệp nhà nước chiếm 12,2%, doanh
nghiệp cổ phần hoá chiếm 10,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm 1,7% [11].
Những năm gần đây, thị trường dược phẩm phát triển mạnh, đặc biệt là
khu vực tư nhân. Trong khi tổng số doanh nghiệp dược phẩm Trung ương từ
năm 2000 đến năm 2004 không có sự thay đổi thì số doanh nghiệp tư nhân,
CTCPH lại có sự biến động rõ rệt. Năm 2003, tổng số DNTN, CTCPH,
CTTNHH là 589 gấp 2 lần và năm 2004 con số này là 680 gấp 2,5 lần so vói
năm 2000 (bảng 1.1)
Bảng 1.1: Tổng số các cơ sở sản xuất- kinh doanh dược phẩm của cả nước
Tên cơ sở 2000 2001 2002
2003 2004
Doanh nghiệp dược Trung ương
19 19 19
22
Dự án đầu tư LDSX dược đã đưọc cấp giấy ỊÌiép 24
24 28 28 31
DNTN, CTTNHH, CTCPH
290 359 409 589

680
Côig ty nước ngcài có giấy kinh doanh ửiuốc 210 213 250
256
Nhà thuốc 8019
8378 7560
8650
Đại lý bán lẻ
10367 10347 10504 11500
Quầy thuốc thuộc trạm y tế
9087 8912
Quầy thuốc thuộc DN nhà nước
7161 6487
5259
Quầy thuốc thuộc DN nhà nước cổ phần hoá
2974 5514
(Nguồn : Niêm giám thống kê y tế 2003, Dự thảo Hội nghị báo cáo tổng kết
công tác dược năm 2004- triển khai công tác dược năm 2005)
Về nhân lực :
Việc bố trí nhân lực dược trong các doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh
được thực hiện theo Luật doanh nghiệp và theo yêu cầu của sản xuất GMP.
Hiện nay, thị trường dược phẩm phát triển mạnh với sự tham gia của nhiều tổ
chức và cá nhân đã thu hút nhiều dược sĩ đại học. Do đó nhu cầu dược sĩ đại
học tham gia vào công tác quản lý nhà nước và công tác tại các đơn vị sự
nghiệp của các địa phương là rất lớn.
1.3. Tổ chức đào tạo- Nghiên cứu khoa học
Việt Nam đã có một hệ thống đào tạo nhân lực dược từ sơ học, dạy
nghề đến sau đại học, có chất lượng. Song mạng lưới này chưa đều khắp, còn
tập trung nhiều ở đồng bằng và đô thị lófn, chậm đổi mới và phát triển, chưa
đảm bảo đủ và đồng bộ về số lượng nhân lực dược kể cả đại học, trung học và
dạy nghề.

Hiện nay, nước ta có các loại hình và mạng lưới đào tạo cán bộ dược
sau [2][3][10] :
- Đào tạo đại học và sau đại học : Tính đến năm 2002, cả nước có 4
trường đào tạo dược sĩ đại học là :
1. ĐH Dược Hà Nội: chính qui, chuyên tu.
2. Khoa Dược ĐH Y- Dược TP Hồ Chí Minh: chính qui, chuyên tu.
3. ĐH Y Huế: chính qui, chuyên tu.
4. ĐH Y-Dược Cần Thơ.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã xây dựng đề án
thành lập Trường Đại học Y- Dược Cần Thơ trực thuộc Bộ Y tế để tăng cường
năng lực đào tạo dược cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, để giải quyết tình trạng cấp bách của khu vực miền núi,
Trường Đại học Dược Hà Nội đã tổ chức các lớp đào tạo dược sĩ thuộc hệ
không chính qui (chuyên tu) tại Đại học Y Thái Nguyên (bắt đầu từ năm
2001- 2002).
Có 4 cơ sở được đào tạo sau đại học Dược:
1. ĐH Dược Hà Nội: chuyên khoa, thạc sĩ, tiến sĩ.
2. Khoa Dược ĐH Y- Dược TP Hồ Chí Minh: chuyên khoa, thạc sĩ,
tiến sĩ.
3. Viện Dược liệu; tiến sĩ
4. Học viện Quân y: chuyên khoa, thạc sĩ, tiến sĩ (ngành Quân dược).
Hàng năm, các cơ sở đào tạo dược sĩ đại học và sau đại học chỉ có khả
năng tiếp nhận khoảng 700 sinh viên đại học dược, gồm cả chính qui và không
chính qui (chuyên tu), 20 nghiên cứu sinh và 100 học viên cao học dược.
Với khả năng tiếp nhận học viên như vậy, các đơn vị tham gia đào tạo
nhân lực dược không đáp ứng được nhu cầu chung về nhân lực dược của xã
hội, cũng như nhu cầu đào tạo lại và đào tạo nâng cao của lực lượng cán bộ
dược hiện có.
- Đào tạo trung học dược:
Trước năm 2000 có 3 cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Y tế được phép đào

