Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Chuyên đề xây dựng quy trình quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.43 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐÀU
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hơn cùng với sự chuyển mạnh sang
kinh tế thị trường, các quyết định quản lý chịu ảnh hưởng nhiều hơn tác động không
ốn định tù’ môi trường xung quanh và các sự cố có thế xảy ra nhiều hơn ngay trong
quá trình hoạt động của bất động sản. Nhìn nhận, đánh giá và chủ động quản lý ảnh
hưởng của các tác động này đảm bảo sự thành công của dự án. vấn đề này đã được
nhiều nước phát triển nghiên cứu và giải quyết thành công trong thực tiễn.
Các công trình xây dựng được triến khai nhằm mục đích thực hiện mục tiêu đầu
tư, phát triến, tạo cơ sở vật chất cho xã hội, do vậy thường có thời gian hoạt động dài,
chịu tác động trực tiếp tù’ nhiều môi trường xung quanh như chính trị, kinh tế, xã hội,
tự nhiên, luật pháp, công nghệ cho nên rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì vậy những
điều chỉnh trong quá trình thực hiện, quản lý bất động sản là một thực tế. Những năm
qua, đầu tư phát triển ở nước ta không ngừng tăng nhanh cả về quy mô, lĩnh vực với
sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Tuy nhiên, việc nhận dạng, đánh giá, kiểm soát
nhằm hạn chế tác động xâú từ các ảnh hưởng nêu trên tới quá trình quản lý chưa được
chúng ta chú trọng, còn đối phó bị động.
Chính các tác động không ốn tù’ môi trường xung quanh và điều chỉnh từ nội tại
của bất động sản dẫn tới phải thay đổi nhiều tiêu chí cơ bản được dự tính ban đầu và
làm thay đổi hiệu quả và chất lượng quản lý bất động sản. Đó chính là sự tồn tại của
rủi ro đối với quản lý bất động sản. Rủi ro xuất hiện khi tồn tại đồng thời hai yếu tố
cơ bản: yếu tố gây ra rủi ro và đối tượng chịu tác động, ảnh hVưởng.
Sớm chủ động nhận dạng, phân tích, đánh giá, có biện pháp kiểm soát và giảm
thiẻu các tác động xấu của rủi ro là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo khả thi, hiệu quả
của chất lượng quản lý bất động sản.
Nắm bắt được nhu cầu bức thiết trên, cộng thêm quá trình thực tập tại Công ty
TNHH quản lý và kinh doanh bất động sản Hà Nội em đã chọn đề tài “Xây dựng quy
trình quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản ” để nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở khoa học về quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản.
Áp dụng lý luận nêu trên để thấy rõ thực trạng quản lý rủi ro trong quản
lý bất động sản tại Việt Nam.


Đưa ra quy trình quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản nhằm nâng
cao chất lượng quản lý bất động sản.
Phương pháp nghiên cứu:
Duy vật biện chứng.
Duy vật lịch sử.
Điều tra thu thập số liệu.
Thống kê toán học.
Phân tích so sánh.
Phạm vỉ nghiên cứu:
Thị trường bất động sản Việt Nam.
Thị trường quản lý bất động sản.
Thị trường tài chính.
Kết cấu của đề tài bao gồm: Lời mở đầu, phần nội dung, kết luận, tài liệu tham
khảo, mục lục.
Lòi mở đầu: đưa ra lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu.
Phần nội dung: bao gồm 3 chương:
Chương /: cơ sở khoa học về quản lý rủi ro trong quản lý bất động
sản.
Chương II: Nêu nên một số thực trạng quản lý cũng như quản lý rủi ro trong
quản lý bất động sản tại Việt Nam.
Chương III: Đưa ra quy trình quản lý rủi ro trong quản lý bất động
sản.
Ket luận: Tổng hợp, tóm tắt lại toàn bộ đề tài nghiên cứu.
Em xin trân thành cảm ơn thầy ThS Nguyễn Thắng Trung và các anh chị trong Công
ty TNHH quản lý và kinh doanh bất động sản Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành đề
tài này
.
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận.
1. Rủi ro và các dạng thửc của rủi ro.

