Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Hoạt động sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.84 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
Sở hữu chéo là một thuộc tính kinh tế khách quan đã xuất hiện trong quá trình phát
triển tại nhiều nền kinh tế trên thế giới. Hình thức sở hữu chéo tồn tại khá lâu và mang lại
những thành công không nhỏ cho nhiều nước. Tuy nhiên trên thực tế, sở hữu chéo phức
tạp hơn nhiều bởi nó hàm chứa những mối quan hệ chằng chịt và đôi khi rất khó phân
tách rạch ròi.
Trong những năm gần đây, vấn đề sở hữu chéo liên quan đến các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh các mặt tích cực mang lại thì trong
bối cảnh hiện nay, sở hữu chéo là một trong những nguyên nhân quan trọng có thể dẫn
đến các tác động tiêu cực cho hệ thống ngân hàng như cho vay theo quan hệ, thu xếp vốn
cho những dự án đầu tư chưa minh bạch, hoặc phục vụ mục đích thâu tóm ngân hàng.
Đối với quá trình tái cơ cấu các ngân hàng Việt Nam hiện nay, sở hữu chéo là một trong
những vấn đề cần quan tâm xử lý hàng đầu, đặc biệt là đối với công tác giải quyết nợ xấu
cũng như tăng cường minh bạch hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Chính vì sự nguy hiểm tiềm ẩn của vấn đề sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng mà
chúng ta cần phải tìm hiểu tổng quan về sở hữu chéo, thực trạng diễn ra cũng như tìm ra
những giải pháp để hạn chế những tiêu cực do sở hữu chéo mang lại cho hoạt động ngân
hàng. Đó cũng chính là lý do nhóm chúng tôi thực hiện đề tài “VẤN ĐỀ SỞ HỮU
CHÉO TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG”.
Vì hạn chế về mặt kiến thức và thời gian thực hiện đề tài nên chúng tôi khó tránh
khỏi sai sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy cùng các bạn!
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- CTCK : Công ty Chứng khoán.
- CTCP : Công ty Cổ phần.
- Công ty TNHH MTV : Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- DN : Doanh nghiệp.
- DNNN : Doanh nghiệp nhà nước.
- NH : Ngân hàng.
- NHTM : Ngân hàng thương mại.
- NHTMNN : Ngân hàng thương mại nhà nước.


- NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần.
- NHLD : Ngân hàng liên doanh.
- HĐQT : Hội đồng quản trị.
- TCTD : Tổ chức tín dụng.
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ HỮU CHÉO TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm về sở hữu chéo
Sở hữu chéo (cross ownership) là một hiện tượng phổ biến trên thế giới và là chủ đề
nghiên cứu lớn trong giới học thuật, được giới thiệu như là một chiến lược quản trị doanh
nghiệp. Các nghiên cứu thường tập trung nhiều ở các quốc gia có mức độ sở hữu chéo
cao như: Nhật Bản (phương Đông) và Đức (phương Tây).
Theo Alberto Onetti và Alessia Pisoni (2009)
1
định nghĩa “Sở hữu chéo ở Đức là việc
các công ty, thuộc các lĩnh vực công nghiệp và tài chính, nắm giữ lâu dài cổ phần của
nhau”.
Theo Mark Scher (2001)
2
định nghĩa về cổ phần chéo ở Nhật Bản, “Cổ phần chéo là
một tập hợp con của những cổ phần hoạt động ổn định, có thể được tổ chức trong các
thỏa thuận ba bên, đa phương, hoặc nếu không ổn định giữa các công ty, thường dựa
trên nhóm và/ hoặc các mối quan hệ giao dịch”.
Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là một thuộc tính khách quan và đã tồn tại từ
lâu ở nhiều nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt ở các quốc gia mà hệ thống tài chính phát
triển dựa trên hoạt động ngân hàng (bank-based), điển hình là Đức và Nhật. Sở hữu chéo
thường được tìm thấy trong các doanh nghiệp tại Đức và Nhật Bản. Trong khi, đối với
những nền kinh tế thành phần nhiều theo định hướng thị trường (market-based) như Anh,
Mỹ, quan hệ sở hữu chéo ít phổ biến.
Kế thừa các quan điểm trên, dưới góc độ quan điểm cá nhân, nhóm nghiên cứu định