tạo cán bộ dược trung học : Trung học Kĩ thuật Hải Dương, Trung học Kĩ
thuật y tế II Đà Nẵng, Trung học Kĩ thuật y tế III, sau sáp nhập vào Khoa
Dược Đại học Y- Dược Thành phố Hồ ƠIÍ Minh. Ba cơ sở nói trên chiêu sinh
theo chỉ tiêu được phân bổ hàng năm và còn được mở các lófp liên kết đào tạo
với các trường THYT tỉnh, thành phố để giải quyết vấn đề nhân lực dược của
các địa phương. Tính đến năm học 2001- 2002 đã có 29 lớp được đào tạo theo
hình thức liên kết với các tỉnh với tổng số gần 1500 dược sĩ trung học tốt
nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực, từ năm 2002, Bộ Y tế cho phép một số
trường Trung học y tế thuộc các tỉnh, một số trường đại học, cao đẳng y tế đào
tạo dược sĩ trung học : Cần Thơ, Tiền Giang, Bình Dương, Bình Thuận, Quảng
Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Phú Thọ, Sơn La, Quảng Ninh, Hà Nội,
Cao đẳng y tế Nghệ An, Đại học Dược Hà Nội, Đại học Điều dưỡng Nam
Định.
Như vậy tính đến hết năm 2002, cả nước có 16 cơ sở đào tạo dược sĩ
trung học (chưa kể các cơ sở quân y) với chỉ tiêu tuyển sinh khoảng hơn 2000.
- Dạy nghề:
Dược tá: tất cả các tỉnh đều đào tạo, chỉ tiêu do tổng cục Dạy nghề giao.
Đào tạo dược tá được xếp vào bậc đào tạo nghề dài hạn (1 năm). Chỉ tiêu
tuyển sinh do các tỉnh quyết định căn cứ nhu cầu của địa phương mình. Các
lớp đào tạo dược tá được mở ở từng địa phương với số lượng khá lớn, ước tính
mỗi năm có khoảng 6000 dược tá được đào tạo (trong đó Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh mỗi năm đào tạo khoảng 1000).
Công nhân kỹ thuật Dược (đào tạo nghề dài hạn) 2 năm: Trước năm
1985 các xí nghiệp dược phẩm Trung ương I và II có mở lớp đào tạo công
nhân kĩ thuật dược phục vụ cho sản xuất của xí nghiệp song chưa thành hệ
thống. Đến nay, nhu cầu sản xuất đòi hỏi cần có đội ngũ công nhân kĩ thuật có
trình độ đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ. Từ năm học 2002- 2003 Trường
Trung học kĩ thuật dược được Bộ Y tế cho phép tuyển sinh đào tạo 50 công
nhân kĩ thuật dược cho các xí nghiệp dược phía bắc.