a. Rủi ro và bản chất của rủi ro.
II. Khái niệm.
Rủi ro là sự kiện mà kết quả kinh doanh hiện tại hoặc tương lai có khả
năng khác biệt đáng kể so với mức dự kiến từ trước, hay còn gọi là mức
kỳ vọng.
III. Bản chất của rủi ro.
; Chỉ ra sự không chắc chắn hoặc các mối nguy hiểm.
; Các kết quả thực tế chệch hướng khỏi dự báo.
; Các mất mát, thương tổn, sự bất lợi, sự hủy diệt/phá hoại.
; Có thế xác định được số lượng các rủi ro nhưng tính bất trắc
trong rủi ro thì không xác định được.
b. Các dạng thức của rủi ro trong quản lý bất động sản.
; Vật chất: Sự khuyết tật về cấu trúc, vật liệu xây dựng
; Hậu quả: giảm sút về uy tín, danh tiếng, mất mát lợi nhuận
; Trách nhiệm pháp lý: các sai lầm dân sự, pháp lý, họp đồng
; Chính trị: Sự can thiệp của chính quyền, sự thừa nhận về pháp
luật, các thay đối trong luật pháp
; Tài chính: Dự báo lạm phát không chính xác, thiếu cơ chế
kiểm tra tài chính thích hợp
; Xã hội: Sự kỳ vọng quá cao về lực lượng lao động, nhận thức
quá thấp của người dân địa phương
; Kỹ thuật: Sự nâng cao về kỹ thuật công nghệ, các vấn đề liên
quan đến bản quyền sở hữu công nghệ
I. Quản lý rủi ro.
a. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro.
; Mỗi một quyết định quản lý đưa ra đều có các rủi ro đi kèm.
; Hoạch định tốt + cơ chế quản lý tốt vẫn chưa đủ để đạt được
mục tiêu của nhà quản lý.
; Rất ít nhà quản lý có hiếu biết về kỹ thuật quản lý rủi ro.
; Môi trường kinh doanh thay đổi thường xuyên.

; Thông tin trên thị trường còn thiếu.
; Các vấn đề tiềm năng khác như:
I. Sự suy sụp kinh tế.
II. Sự thiếu hụt lao động.
III. Quản lý kém.

b. Quản lý riíỉ ro trong quản lý bất động sán.
Quản lý rủi ro là một phần trong việc lập kế hoạch dự án nhằm xác định
những nguy cơ chủ yếu, từ đó xây dựng các kế hoạch phòng
chống hay giảm thiểu những tác động bất lợi. Trên thực tế có hai hình thức
quản lý rủi ro: (1) giả định khả năng xảy ra sự cố nào đó có thế ảnh hưởng
xấu đến kế hoạch hay lịch trình và (2) thừa nhận rằng không thể dự báo tất cả
mọi sự cố bất lợi
Quản lý rủi ro (risk management) trong quản lý bất động sản là quá trình
xác định, phân tích và chấp nhận hoặc hạn chế những nguy cơ tiềm ấn trong
các quyết định quản lý.
; Quản lý rủi ro phải là một chức năng của quản lý bất động sản.
; Quản lý rủi ro phải được chú trọng từ khâu xây dựng quy trình
quản lý.
; Quản lý rủi ro xử lý các thông tin có sẵn qua một mô hình
chính thức để hỗ trợ việc ra quyết định.
; Quản lý rủi ro tạo ra tính trách nhiệm, tính linh động, tính kế
hoạch trong quá trình quản lý dự án.
c. Nhũng quá trình chính cùa quản lý rủi ro.
1. Xác định những rủi ro: cần xác định những rủi ro nào có thế xảy ra
cho công việc quản lý bất động sản và nắm được những đặc tính của nó.
Qua mô tả tính chất, sản phấm bất động sản, tham khảo những chuyên
gia, nhà tài trợ, những dữ liệu của những dự án quản lý bất động sản đã
thực hiện trước đây sẽ là khoá để xác định được những rủi ro.
2. Số lưọng rủi ro : ứớc lượng những rủi ro và sự tương tác giữa chúng đế