nghĩa “Sở hữu chéo (cross ownership) là mối quan hệ giữa hai hay nhiều định chế tài
chính hoặc các doanh nghiệp, trong đó các chủ thể này có quan hệ sở hữu cổ phần lẫn
nhau”.
Thông thường, sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp có tính trực tiếp. Ví dụ, doanh
nghiệp A sở hữu doanh nghiệp B hoặc ngược lại. Tuy nhiên, sở hữu chéo có thể tồn tại
một cách gián tiếp. Ví dụ, một nhà đầu tư (hoặc một nhóm nhà đầu tư) sở hữu cả doanh
nghiệp C và doanh nghiệp D, thì thực chất doanh nghiệp C và doanh nghiệp D là sở hữu
chéo của nhau. Hình thức này thiếu minh bạch và rất khó kiểm soát.
1 Alberto Onetti, Alessia Pisoni, “Ownership and control in Germany: Do cross-shareholdings reflect
bank control on large companies?”, 2009.
2 Mark Scher, “Bank-firm Cross-shareholding in Japan: What is it, why does it matter, is it winding down?”, 2001.
3
Và tùy vào bối cảnh, sở hữu chéo rất đa dạng khi kết hợp mọi thành phần tham gia
kinh tế như ngân hàng- doanh nghiệp sản xuất- công ty bảo hiểm- các quỹ đầu tư…
Nhưng trong nhiều mối quan hệ chằng chịt đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh
nghiệp lại là đặc biệt hơn cả.
1.2. Phân loại sở hữu chéo
Theo Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban kinh tế Quốc hội
3
thì trong hệ thống
Ngân hàng Việt Nam hiện nay đang tồn tại 6 hình thức sở hữu chéo. Bao gồm:
- Ba nhóm tích cực:
(1) Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên
doanh (NHLD).
(2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần.
(3) Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ.
- Ba nhóm tiêu cực:
(4) Sở hữu của các NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần.
(5) Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần.
(6) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân.

Trong các mối quan hệ trên, ba nhóm sở hữu chéo đầu tiên có tính tích cực vì các mối
quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc đẩy hoạt động thương mại giữa
Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc đẩy việc sử dụng vốn một cách
có hiệu quả.
Điều đáng bàn nhất là mối quan hệ thuộc về ba nhóm sau. Khi các NHTM nhà nước
là cổ đông lớn của các NHTM cổ phần, các NHTM nhà nước có thể ảnh hưởng đến các
ngân hàng thuộc nhóm sau trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Với
hai trường hợp các NHTM có cổ đông lớn là các doanh nghiệp, thì rất có thể các NHTM
này trở thành sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để tài trợ cho các dự án của mình.
Mặc dù theo quy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn,
nhưng các ngân hàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con của các
doanh nghiệp vay vốn.
3 Trích báo cáo Kinh tế Vĩ mô 2012: “Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”. Ấn phẩm do Nhóm Tư vấn chính
sách kinh tế vĩ mô thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát
chính sách kinh tế vĩ mô” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, với sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên
hợp quốc tại Việt Nam (UNDP).
4
Tương tự, việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để cho các doanh
nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Như vậy, ba
trường hợp sở hữu này đều có nguy cơ dẫn đến việc các NHTM sẽ tiến hành thẩm định
vốn vay thiếu cẩn trọng. Nếu điều này xảy ra, đây có thể coi là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến nợ xấu trong hệ thống các TCTD của Việt Nam hiện nay tăng
cao.
1.3. Quy định về vấn đề sở hữu chéo trong ngân hàng
Sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống TCTD đang có xu hướng diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn rủi ro và ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của từng TCTD nói riêng, cũng như
toàn hệ thống TCTD nói chung, cản trở nhất định đến quá trình cơ cấu lại hệ thống các
TCTD. Sở hữu chéo trong hệ thống các TCTD Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử, không
thể giải quyết ngày một, ngày hai. Trong hệ thống quy phạm pháp luật nước ta hiện nay,
chưa có một văn bản nào điều chỉnh cụ thể vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng

mà chỉ có những quy định liên quan về vấn đề thành lập, tổ chức, sở hữu ngân hàng như
sau:
- Về quy định về vấn đề thành lập ngân hàng:
Những điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Ngân hàng được
quy định tại Điều 20, Luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010
● Quy định về vốn điều lệ: theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP về ban
hành danh mục mức vốn pháp định của các TCTD, vốn điều lệ thực góp của các NHTM
phải đạt 3.000 tỷ đồng vào năm 2010.
● Quy định về năng lực chủ sở hữu.
● Quy định về điều lệ.
● Quy định về đề án thành lập ngân hàng: có đề án thành lập, phương án kinh doanh
khả thi, không gây ảnh hưởng tới sự an toàn, ổn định của hệ thống TCTD, không tạo ra
sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống TCTD.
Quy định về chủ sở hữu của TCTD có vai trò rất quan trọng trong việc minh bạch
hóa hoạt động của TCTD, khoản b Điều 20 Luật các TCTD 2010 quy định như sau: Chủ
sở hữu TCTD là Công ty TNHH MTV, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là pháp
nhân đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có khả năng
tài chính để góp vốn.
5
Điều kiện đối với chủ sở hữu của TCTD là Công ty TNHH MTV, cổ đông sáng
lập, thành viên sáng lập do NHNN quy định.
- Về cơ cấu quản lý, tổ chức NH: được quy định cụ thể tại Điều 32, Luật các TCTD số
47/2010/QH12.
- Về tỷ lệ sở hữu cổ phần: Điều 55 Luật các TCTD số 47/2010/QH12 quy định :
1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một
tổ chức tín dụng.
2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một
tổ chức tín dụng, trừ các trường hợp sau đây:
a. Sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 Điều 149 của Luật này để xử lý tổ chức tín
dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng;

b. Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hóa;
c. Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này.
3. Cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá
20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
4. Tỷ lệ sở hữu quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này bao gồm cả phần vốn
ủy thác cho tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần.
5. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, các cổ đông sáng lập
phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng;
các cổ đông sáng lập là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50%
tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ.
- NHNN ban hành chỉ thị đề cập tới vấn đề sở hữu chéo.
Theo Chỉ thị 01 ban hành ngày 15/1/2014 của Ngân hàng Nhà nước, các TCTD
cần xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2014 phù hợp với các giải pháp điều
hành cơ sở tiền tệ , tín dụng, hoạt động ngân hàng của Chính phủ và NHNN Việt Nam.
Cụ thể, Thống đốc NHNN đã chỉ đạo các Ngân hàng chủ động xử lý sở hữu chéo như sau
“Tăng cường năng lực tài chính, chất lượng tài sản, cải thiện vững chắc khả năng thanh
khoản; tích cực cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng thu hẹp chênh lệch kỳ hạn
nguồn vốn và sử dụng vốn, tăng tỷ trọng nguồn vốn có tính ổn định cao; kiểm soát chất
lượng tín dụng, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với quy mô, cơ cấu nguồn vốn;
6
tiến hành rà soát, củng cố các hoạt động kinh doanh chính, từng bước thoái vốn đầu tư
vào những ngành, lĩnh vực phi tài chính hoặc lĩnh vực có độ rủi ro cao; chủ động xử lý
vấn đề sở hữu chéo và hạn chế sự kiểm soát, chi phối của một hoặc một số ít cổ đông lớn
đối với tổ chức tín dụng”
4
.
Qua phân tích trên, có thể thấy được rằng những vấn đề pháp lý liên quan đến sở hữu
trong ngân hàng chỉ mới mang những khái niệm đầu tiên, còn mang tính sơ khai, đơn
giản và chưa đi sâu và khai thác một cách triệt để. Trong quá trình tái cấu trúc hệ thống
NHTM Việt Nam, sở hữu chéo (cùng với nợ xấu) là một trong những vấn đề nổi cộm cần

được ưu tiên giải quyết. Trong khi đó lại chưa có văn bản pháp luật nào điều chỉnh vấn đề
sở hữu chéo sẽ gây ra hậu quả là các TCTD, các cá nhân lợi dụng những kẽ hở của pháp
luật nhằm mục đích trục lợi hết sức dễ dàng.
4 Điểm b, Mục 6, Chỉ thị số 01/CT-NHNN Về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng
an toàn, hiệu quả năm 2014 do Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 15 tháng 01 năm 2014.
7
CHƯƠNG 2: SỞ HỮU CHÉO TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
2.1. Thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng một số nước trên thế giới
“Sở hữu chéo” được xem là một vấn đề lớn và nan giải đối với hệ thống ngân hàng và
doanh nghiệp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt khi những năm gần đây, với sự phát
triển của tài chính-ngân hàng, thì tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng trên
thế giới diễn biến ngày càng phức tạp và khó kiểm soát. Đến nay, vấn đề sở hữu chéo
giữa các ngân hàng thu hút sự quan tâm đáng kể bởi nhiều lý do:
Thứ nhất, sở hữu chéo có thể gây cản trở đến năng lực cạnh tranh và vì vậy tác động
không nhỏ đến sự phân bổ quyền sở hữu tài sản;
Thứ hai, sở hữu chéo trong nhiều trường hợp có liên quan rất lớn đến những người
sáng lập chính của ngân hàng mà vì nhiều lý do không thể đảm bảo quản trị ngân hàng
hiệu quả.
Với tầm ảnh hưởng của tình trạng sở hữu chéo chúng ta sẽ tìm hiểu một số quốc gia
trên thế giới để thấy rõ hơn vấn đề này.
2.1.1. Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Ý
Sự hình thành nên mạng lưới sở hữu chéo chằng chịt giữa phần lớn các ngân hàng
của Ý gắn liền với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Trong suốt 10 năm, những sự
kiện nổi bật đã làm thay đổi bộ mặt lĩnh vực ngân hàng Ý mà cơ bản là quá trình đổi mới
hệ thống khuôn khổ pháp lý, bắt đầu từ những năm 1990, trong đó điển hình là các đạo
luật mới của Châu Âu về lĩnh vực ngân hàng.
Trong bối cảnh hệ thống pháp luật mới, hai sự kiện quan trọng đóng vai trò nòng cốt
trong quá trình chuyển đổi cấu trúc sở hữu trong hệ thống ngân hàng Ý, đó là: việc bán
cổ phần của các ngân hàng mà nhà nước sở hữu và quá trình củng cố khu vực tín dụng
quốc gia. Việc bán cổ phần của các ngân hàng thương mại nhà nước bắt đầu từ năm 1993