1.4. Dược bệnh viện [5]
Tổ chức dược bệnh viện (Khoa dược) là một khoa chuyên môn đặt trực
thuộc giám đốc bệnh viện, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc bệnh viện.
Trong một bệnh viện chỉ có một khoa dược, nó là tổ chức cao nhất đảm nhiệm
mọi công tác về dược, nên không chỉ có tính chất thuần tuý của một khoa
chuyên môn mà còn thêm tính chất của một bộ phận quản lý và tham mưu về
toàn bộ công tác về dược trong cơ sở điều trị đó nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả và đảm bảo an toàn trong khám chữa bệnh, nhất là trong sử dụng thuốc.
Khoa dược của bệnh viện có chức năng cung ứng, bảo quản thuốc, trang
thiết bị y tế phục vụ cho công tác khám chữa bệnh của bệnh viện. Ngoài ra,
Khoa dược còn có nhiệm vụ kiểm tra, theo dõi việc dùng thuốc hợp lý, an
toàn, thông tin tư vấn về thuốc.
Để góp phần chấn chỉnh công tác cung ứng, quản lý và sử dụng thuốc
tại bệnh viện, Bộ Y tế đã ra chỉ thị 03 (CT 03/BYT- CT ngày 25/3/1997, và để
hướng dẫn việc tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Hội đồng thuốc và điều trị ở
bệnh viện, Bộ Y tế đã ra thông tư 08 (TT 08/BYT- TT ngày 4/7/1997). Hội
đồng thuốc và điều trị có chức năng tư vấn cho Giám đốc bệnh viện về sử
dụng thuốc nhằm mục đích sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả, cụ thể
hoá các phác đồ điều trị.
Dược sĩ công tác tại khoa dược có vai trò cung ứng thuốc, tham vấn sử
dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả, vì vậy trong Chính sách thuốc quốc gia
đã nói “cần có đội ngũ cán bộ dược có chất lượng, đủ số lượng, có cơ cấu hợp
lý về nhân lực dược ở các trình độ”. Tuy nhiên, Bộ Y tế chưa có quy định về
cơ cấu dược trong bệnh viện ở các tuyến. Trên thực tế, biên chế khoa dược tuỳ
theo công việc của khoa dược, và chiếm từ 8- 11% so với tổng cán bộ nhân
viên toàn bệnh viện và cơ cấu cán bộ, tuỳ theo khả năng và tình hình cụ thể
của từng đơn vị.
Tính đến năm 2003, tổng số bệnh viện tỉnh, thành phố của nước ta là
[12]:
- Tuyến Trung ương :

Có 30 cơ sở điều trị thuộc tuyến Trung ương, trong đó có 10 bệnh viện
đa khoa, 1 bệnh viện y học dân tộc, 15 bệnh viện chuyên khoa, 2 khu điều trị
phong, 1 Viện điều dưỡng và 1 Phòng khám [8].
- Tuyến địa phương [8] :
Tuyến tỉnh : Tuyến tỉnh có tất cả 324 cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm :
+ 109 Bệnh viện Đa khoa tỉnh, thành phố
+86 Bệnh viện chuyên khoa
+ 45 Bệnh viện y học dân tộc
+ 18 Khu điều trị phong
+ 32 Cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng
+ 34 Phòng khám chuyên khoa
Tuyến huyện : Tuyến huyện có 1516 cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm :
+ 568 Bệnh viện đa khoa
+ 872 Phòng khám đa khoa
+76 Nhà hộ sinh khu vực
Tuyến xã ; Cả nước có 10372 Trạm y tế xã
1.5. Thông tin dược [4]
Thư viện y học : lưu trữ sách báo y học và những thông tin về dược.
Hiện có 1 Thư viện thông tin y học trực thuộc Bộ Y tế.
Báo chí: gồm các tạp chí chuyên môn : tạp chí dược học, tạp chí Thuốc
và Sức khoẻ do Bộ Y tế xuất bản.
1.6. Đoàn thể dược [4]
Hội dược học Việt Nam : nằm trong Tổng hội y dược Việt Nam là một
tổ chức tự nguyện gồm những cán bộ hoạt động trong ngành dược Việt Nam.
Nhằm mục đích hướng dẫn, giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ và nghiên cứu
khoa học kỹ thuật.
2. NHÂN Lực DƯỢC
Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của hệ thống y tế vì nếu thiếu
hoặc chất lượng thấp kém thì mọi nguồn lực khác sẽ không được sử dụng tốt,
không có hiệu quả. Vì vậy, mọi cơ sở y tế, mọi cấp đều cần phải có kế hoạch