định giá phạm vi xảy ra. Công cụ và kỹ thuật gồm có : Qui thành tiền cần
bỏ ra, tính toán những nhân tố rủi ro , ước lượng Pert, Phỏng đoán và nhờ
chuyên gia tư vấn.
3. Triển khai việc đối phó vói rủi ro: gồm nhựng bước triển khai việc đối
phó với rủi ro, và những mối nguy hại đến dự án. Phần này cũng chính là
kế hoạch quản lý rủi ro.
4. Điều khiến việc đối phó VÓI rủi ro: Gồm việc đối phó với rủi ro trong
xuốt qúa trình dự án được thực thi, hành động như thế nào là đúng, cập
nhật những kế hoạch quản lý rủi ro.
d. Nguyên nhân cùa sự thiếu hụt quản lý rủi ro trong quán lý bất động sản.
; Thiếu các kỹ thuật quản lý rủi ro.
; Mức độ tinh tế và phực tạp của quản lý rủi ro đòi hỏi phải có
những kỹ thuật mà đôi lúc là quá khó đế thực hiện.
; Mất nhiều thời gian + thiếu thông tin.
; Sự nghi ngờ: liệu các kỹ thuật này là khả thi cho dự án,
; Phần lớn rủi ro là liên quan đến tiến trình công việc, hợp đồng;
vì thế để đối phó chúng tốt nhất dựa trên kinh nghiệm hoặc các
hợp đồng trước đó.
; Thiếu vắng sự tinh thông, thành thạo trong kỹ thuật quản lý rủi
ro.
; Không bộc lộ lợi ích ra một cách rõ ràng.
CHƯƠNG II: Thực trạng quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản ở Viêt Nam.
II. Thị trường quản lý bất động sản ở Việt Nam.
Từ năm 2000 trở về trước, những tòa cao ốc, văn phòng cho thuê đầu
tiên đều rơi vào tình trạng thua lỗ triền miên do thiếu khách thuê. Toà nhà 63
Lý Thái Tổ (Hà Nội) tọa lạc ở địa thế trung tâm gần nhà hát lớncũng chung
hoàn cảnh, do đó là thời điểm của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường VN, hoặc bỏ dở các dự án
đang triển khai.Nhưng từ 3 năm trở lại đây, toà nhà 63 Lý Thái Tổ với 7.000
m2 đã lấp kín 100% bởi những khách hàng lớn như Ngân hàng thế giới, Quỹ

tiền tệ quốc tế Giá cho thuê của toà nhà này đứng đầu bảng trong toàn bộ
các toà cao ốc tại VN. Không riêng gì đối với tòa nhà 63 Lý Thái Tổ, tất cả
các tòa cao ốc mới xây dựng trong vài năm nay đều đã cho thuê 80 - 90%
diện tích. Giám đốc điều hành Tập đoàn CB Richard Ellis Việt Nam, công ty
chuyên cung ứng dịch vụ địa ốc hàng đầu, cho biết: Thị trường cho thuê bất
động sản gồm trung tâm thương mại, văn phòng và căn hộ cao cấp tại cả 2
thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM đang rất sôi động. Tại Hà Nội, tòa nhà
Vincom City Tower (sắp được đưa vào hoạt động ngày 18/11 tới) đã cho
thuê được 70% diện tích, tòa nhà Ocean Park mới được đưa vào sử dụng đã
có 92% diện tích được thuê, dự án Ocean Park do một công ty Đài Loan
triển khai đã bán hết gần 200 căn
hộ trong vòng 60 ngày. Tại TP HCM, trung tâm thương mại, văn phòng An Đông
vừa được khai trương ngày 4/10, các dự án đang triến khai xây dựng như
Landcaster, HBT Court cũng đã được phủ kín. Hệ số sử dụng văn phòng loại A
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều đạt trên 90%. Hệ số sử dụng văn
phòng loại B là 74%. Trong thời gian trung và ngắn hạn, thị trường văn phòng
loại B đang tỏ ra có un thế, giá thuê cũng dễ chịu hơn do hiện đang có nhiều
nguồn cung.
Nguyên nhân chính làm cho thị trường cho thuê BĐS nóng lên chính là do
tốc độ phát triển kinh tế trong nước đạt mức cao và đầu tư nước ngoài phát triển.
Kinh tế thế giới cũng đạt mức tăng trưởng khả quan trong vài năm nay. Thêm
vào đó là do nhu cầu về căn hộ, văn phòng cho thuê ở các thành phố lớn đang
phát triển với tốc độ cao, trong khi nguồn cung còn hạn chế. Mặt bằng giá thuê
văn phòng loại A ở Hà Nội dao động khoảng 25 USD/m2, bao gồm cả phí quản
lý, bảo đảm an ninh, đỗ xe Mức giá cụ thế còn tùy từng tòa nhà và từng khách
hàng cụ thể. Đây cũng là một bí mật kinh doanh của Cty quản lý các cao ốc.
Mức giá cho thuê ở TP HCM cũng tương tự như ở Hà Nội. Cao ốc cho thuê phải
có vị trí trung tâm, thuận lợi. Mặc dù, giá đất tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh luôn ở mức rất cao, nhưng theo tính toán của các nhà đầu tư thì chênh lệch
giữa giá cho thuê với giá thành đầu tư vẫn cho mức lợi nhuận cao. Nắm bắt cơ