và kết thúc vào năm 2001 với kết quả cuối cùng là nhà nước chỉ nắm giữ khoảng 0,1% cổ
phần ở khu vực ngân hàng; quá trình củng cố khu vực tín dụng quốc gia chủ yếu liên
quan đến các ngân hàng nhỏ và vừa vào những năm 1990 và sau đó đến lượt các ngân
hàng lớn nhất của Ý bắt đầu từ năm 1997
5
.
Quá trình bán cổ phần nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua các cuộc đàm
phán kín nhằm mục đích xác định cụ thể nhóm nào kiểm soát các cổ đông. Quá trình này,
cùng với các hoạt động hợp nhất, sáp nhập gắn với các ngân hàng lớn của đất nước, đã
5 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Sở hữu chéo và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng – Một số kinh nghiệm từ
nước Ý”, 2014.
8
dẫn đến tình trạng là một số ít các cổ đông đã sở hữu cổ phần của gần như tất cả các tập
đoàn ngân hàng lớn nhất quốc gia, tạo ra một mê cung sở hữu chéo trong hệ thống ngân
hàng Ý hiện nay.
Bằng việc thống kê thực trạng sở hữu cổ phần của các cổ đông chính, các nhà nghiên
cứu thấy rằng nằm ở trung tâm của mạng lưới sở hữu chéo là một nhóm nhỏ các nhà sáng
lập ngân hàng quan trọng nhất. Những người này, nổi lên từ cuộc cải cách hệ thống ngân
hàng đầu những năm 1990, đã trở thành ông chủ của các ngân hàng đại chúng. Mặc dù
một trong các mục đích của nhiều quy định pháp luật đặt ra trong những năm 1990 là
khiến các nhà sáng lập ngân hàng rút bớt cổ phần của mình trong các ngân hàng nhưng
họ vẫn nắm giữ đáng kể, nếu không muốn nói là phần lớn cổ phần ở rất nhiều ngân hàng.
2.1.2. Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng ở Nhật Bản
a) Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàngNhật Bản
Sở hữu chéo bùng nổ ở Nhật Bản từ những năm 1960 trong thời kỳ phục hồi kinh tế
sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán suy giảm, sở hữu
chéo giúp cho các CTCP có khả năng vay vốn dễ dàng từ ngân hàng và giúp ngân hàng
tăng trưởng lợi nhuận từ cho vay. Sở hữu chéo là công cụ để hạn chế mua thâu tóm CTCP
của nước ngoài trong bối cảnh Nhật Bản buộc phải thực kiện cam kết tự do hóa thương
mại khi trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD).

Trên thực tế, sở hữu chéo tạo ra liên kết giữa các công ty trong các tập đoàn sản xuất
như Tập đoàn Toyota. Ngoài ra, phải kể đến sự liên kết duy trì sở hữu chéo giữa ngân
hàng trung tâm và các công ty sản xuất công nghiệp, công ty thương mại trong Tập đoàn
quy mô lớn nhất Nhật Bản là Mitsubishi, Sumitomo, Mitsui, Sanwa, Fuyo và Ichikan.
Kết quả sở hữu chéo là làm giảm số cổ phần lưu thông và tác động vào giá cổ phần, duy
trì chúng ở mức cao.
Bên cạnh những lợi thế kể trên, sở hữu chéo còn bộc lộ một số mặt hạn chế như có thể
làm phát sinh hiện tượng làm hình thức hóa vai trò của đại hội đồng cổ đông trong quyết
định phương hướng kinh doanh. Về mặt kế toán, do sở hữu chéo của các công ty có hiệu
quả kinh doanh thấp, cổ phiếu nắm giữ xuống giá là tác nhân buộc nhiều công ty phải sử
dụng lợi nhuận để bù lỗ phát sinh do nắm giữ cổ phần chéo; hay để xảy ra tình trạng
không hạch toán kế toán đầy đủ và chính xác các chi phí để duy trì sở hữu chéo.
b) Cách giải quyết của Chính phủ Nhật Bản
Sau khủng hoảng tài chính cuối thập niên 1980, Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu sửa
đổi lại các quy định pháp luật để hạn chế sở hữu chéo. Ngay từ năm 1981, Luật Thương
mại Nhật Bản đã quy định cấm công ty con sở hữu cổ phần của công ty mẹ, trừ một số
trường hợp đặc biệt. Sau đó, Luật Công ty cũng cấm thực hiện quyền biểu quyết của cổ
đông là công ty sở hữu chéo ngược chiều trong trường hợp sở hữu chéo có dấu hiệu chi
9
phối thực chất. Bên cạnh đó, luật cấm độc quyền gián tiếp tác động quan hệ sở hữu chéo
cổ phần thông qua quy định về giới hạn sở hữu và nghĩa vụ báo cáo nhằm kiểm soát tình
trạng độc quyền.
Và còn nhiều văn bản pháp luật của Nhật Bản ra đời nhằm duy trì những ảnh hưởng
tích cực của sở hữu chéo đồng thời cũng đưa ra nhiều quy định chặt chẽ để hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của chúng.
2.2. Thực trạng sở hữu chéo tại Việt Nam
2.2.1. Sự hình thành và phát triển sở hữu chéo trong Ngân hàng ở Việt Nam
Quá trình phát triển của Ngân hàng Việt Nam được chia làm 4 thời kì: từ 1951- 1954,
1955-1975, 1975-1985 và từ 1986 tới nay. Qua 4 thời kì này hệ thống Ngân hàng Việt
Nam đã có rất nhiều biến chuyển lớn. Tiêu biểu có thể kể tới việc bùng nổ số lượng ngân