quản lý nguồn nhân lực thích hợp để phát huy cao nhất hiệu quả hoạt động
của nguồn nhân lực hiện có phục vụ cho chăm sóc sức khoẻ.
Một trong những thách thức của ngành Dược hiện nay là nguồn nhân
lực dược vừa thiếu, vừa yếu nhất là ở địa phương. Trình độ, năng lực, khả năng
cán bộ hoạt động quản lý dược về chuyên môn, quản lý, pháp luật chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2.1. Thực trạng nhân lực dược hiện nay ở các địa phương trong toàn quốc
Việt Nam có một đội ngũ cán bộ y tế đông đảo, về cơ bản đáp ứng cho
mạng lưới y tế rộng khắp. Tuy nhiên Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển
sang nền kinh tế thị trường. Sự biến đổi về số lượng, chất lưcmg và cơ câú đội
ngũ cán bộ y tế cũng không thoát khỏi các qui luật của thời kỳ này, tức là
những chính sách, chế độ của thời kỳ đổi mới. Trong những năm đầu, số
lượng giảm dần, đến 10 năm sau (1997) mới bắt đầu hồi phục [16].
Bảng 1.2 : Cán bộ y tế qua các năm
Phân loại
1999
2000 2001 2002
2003
Bác sĩ
39294 41663
42327 45073 47587
Dược sĩ
5849 5977 5991
6025 6266
Dược sĩ trung học
7793
7833 7987
8172 8399
Dược tá
8467

8656 8260
8237 8252
0
Sígikịl^HÍe^jÌám thống
cê y tế 2003)
Ngành Dược là một bộ phận của ngành Y tế Việt Nam. Những năm vừa
qua mặc dù chỉ tiêu đào tạo dược sỹ đại học tại các trường đại học đã tăng lên,
nhưng do cơ chế, chính sách về cán bộ chưa thay đổi kịp với tình hình thực tế
nên trừ Hà Nôi, TP. Hồ Chí Minh và một vài tỉnh có thị trường dược phẩm
phát triển, còn lại hầu hết các tỉnh đều gặp khó khăn về tình trạng thiếu dược
sỹ đại học, nhất là Sở Y tế, các công ty dược và các Trung tâm y tế quận
huyện, hiệu thuốc. Hầu hết dược sĩ ra trường tìm việc làm tại các thành phố
lớn, mức lương cao cùng với cơ hội thăng tiến trong các công ty ngoài quốc
doanh đã làm cho việc tuyển chọn dược sĩ đại học tại các cơ quan sự nghiệp và
các doanh nghiệp của nhà nước ngay tại các thành phố lớn cũng gặp khó khăn,
chứ chưa nói đến các tỉnh miền núi xa xôi hẻo lánh.
Vấn đề cấp bách hiện nay ở các địa phương là số lượng dược sỹ đại học
tham gia công tác quản lý nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của tỉnh, huyện
rất ít. Nguyên nhân là do thị trường thuốc những năm vừa qua phát triển
nhanh : từ khoảng 40 triệu USD/ năm vào những năm 80 lên khoảng 500 triệu
USD năm 2003. Tiền thuốc bình quân đầu người năm 2002 là 6,7 USD/ người/
năm tăng lên 7,6 USD/ người/ năm 2003. Nhiều tổ chức và cá nhân tham gia
kinh doanh thuốc, hiện có trên 540 doanh nghiệp và trên 37000 cơ sở bán lẻ.
Khu vực tư nhân phát triển mạnh, doanh nghiệp tư nhân chiếm 75,6%, doanh
nghiệp nhà nước chiếm 12,2%, doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm 10,5%,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,7% [11]. Như vậy, sản xuất-
kinh doanh thuốc chuyển đổi khá nhanh, thích ứng với cơ chế thị trường trong
lúc hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về dược còn nhiều bất cập, không thích
ứng với môi trường.
Từ những nhận định trên, ta thấy Bộ Y tế cần có những kế hoạch cụ thể