hội này, nhiều nhà đầu tư nhảy vào kinh doanh địa ốc. Theo đánh giá của ông
Nguyễn Phùng Thăng - Giám đốc điều hành toà nhà 63 Lý Thái Tố,thị trường
văn phòng cho thuê đang ở thời điểm tốt và sẽ còn tốt lên trong những năm tới.
Chesterton (Anh) nhận thấy tiềm năng kinh doanh bất động sản ở VN rất
lớn nên đã quyết định đầu tư tù' cách đây hơn 5 năm. Dining & Associates của
một nhà đầu tư cá nhân từng làm việc cho Chesterton nhảy ra hoạt động độc lập.
Còn CB Richard Ellis Vietnam, có công ty mẹ ở Mỹ cũng nhanh chóng ra mắt
tại TP HCM từ năm ngoái.
Các công ty này đều giành được họp đồng độc quyền tiếp thị kinh doanh
và quản lý các cao ốc cao cấp như Lancaster tại quận 1 TP HCM, Metropole
Soíĩtel, EverFortune, Vincom Hà Nội với mức phí quản lý khá cao. Mỗi công
ty lại có cách thu phí khác nhau tuỳ đối tượng khách hàng. CB Richard Ellis thu
theo tháng, cộng thêm khoản tiền thưởng phụ trội nếu công suất cho thuê lớn,
Chesterton sau một thời gian áp dụng mô hình trên nay chuyển sang thu phí theo
doanh thu của các tòa nhà.
Trao đổi với VnE, ông Richard Leech, Giám đốc chi nhánh CB Richard
Ellis Hà Nội, cho biết do yêu cầu rất cao của các chủ cao ốc về chất lượng quản
lý, ngoài các chuyên gia điều hành từ công ty mẹ sang, các công ty có tuyển
nhân viên VN nhưng đều phải đưa đi đào tạo lại ở nước ngoài. Theo giới kinh
doanh bất động sản, nhân lực thiếu kinh nghiệm chính là điểm yếu mà các công
ty VN chưa thể khắc phục được và đành chịu nhường sân cho các đối thủ nước
ngoài.
Chủ dự án một toà nhà lớn (100% vốn VN) vừa khởi công tại TP HCM
cũng cho biết ngoài lý do đảm bảo chất lượng quản lý cao, Hội đồng quản trị
chọn công ty quản lý bất động sản nước ngoài bởi tâm lý của cả khách tây và ta
đều thích như vậy. "Khi trưng biến toà
nhà do một doanh nghiệp Mỹ hay Anh quản lý, khách hàng dường như tin
tưởng và muốn thuê hơn là việc chọn một công ty VN", ông giải thích.
Theo nhận định của ông Richard Leech, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
trên 7% như mấy năm gần đây, VN sẽ có nhiều dự án đầu tư xây dựng cao ốc

văn phòng và căn hộ cao cấp, thị trường quản lý bất động sản do đó có rất
nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, sự thiếu vắng
những công ty quản lý bất động sản chuyên nghiệp trong nước với giá phải
chăng sẽ là một cản trở lớn đối với sự phát triển các chung cư Việt Nam nói
riêng và thị trường địa ốc của Việt Nam trong tương lai.
III. Thực trạng quản lý bất động sản.
Đây là xu hướng phát triển bất động sản phổ biến trên thế giới, nhưng
trên thực tế còn rất ít được áp dụng tại Việt Nam. Những khu đô thị mới,
những toà cao ốc văn phòng và căn hộ cao cấp đã và đang mọc lên hàng
loạt ở Hà Nội và Tp.HCM, thị trường quản lý toà nhà có vẻ đang mở rộng
cửa đối với các công ty quản lý bất động sản.
Tuy nhiên, hiện có rất ít những dự án mới dám bỏ tiền ra thuê các
công ty quản lý (trừ những toà cao ốc văn phòng và căn hộ cao cấp có vốn
đầu tư nước ngoài).
Mô hình quản lý chủ yếu hiện nay ở Việt Nam là chủ đầu tư thường
kiêm luôn công tác quản lý toà nhà hay khu đô thị. Song theo ông Nguyễn
Xuân Đạo, Giám đốc Công ty Vietnam Properties, mô hình chủ đầu tư trực
tiếp quản lý không duy trì được chất lượng và
danh tiếng toà nhà một cách bền vững bằng các công ty quản lý chuyên nghiệp.
Kinh nghiệm ở nước ngoài cho thấy, việc quản lý các khu đô thị được tiến
hành rất bài bản và chu đáo. Cụ thể, các công ty quản lý sẽ cùng bắt tay lập dự
toán với chủ đầu tư, xem xét khu đất, tham gia vào việc lập báo cáo khả thi, xây
dựng mô hình và đưa ra kế hoạch quản lý. “Hiện nay, hầu hết các khu đô thị của
Việt Nam đầu tư chưa được bài bản. Nhìn chung, các công ty của Việt Nam chưa
đánh giá đúng mức tầm quan trọng của công việc quản lý toà nhà văn phòng và
nhà ở”.
Nhưng xét về thực lực, không phải chủ đầu tư nào cũng có thể thuê công ty
quản lý toà nhà, vì phải mất một khoản phí quản lý không nhỏ. Nhưng khi chủ
đầu tư chịu móc “hầu bao” thì hầu như các hợp đồng quản lý lại rơi vào tay các
công ty nước ngoài có uy tín lớn như Chesterton Petty Vietnam, CB Richard