hàng trước thềm gia nhập WTO của Việt Nam. Tính đến cuối năm 2011, số lượng NHTM
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đã lên đến 101 (gồm năm NHTM Nhà nước, hai ngân
hàng chính sách, 50 chi nhánh NHTM nước ngoài, năm NHTM 100% vốn nước ngoài,
bốn ngân hàng liên doanh và 35 NHTM cổ phần).
Đến năm 2010, ngoài các hoạt động kinh doanh cốt lõi, các tập đoàn, công ty lớn
(nhất là của nhà nước) còn tham gia trực tiếp vào các hoạt động đầu tư tài chính, bất động
sản.
Hệ thống tài chính còn đa dạng hơn với sự hiện diện của khoảng gần 1.100 quỹ tín
dụng nhân dân, 18 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, các quỹ hỗ trợ phát
triển của thành phố, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, v.v
Quy mô về vốn của các tổ chức tín dụng cũng tăng mạnh: Vốn điều lệ của riêng hệ
thống NHTM đã tăng tới 44% vào năm 2006, 89% vào năm 2007 và 18% vào năm 2008.
Kể từ đây hệ thống NHTM Việt Nam đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo rất phức
tạp giữa ngân hàng với các doanh nghiệp và giữa ngân hàng với ngân hàng. Ta có thể lý
giải hiện tượng này dựa trên 3 nguyên nhân:
● Thứ nhất: sự bùng nổ của thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm gần đây các nhà
đầu tư có thể dễ dàng thu gom các cổ phiếu của các ngân hàng niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Ví dụ: trường hợp các ngân hàng Eximbank, Southernbank
thu gom cổ phiếu STB.
● Thứ hai: quá trình tăng vốn nhanh chóng của các ngân hàng làm gia tăng hiện tượng sở
hữu chéo ngân hàng.
Như giới thiệu ở trên chính sự phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng đã tạo nên
một thời kì tăng trưởng nóng khiến cho yêu cầu về vốn của các ngân hàng trở nên
10
mạnh và bắt buộc phải thông qua sở hữu chéo để tăng vốn ảo. Thông qua việc sở
hữu chéo ngân hàng, cổ đông có thể vay vốn của ngân hàng này để góp vốn vào
ngân hàng kia một cách dễ dàng. Tuy thị trường tài chính mới chỉ phát triển trong
giai đoạn đầu, nhưng quan hệ sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
cũng đã trở nên hết sức chằng chịt, phức tạp. Không chỉ có việc ngân hàng A đầu

tư vào ngân hàng B hay C mà chuyện vài ba ngân hàng có thể cùng một chủ sở
hữu không phải hiếm.
● Thứ ba: thị trường tài chính phát triển thiếu quản lý cấp cao.
Nguyên nhân vi mô cần nhắc đến là thị trường tài chính phát triển lại thiếu quản lý
cấp cao nên cần sự tin cậy giữa các doanh nghiệp với nhau và với doanh nghiệp thì
sự tin tưởng này chỉ có thể thông qua mối quan hệ gia đình, đồng nghiệp. Đó mới
là nguyên nhân chính của tình trạng sở hữu chéo nghiêm trọng hiện tại.
2.2.2. Tình hình sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
Đối với thực tiễn Việt Nam, từ nhiều năm trước khi việc thành lập hệ thống ngân hàng
cổ phần được thực thi, Chính phủ đã chủ trương phải có đại diện của mình trong mỗi
ngân hàng và các ngân hàng quốc doanh lớn đã được lựa chọn để góp vốn với tư cách cổ
đông nhà nước. Sự hiện diện của những ngân hàng quốc doanh nhằm mục đích hạn chế
những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý nếu có cũng như những yếu kém ban
đầu từ phía các ngân hàng cổ phần mới được thành lập. Trong bối cảnh bấy giờ, sự thận
trọng này là cần thiết. Ngoài ra, xét từ góc độ nghiệp vụ, các ngân hàng quốc doanh lớn
đã chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh, quản trị thậm chí chia sẻ cả nguồn nhân lực với tất cả
các ngân hàng họ góp vốn. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam, ảnh hưởng của các hình thức sở hữu chéo cũng có nhiều biến đổi.
Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm
giữ giữa các tổ chức, vai trò của các cổ đông và công tác giám sát vai trò này là những
vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang
tính biến động cao, kết hợp với nguồn thông tin hạn chế. Tình hình sở hữu chéo trong
lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam hiện nay sẽ được phân tích một cách hệ thống qua sáu
hình thức sở hữu chéo trong ngân hàng dưới đây.
11
2.2.2.1 .Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các ngân hàng
liên doanh (NHLD)
Hiện tại có sáu NHLD trong hệ thống các TCTD của Việt Nam. Thông thường một
NHLD được sở hữu bởi một NH nước ngoài và một NH trong nước. Chẳng hạn NH Việt
Thái là NHLD giữa 3 đối tác lớn: NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