để đào tạo nhân lực dược đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo về sức khoẻ nhân
dân trong những năm tới.
2.2. Nhu cầu nhân lực dược trong những năm tới
Phát triển nhân lực là một nội dung quan trọng của quản lý nhân lực.
Tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương đều cần có kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực dược phù hợp với yêu cầu chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Ngoài ra, kế hoạch phát triển nhân lực dược sẽ giúp chúng ta xác định làm thế
nào để đào tạo và sử dụng tốt số lượng, năng lực và trình độ cán bộ phù hợp
với chuyên ngành đào tạo, đáp ứng dịch vụ y tế hiện tại và trong tương lai.
Chiến lược phát triển ngành dược đến năm 2010 được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt ngày 15/8/2002 đã nêu rõ: Phát triển ngành dược thành một
ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động
hội nhập khu vực và thế giới, nhằm đảm bảo cung ứng đủ thuốc, thường xuyên
và có chất lượng, đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý và an toàn, phục vụ sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Chiến lược nhấn mạnh: “Chú trọng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
một cách hợp lý. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại các loại hình cán bộ
dược Đến năm 2005 phấn đấu đạt tỷ lệ 1,2 DSĐH/ 10.000 dân và đến 2010
phấn đấu đạt tỷ lệ 1,5 DSĐH/ 10.000 dân Xây dựng chính sách bố trí và sử
dụng họfp lý nguồn nhân lực Dược, đặc biệt chú ý đảm bảo cho tuyến huyện và
tuyến cơ sở có đủ cán bộ dược” [10].
Theo dự tính đến năm 2010 nước ta có 90 triệu người, với tỷ lệ 1,5
DSDH/ 10.000 dân thì số lượng dược sỹ đại học cần có tới năm 2010 là
13.500 dược sỹ đại học. Trong khi đó tỷ lệ cán bộ dược trung học/ đại học
khoảng 1/2,5, như vậy đến năm 2010 nước ta cần có 33.700 cán bộ dược trung
học [3],
Theo thống kê sinh viên và báo cáo lưu lượng sinh viên ở các trường thì
từ năm 2002 đến 2005 sẽ có thêm khoảng 2400 dược sĩ đại học và khoảng
4500 dược sĩ trung học sẽ tốt nghiệp. Với tỷ lệ về hưu và nghỉ việc khoảng 3%
như tình trạng lao động chung thì tới năm 2005 nước ta cần có khoảng 8.200

dược sĩ đại học và khoảng 20.500 dược sĩ trung học [3].
Phân 2 : Đ ốl TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ú u
Kết quả nghiên cứu dựa trên số liệu thu thập về lao động y tế tỉnh,
huyện, xã tính đến 31/12/2004 của Vụ Tổ chức cán bộ- Bộ Y tế và Cục Quản
lý dược Việt Nam, được phân thành 5 lĩnh vực :
- Cơ quan quản lý nhà nước về dược (Sở Y tế) : Gồm :
+ Phòng Quản lý dược
+ Phòng QLHNYDTN
+ Thanh tra dược
- Các doanh nghiệp dược phẩm : Gồm các DNNN, CTCPH của các tỉnh
và các quầy thuốc trực thuộc các doanh nghiệp dược phẩm đó.
- Hệ điều trị : Gồm các bệnh viện đa khoa tỉnh, bệnh viện chuyên khoa
khu vực
- Hệ dự phòng : Gồm :
+ Trung tâm y tế dự phòng
+ Trung tâm bảo vệ sức khoẻ bà mẹ- Trẻ em
+ Trung tâm truyền thông Giáo dục- Sức khoẻ
+ Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm
Ngoài ra còn có Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm phòng
chống sốt rét
- Hệ đào tạo : Gồm các trưcmg THYT hoặc TTĐTCBYT của các tỉnh.
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là các dược sĩ đại học đang
công tác tại các cơ quan y tế của địa phương. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ
dựa trên sự phân tích cơ cấu nhân lực dược và sự phân bố dược sĩ đại học của
các vùng trong cả nước tính đến năm 2004.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
- Phương pháp hồi cứu số liệu

×