Ellis và Dinning & Associates, trong khi các công ty Việt Nam hầu như vắng
bóng trong lĩnh vực này. Chủ đầu tư của các toà nhà thường muốn trương biến
hiệu của các công ty này, vì uy tín và thương hiệu của họ đã được thiết lập trên
thị trường thế giới.
Đối với các tòa cao ốc, dịch vụ quản lý hết sức quan trọng. Đơn vị quản lý
hết sức quan trọng. Đơn vị quản lý sẽ đảm bảo nhiệm vụ bảo trì, bảo quản, bảo
vệ để giúp cho các hoạt động diễn ra trong tòa cao ốc luôn vận hành một cách tốt
nhất. Chi phí cho dịch vụ quản lý tại các tòa nhà cao ốc văn phòng ở TP.HCM
hiện nay dao động tù’ 3-5 USD/m2/tháng. Bên cạnh việc đảm bảo vận hành tốt
các hệ thống máy móc (như thang máy, máy lạnh, điện, nước, vệ sinh ), đơn vị
quản lý còn phải đảm bảo bộ mặt tòa cao ốc luôn được chăm chút, sạch đẹp. Đây
cũng chính là lý do vì sao nhiều người cho rằng giá trị của tòa cao ốc sẽ tăng lên
nếu có được dịch vụ quản lý tốt. Và để có được dịch vụ quản lý tốt thì cần phải
có các đơn vị chuyên nghiệp. Hiện nay, hầu hết các tòa cao ốc trên địa bàn
TP.HCM đều được quản lý bởi các doanh nghiệp nước ngoài như Chesterton,
Dining and Associater và CB Richard Ellis.
Việc quản lý bất động sản nói chung tại Việt Nam chỉ được thực hiện theo
nguyên tắc thụ động, giữ ở mức độ tối thiểu cho các hoạt động hành chính kinh
tế và kỹ thuật, ví dụ như kiểm kê các tài sản, soạn thảo và ghi chép các hợp
đồng, thu tiền thuê, tính toán chi phí, tổ chức tu sửa và bảo quản Điều đó có
nghĩa là nhà quản lý chỉ cố gắng, dù không phải lúc nào cũng rõ ràng, giảm đến
mức tối thiếu chi phí liên quan đến việc duy trì công trình trong tình trạng hiện
tại. Ngày nay theo phong cách đặt vấn đề hiện đại trong việc quản lý bất động
sản đòi hỏi nhà quản lý phải nỗ lực nhiều hơn rất nhiều. Nó hướng tới mục tiêu
đạt được những kết quả sử dụng cao hay tạo thu nhập ốn định trong tương lai xa.
Dưới ảnh hưởng của những sự phát triển nhanh nền kinh tế, ngày nay người ta
mong đợi từ nhà quản trị không chỉ kiến thức quản lý hành chính, hiểu biết
thông thạo về kỹ thuật, luật pháp và kinh tế theo điều kiện hiện có của công
trình, mà còn phải có kiến thức và kinh nghiệm liên quan đến những nhu cầu
thay đổi liên tục của người sử dụng, hiểu biết những chu kỳ của nền kinh tế, điều