(NHNoN&PTNT), NHTM Siam của Thái Lan và Tập đoàn Charoen Pokphand (CP) của
Thái Lan với tỷ lệ vốn góp tương ứng là 34%, 33% và 33%; NH Việt Nga là liên doanh
giữa NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và NH VTB (trước là NH Ngoại thương
Nga Vneshtorgbank) với mức góp vốn điều lệ ngang nhau.
2.2.2.2. Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM, cả nhà nước lẫn cổ phần
Đứng trước nhu cầu thu hút vốn và kỹ năng quản trị từ các 158 định chế tài chính có
kinh nghiệm nước ngoài, NHNN đã có chủ trương khuyến khích các NHTM trong nước
tìm kiếm các đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược. Đến nay, có khoảng 10 NHTM
có đối tác chiến lược là các tập đoàn tài chính nước ngoài.
12
2.2.2.3. Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ
Từ năm 2005 trở lại đây, các quỹ quản lý vốn bắt đầu xuất hiện nhiều ở Việt Nam.
Các quỹ này thường đầu tư vốn vào những NHTM cổ phần có tiềm năng phát triển tốt.
Chẳng hạn, Vinacapital đầu tư vốn vào Sacombank, VOF đầu tư vào Eximbank, quỹ
Dragon đầu tư vào ACB v.v…
2.2.2.4. Sở hữu của các NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
Quan hệ sở hữu này hình thành chủ yếu từ việc yếu kém nghiệp vụ NH của các
NHTM cổ phần trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng
1997-1998. Ở Việt Nam, tình trạng sở hữu chéo giữa các NHTM nhà nước và các NHTM
cổ phần thể hiện phổ biến và rõ nét nhất là: Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV
đều sở hữu tỷ lệ cổ phần số lượng lớn và trở thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP.
Trong đó, Vietcombank đang sở hữu 11% tại NHTMCP Quân đội (MB), 8,2% tại
Eximbank, 4,7% tại NHTMCP Phương Đông, 5,3% tại NHTMCP Sài Gòn Công thương;
Agribank hiện đang sở hữu 15% tại NHTMCP Hàng Hải (cổ phần gián tiếp thông qua
Agriseco), 11% tại NHTMCP Sài Gòn Công thương; VietinBank cũng sở hữu 11% cổ
phần tại NHTMCP Sài Gòn Công thương.
13
Nguồn: Fulbright.
2.2.2.5. Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
Hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần cũng khá phổ biến ở Việt

Nam hiện nay. Biểu hiện sở hữu chéo giữa các NHTM cổ phần được thể hiện theo
phương thức đan xen lẫn nhau. Từ những thông tin công bố của các ngân hàng, hiện có ít
nhất 6 NHTM cổ phần có cổ đông là một NHTM cổ phần khác. Vietcombank hiện là
TCTD sở hữu nhiều nhất cổ phần của những ngân hàng khác. Sau khi thoái vốn khỏi
NHTM Cổ phần Gia Định (tên mới là Bản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của
SaigonBank, Eximbank, Quân đội, Phương Đông và Oceanbank với các tỷ lệ nắm giữ
khác nhau. Theo thống kê, có khoảng 8 NHTM Cổ phần có quan hệ cổ phần với 4
NHTM nhà nước. Quan hệ sở hữu này hình thành chủ yếu từ những hạn chế nghiệp vụ
ngân hàng của các NHTM Cổ phần trong giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai
đoạn khủng hoảng 1997 – 1998. Ngoài ra, hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM
14
Cổ phần cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian qua. Một ví dụ khác là ACB sở hữu
20% cổ phần tại Eximbank, trong khi đó Eximbank lại sở hữu 10,3% cổ phần tại
Sacombank và 8,5% cổ phần tại NHTMCP Việt Á. ACB không chỉ sở hữu cổ phần tại
Eximbank, mà còn sở hữu cổ phần tại nhiều NHTM Cổ phần khác như: 6,1% ở
NHTMCP Kiên Long (thông qua Công ty chứng khoán ACBS), 10,8% ở NHTMCP Đại
Á, 10% ở NHTMCP Việt Nam Thương Tín.…
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng còn tồn tại những quan hệ ràng buộc phức tạp về
mặt sở hữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công
ty này cũng nắm giữ cổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính đến ngày 17/5/2012, CTCK Sài
Gòn – Hà Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốn tại NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), đồng
thời, SHB sở hữu 8,22% vốn tại SHS.
Sở hữu chéo giữa các ngân hàng đã tạo nên một ma trận rắc rối và phức tạp, làm méo
mó và lệch lạc các dòng chảy tiền tệ trong nền kinh tế. Nói "méo mó" và "lệch lạc" là bởi,
có những cổ đông lớn của các ngân hàng chính là doanh nghiệp và rất có thể các doanh
nghiệp này biến ngân hàng thương mại trở thành sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để
tài trợ cho các dự án của mình. Có thể thấy rất rõ điều này qua điển hình vụ “bầu Kiên”
(Nguyễn Đức Kiên). Với vị trí là Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập và đại diện nhóm cổ
đông chiếm 9,03% vốn điều lệ, Nguyễn Đức Kiên đã đóng vai trò chỉ đạo, chi phối toàn
bộ hoạt động quản trị, điều hành Ngân hàng ACB.