kiện của thị trường và kinh tế không gian.
Quản lý nhà cao tầng VN: Phần lớn chưa được tự' động hóa. Nhà cao tầng
thường được phân loại theo mục đích sử dụng. Đó là, văn phòng, ngân hàng,
công ty bảo hiểm; các tòa nhà hành chính công cộng; công ty dược phẩm, bệnh
viện; nhà ga, sân bay; chung cư, khách sạn, nhà hàng; trường đại học, phố thông;
trung tâm điện thoại, thông tin, truyền hình, nhà máy điện Và tương ứng với
mỗi loại nhà cao tầng đều phải có hệ thống quản lý nhà cao tầng tự động hóa
BMS (Building Management System) phù hợp với mục đích sử dụng. Ở Việt
Nam, khoảng 90% trong tổng số nhà cao tầng thông thường có hệ thống cơ sở hạ
tầng tối thiếu như hệ thống cấp - thoát nước, điện, báo cháy Có khoảng 50%
tòa nhà cao tầng được trang bị hệ thống điều hòa tập trung, hệ thống bảo vệ và
báo cháy, báo động xâm nhập và giám sát bằng camera nhưng chưa có hệ thống
BMS. Tất cả thiết bị của hệ thống điều hòa, báo cháy được điều khiến riêng
biệt, không thế trao đối thông tin với nhau, không có quản lý và giám sát chung,
còn phần quản lý điện năng thì ở mức thấp nhất. Khoảng 30% nhà cao tầng có
trang bị hệ thống điều hòa tập trung, hệ thống điều hòa tập trung, hệ thống bảo
vệ và báo cháy, hệ thống báo động xâm nhập và giám sát bằng camera có trang
bị hệ thống BMS. Tất cả thiết bị của hệ thống điều hòa, báo cháy được điều
khiển riêng biệt và tích hợp từng phần. BMS cho phép trao đổi thông tin, giám
sát giữa các hệ thống, quản lý tập trung và quản lý điện năng ở mức cao. Nhưng
hiện nay, tất cả các tòa nhà cao tầng này đều chưa được trang bị hệ thống quản lý
tòa nhà thông minh với các hệ thống điều hòa, báo cháy được điều khiển tập
trung, tương tác bởi hệ BMS. Một hệ thống được tích hợp đầy đủ hệ thống thông
tin, truyền thông và tự động hóa văn phòng. Đây còn gọi là các tòa nhà hiệu
năng cao, tòa nhà xanh, tòa nhà công nghệ cao, tòa nhà có những chức năng đặc
biết như bệnh viện, cơ quan Trung ương, nhà Quốc hội Như vậy, phần lớn việc
quản lý nhà cao tầng ở VN chưa được trang bị hệ thống BMS nên xét về mặt
chất lượng và hiệu năng sử dụng thì chưa đạt yêu cầu của đồ thị hiện đại. Hiện
các tòa nhà tối thiểu đều có hệ thống cung cấp nước nhưng do chưa được trang
bị hệ thống BMS và tiết kiệm điện năng nên tiền điện thường phải chi nhiều hơn.

Neu xét về mặt kinh doanh thì các nhà cao tầng không trang bị BMS sẽ không có
tính cạnh tranh, rất dễ thua lỗ.
Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện các cao ốc sử dụng hệ thống quản
lý BMS. Điển hình là Trung Tâm Thương mại Zen Plaza,mọi hoạt động trong tòa
nhà 16 tầng này đều được kiểm soát chặt chẽ từ phòng điều kiển trung tâm.
Trong phòng, 35 màn hình lớn liên tục theo dõi tất cả sinh hoạt đang diễn ra tại
các tầng. Mọi trục trặc liên quan đến kỹ thuật, an toàn đều được dễ dàng phát
hiện để kịp thời xử lý. Phòng điều khiển trung tâm này cũng theo dõi, xử lý cả
việc vận hành các thiết bị điện chính, hệ thống điều hòa không khí, hệ thống
thông tin liên lạc trong toàn bộ tòa nhà Theo bà Triệu Thị Hương Giang - Phó
tống Giám Đốc, vì là trung tâm thương mại, lượng khách hàng và hàng hóa
nhiều nên vấn đề an toàn, đặc biệt là cháy nổ, rất được chú trọng. Dù vậy, với tòa
nhà Zen Plaza được xây dựng cách đây 10 năm, công nghệ quản lý chỉ mới dừng
lại ở mức độ kiếm soát. Theo Công ty Tư vấn xây dựng Meinhardt Việt Nam, đối
với các cao ốc quy mô lớn đang mọc lên hiện nay, mức độ quản lý được nâng
cao hơn. Ông Mark Cottingham, Giám đốc thiết kế dịch vụ cao ốc, cho biết
nhiều cao ốc tại TP.HCM hiện đã ứng hụng hệ thống quản lý BMS không chỉ
dừng lại ở mức độ kiểm soát tòa nhà trên thế giới. Hệ thống BMS không chỉ
dừng lại ở mức độ kiếm soát tòa nhà mà còn tự động điều khiển phần lớn các hệ
thống trong cao ốc. Thông qua hệ thống máy vi tính, phần mềm ứng dụng, các
bộ
phận cảm biến sẽ tương tác với các hệ thống cơ điện khác trong tòa nhà đế
vận hành chúng, cũng như kiếm soát quá trình hoạt động, hỏng hóc, thời gian
bảo trì, sửa chữa Tùy theo mức độ phức tạp của hệ thống, thiết bị cơ điện,
mức độ vận hành mà nhà tư vấn sẽ lựa chọn giải pháp BMS phù hợp.
IV. Quản lý rủi ro trong quản lý bất động sản, thực trạng và nguyên nhân.
(Dân trí) - Chiều 28/12/2007, đúng vào giờ cao điểm mua sắm tại Trung
tâm thương mại Parkson, đường Lê Hồng Phong, quận Ngô Quyền (TP Hải
Phòng), toàn bộ diện tích trần khoảng 700m2 bằng thạch cao ở khu vực tầng
3 của trung tâm bất ngờ sập xuống.

Mặc dù sự cố không gây thiệt hại về người nhưng đã gây hoảng loạn cho
hàng trăm khách hàng đang mua sắm tại đây.
Chiều qua, 30/12, anh Nguyễn Trần Sơn - cán bộ quản lý trung tâm -
khẳng định: “Nguyên nhân của sự cố trên là do trong quá trình thi công lắp
đặt hệ thống camera, nhân viên kỹ thuật đã không tính chính xác khả năng
chịu lực của vách trần được làm bằng nhiều tấm nhỏ thạch cao. Trong khi
khoan lắp camera, trần nhà đã kéo nhau đố xuống theo kiểu domino”.
Theo anh Sơn, đây là sự cố nhỏ, không gây hậu quả nghiêm trọng. “Ngay
sau khi sự cố xảy ra, trung tâm đã nhanh chóng khắc phục để sớm đi vào
kinh doanh, phục vụ khách hàng ”, anh này cho biết thêm.
Tuy nhiên, theo tin từ TTXVN, nhiều người dân có mặt khi sự cố xảy ra
cho rằng cách giải thích của anh Sơn chưa chính xác. Thực chất
là toàn bộ diện tích trần nhà nói trên đã tự sập xuống chứ không do tác động nào
cả.
Sáng ngày 29/11/2008, nhân viên FPT Capital vô cùng ngạc nhiên khi thấy
một tấm trần tơi tả vương vãi trên sàn nhà công ty FPT Capital, tầng 12, toà nhà
FPT cầu Giấy. Tính đến thời điểm này, đây là vụ sập trần thứ hai ở FPT trong
năm nay.
Vụ sập trần được xác định xảy ra vào giữa đêm nên không gây thiệt hại gì
đáng kể về người và vật chất tại FPT Capital.
Tại hiện trường, một tấm trần Daiken có diện tích lm X 0.6m đã sụp xuống
nham nhở, nước chảy tong tỏng từ chỗ trần rơi xuống sàn vinyl khiến cho nhân
viên FPT Capital phải lấy xô ra hứng. Ngay sau khi nhận được tin báo, đại diện
Ban quản lý công trình của toà nhà FPT Cầu Giấy -công ty FPT Land, đã có mặt
tại hiện trường.
Anh Hướng NN, cán bộ phụ trách hệ thống kỹ thuật của Ban quản lý công
trình toà nhà FPT cầu Giấy, cho biết: “Nguyên nhân được xác định là do van
điện từ yrong điều khiến hệ BMS của hệ thống điều hoà tại văn phòng FPT
Capital bị lỗi, gây ra rò rỉ nước vào tấm trần. Sau một thời gian ngấm nước, tấm
trần bị mủn ra, co lại và gây sập”. Van điện từ của hệ thống điều hoà có tác dụng