Tuy nhiên, nói đến "ma trận sở hữu chéo" phải đi từ 6 công ty do bầu Kiên thành lập,
đồng thời là Chủ tịch HĐQT/Hội đồng thành viên: Công ty Cổ phần Phát triển sản xuất
và Xuất nhập khẩu Thiên Nam; CTCP Đầu tư Thương mại B&B; CTCP Tập đoàn Tài
chính Á Châu (AFG); CTCP Đầu tư ACB Hà Nội (ACBI); CTCP Đầu tư Á Châu (ACI)
và Công ty TNHH Đầu tư Á Châu Hà Nội (ACI-HN).
Trong đó, 5 công ty là B&B, AFG, ACBI, ACI, ACI-HN dù không có chức năng
nhưng đã được Nguyễn Đức Kiên sử dụng để kinh doanh tài chính gần 10.000 tỷ đồng
thông qua cách thức phát hành trái phiếu bán cho Ngân hàng ACB và một số ngân hàng
khác rồi lại dùng tiền này để đầu tư, mua cổ phần vào các công ty khác trong đó có nhiều
công ty của bầu Kiên.
Cụ thể, công ty B&B được bầu Kiên chỉ đạo sử dụng số tiền gần 2.350 tỷ đồng để
mua cổ phần và góp vốn vào một loạt công ty khác. Còn AFG dùng 4.068 tỷ đồng để mua
trái phiếu chuyển đổi của Ngân hàng ACB và góp vốn vào các công ty khác là Công ty
ACI, Công ty ACI-HN và Công ty ACBI.
15
Trong khi đó, ACBI dùng 1.433,392 tỷ đồng để góp vốn vào các công ty khác và mua
cổ phiếu Techcombank, Eximbank bất chấp việc không được cấp phép ngành nghề kinh
doanh tài chính. Ngoài ra, dưới sự chỉ đạo của bầu Kiên, một công ty khác là ACI-HN
cũng đã dùng 1.411,371 tỷ đồng để góp vốn vào các công ty khác và mua cổ phiếu Ngân
hàng ACB, DaiABank, VietBank, KienLongbank và Eximbank.
Tổng số tiền thiệt hại do Nguyễn Đức Kiên gây ra được xác định là 1.696 tỷ đồng,
chưa kể hơn 433 tỷ đồng tiền lỗ kinh doanh vàng của Công ty Thiên Nam đến nay chưa
trả được, theo Viện KSND tối cao.
16
Nguồn: Fulbright
17
18
2.2.2.6. Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân
Tình trạng sở hữu chéo không chỉ có giữa các NHTM nhà nước với các NHTM cổ
phần, mà còn sở hữu chéo giữa các NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước và tư nhân. Nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không
chuyên sâu về lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò là nhà sáng
lập, nhà đầu tư chiến lược tại các NHTM. Điều đáng lưu ý là, mặc dù các tập đoàn, tổng
công ty nắm giữ số lượng cổ phần tương đối lớn tại các NHTM cổ phần nhưng không
trực tiếp tham gia quản trị điều hành, có tình trạng buông lỏng quản lý vốn góp của Nhà
nước, trong khi đó vai trò quản trị điều hành và thâu tóm lại thuộc về nhóm lợi ích hoặc
một vài cá nhân.
Theo thống kê, hiện nay có khoảng 40 DNNN và tư nhân có sở hữu trên 5% vốn tại
các NHTMCP và các Doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính. Trong đó,
Tập đoàn Bảo Việt sở hữu 52% cổ phần của NHTMCP Bảo Việt; Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel) sở hữu 10%, Tổng công ty trực thăng Việt Nam sở hữu 7,2%, Tổng
công ty Tân cảng Sài Gòn sở hữu 5,7% cổ phần của NHTMCP Quân đội (MB); Tập đoàn
Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu 25,4% cổ phần của NHTMCP An Bình; Tập đoàn Than
khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Cao su Việt Nam đều sở hữu 9,3% cổ phần của
NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB); Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sở hữu 20%
cổ phần của NHTMCP Đại Dương; NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VN
(Agribank) sở hữu 15%, Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) sở hữu
12,5%, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) sở hữu 5,3% cổ phần của NHTMCP
Hàng Hải (Maritimebank). Ngoài ra, VNPT còn sở hữu 6,1% cổ phần của NHTMCP
Đông Nam Á, sở hữu 6% cổ phần của NHTMCP Bưu điện Liên Việt Ngoài ra, tình
trạng sở hữu chéo giữa các NHTM cổ phần với nhau diễn ra cũng khá phổ biến ở Việt
Nam. Điều này gây không ít khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản
lý kinh tế vĩ mô, nguy cơ bất ổn đối với thị trường tài chính Việt Nam.
19
2.3. Tác động của sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
Ở Việt Nam, hình thức sở hữu chéo được thừa nhận là khá phổ biến nhưng chưa có
một nghiên cứu khoa học nào để xác nhận cũng như chứng minh được thành quả từ mối
quan hệ sở hữu chéo này. Sở dĩ như vậy là vì mức độ sở hữu chéo ở Việt Nam rất khó
đánh giá. Nguyên do là không minh bạch thông tin và các kế sách lách luật sở hữu một
cách hợp pháp. Tuy nhiên, dựa trên những tác động của sở hữu chéo ở nước ngoài cũng