điều chỉnh lượng nước đi vào FCU để điều khiển nhiệt độ. Hệ thống van này do
FPT IS lắp đặt, nằm trong gói thầu BMS, hệ thống quản lý toà nhà FPT. Thực tế,
trừ những tấm trần trong toilet, toàn bộ những tấm trần ở toà nhà FPT cầu Giấy
đều không chịu được nước, dễ dàng bị mủn ra khi gặp nước. Những tấm trần này
được làm bằng sợi khoáng, rất mỏng và nhẹ; mỗi tấm nặng không đến 1
lạng.“Với ưu điếm là nhẹ, các tấm trần khi bị sập không gây ra thiệt hại lớn về
tính mạng con người và tài sản vật chất. Neu có sập do bị ngấm nước, cùng lắm
nó cũng chỉ làm
bẩn văn phòng”, anh DũngNV3, cán bộ kỹ thuật Ban quản lý công trình toà
nhà FPT cầu Giấy, cho biết và nói thêm tấm trần sợi khoáng được chọn để thi
công chính là nhờ ưu điểm này.
Tuy nhiên, khi được hỏi về khả năng xảy ra những trường hợp tương tự,
anh HướngNN cũng thẳng thắn: “Đã là hệ thống kỹ thuật thì không thể nói
trước được dù đã có nghiệm thu. Trong quá trình sử dụng, phát hiện ra lỗi
nào, chúng ta sẽ khắc phục lỗi đó”.
Anh Hướng NN khuyến cáo: “Khi thấy vết 0 vàng trên trần, hãy gọi quản
lý toà nhà đến kiểm tra, vì có khả năng trần bị thấm nước. Đừng đợi cho nó
mủn ra và sập xuống”.FPT IS đã cho người đến khắc phục van bị lỗi vào
ngay sáng thứ Năm, 29/11; tấm trần mới cũng đã được thay.Toà nhà FPT
được khai trương nội bộ vào ngày 13/09/2007 và các đơn vị bắt đầu chuyển
về làm việc tại toà nhà FPT cầu Giấy từ ngày 25/09.
Đây là sự sập trần thứ hai tại FPT. Vụ sập trần thứ nhất xảy ra tại FPT
Distribution ở nhà Al, Khu ngoại giao đoàn Vạn Phúc vào ngày 26/09, không
gây thiệt hại nào về người nhưng làm hỏng một số đồ dùng văn phòng và gây
tâm lý hoang mang cho các cán bộ nhân viên FPT Distribution.
Nhận xét:
Công tác quản lý rủi ro còn rất nhiều hạn chế, khi xảy ra các sự cố nhà
quản lý thường đưa ra những lời giải thích mù mờ thiếu thuyết phục, hoặc là
đưa ra những lời nói chung chung.
V. Kỉnh nghiệm quản lý rủi ro trong các ngành khác.

I. Quản lý rủi ro trong đầu tư bất động sản.
Ngoài hiểu biết về mức độ rủi ro cũng như tiềm năng lợi nhuận của những
công cụ đầu tư khác nhau, nhà đầu tư cần phải xác định được khả năng chấp
nhận rủi ro của bản thân cũng như có các phương thức thích họp để quản lý rủi
ro.
Xác định mức riíỉ ro có thế chấp nhận
Khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
cá nhân và mục tiêu của mỗi người. Thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro có thế
bị ảnh hưởng bởi những nhân tố sau:
Tuối đòi
Neu còn trẻ, còn nhiều thời gian phía trước để khắc phục những thua lỗ tạm
thời, nhà đầu tư có thể sẵn sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao đế đối lại mức lợi
nhuận cao. Nhưng càng lớn tuối, nhà đầu tư càng e ngại đối với những khoản
đầu tư có mức độ rủi ro cao. Và ở tuổi sắp nghỉ hưu, họ chỉ tìm những cơ hội đầu
tư ổn định với rủi ro thấp.
Các trách nhiệm phải gánh vác
Trách nhiệm có thế bao gồm các khoản nợ phải hoàn trả, các chi phí phải
thanh toán, và người thân phải nuôi nấng, phụng dưỡng. Trách nhiệm càng cao,
nhà đầu tư càng có khuynh hướng ít chấp nhận rủi ro.
Mục tiêu đầu tư
Khi đầu tư, nhà đầu tư có thể nhằm vào thu nhập định kỳ, tăng trưởng vốn đầu
tư hoặc kết hợp cả hai. Tùy thuộc vào mỗi mục tiêu lựa chọn mà nhà đầu tư sẽ
chấp nhận những mức độ rủi ro khác nhau.
Thòi hạn đế hoàn thành mục tiêu đặt ra
Thời hạn càng ngắn, mức độ rủi ro mà nhà đầu tư có thế chấp nhận sẽ càng
thấp.
Mức lợi nhuận mong muốn
Neu muốn lãi nhiều thì nhà đầu tư phải chấp nhận rủi ro cao.

×