như tình hình thực tiễn tại Việt nam trong thời gian vừa qua có thể nhận ra sở hữu chéo
cũng mang lại cho Việt Nam những tác động tích cực lẫn tiêu cực.
2.3.1. Tác động tích cực
- Sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng có những tác động tích cực dễ dàng nhận ra
như giúp cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn, điều hòa
vốn nhanh chóng tại các ngân hàng.
- Sở hữu của Ngân hàng nhà nước trong các Ngân hàng thương mại giúp làm tăng
sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với những NHTM này, giảm thiểu tính rủi ro
trong các quyết định và ngăn ngừa hoạt động tiêu cực của các nhóm lợi ích khác trong
NHTM.
- Sở hữu của các Tổ chức tài chính nước ngoài trong NHTM, đặc biệt là với tư cách
cổ đông chiến lược sẽ giúp mở rộng quy mô, mở rộng thị trường của Ngân hàng, nâng
cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, chuyên nghiệp hơn trong quản trị.
- Sở hữu chéo giữa NHTM với DN góp phần làm tăng hiểu biết giữa Ngân hàng với
DN, đồng thời hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các DN, qua
đó nâng cao chất lượng của hoạt động kinh doanh thông qua sự hợp tác bổ trợ lẫn nhau.
2.3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực thì sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng dường
như đang ngày càng bộc lộ những ảnh hưởng tiêu cực với những hệ lụy khôn lường cả vi
mô lẫn vĩ mô.
Sở hữu chéo khiến các cơ quan chức năng khó giám sát và quản lý. Điển hình là tình
trạng các NHTM đã dùng sở hữu chéo để lách các quy định bảo đảm an toàn hoạt động
do Ngân hàng Nhà nước ban hành như:
• Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010, cũng như Thông tư 12/2010/TT-
NHNN, hoạt động đầu tư phải được tách bạch khỏi hoạt động của NHTM,
ngân hàng không được cấp tín dụng cho công ty có hoạt động kinh doanh
chứng khoán trực thuộc mình. Tuy nhiên, nhờ có sở hữu chéo mà thay vì cấp
20
tín dụng trực tiếp thì một Ngân hàng A có thể tác động Ngân hàng B (hoặc mua
trái phiếu của B) mà A đang sở hữu để Ngân hàng này cho vay hoặc mua trái

phiếu của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ của Ngân hàng A.
Việc này được xem là một rủi ro đạo đức rất lớn khi các NHTM đem tiền gửi
của khách hàng đi kinh doanh chứng khoán (một cách gián tiếp).
● Các quy định về vốn.
Theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP, vốn điều lệ thực góp của các
ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm
2010. Thông qua sở hữu chéo, cổ đông Ngân hàng A có thể vay tiền Ngân hàng
B để góp vốn vào Ngân hàng A và ngược lại, việc này được thực hiện theo một
thỏa thuận ngầm giữa hai bên. Khi đó, Ngân hàng A và Ngân hàng B sẽ có đủ
số vốn mình cần. Hoạt động đi vay này tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các
ngân hàng. Thực tế là nhiều ngân hàng đã thực hiện tăng vốn với một tốc độ
nhanh đáng ngạc nhiên, và để rồi sau khi hoàn thành được mức khoán 3.000 tỷ
của NHNN thì nhiều NHTM cỡ nhỏ đã rơi vào tình trạng khó khăn do năng lực
quản lý nguồn vốn hạn chế. Mặt khác, không ít lãnh đạo các ngân hàng đã tận
dụng doanh nghiệp “sân sau” để giúp tăng vốn. Khi đó doanh nghiệp có vốn
góp lớn của các ông chủ ngân hàng sẽ đứng ra phát hành trái phiếu kì hạn 3-5
năm. Sau đó, ngân hàng của các ông chủ trên sẽ bỏ tiền ra mua trái phiếu của
doanh nghiệp. Khi đã có tiền, doanh nghiệp này sẽ sử dụng vốn đó góp vào
đúng ngân hàng vừa bỏ tiền ra mua trái phiếu của mình để tăng vốn điều lệ.
Trên thực tế, việc tăng vốn ảo đã giúp không ít ông chủ ngân hàng cùng một
lúc sở hữu 2-3 ngân hàng và đẩy vốn vào lĩnh vực đầu tư bất động sản, dẫn đến
khó khăn về thanh khoản cho những ngân hàng nhỏ.
● Giới hạn tín dụng theo quy định hiện hành đã bị sở hữu chéo làm vô hiệu hoá.
Điều 128.1 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định tổng dư nợ cấp tín dụng
đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của NHTM.
Trường hợp cấp tín dụng cho các dự án Chính phủ chỉ dành cho các NHTMNN
là một điển hình. Do Chính phủ vừa là chủ sở hữu các DNNN đồng thời là cổ
đông chi phối tại các NHTMNN, nên khi cấp tín dụng cho một khách hàng
vượt mức 15% vốn tự có của mình, các NHTMNN sẽ xin phê duyệt của Chính
phủ và NHNN. Thêm vào đó, quy định về các trường hợp không được cấp tín

dụng, hoặc hạn chế cấp tín dụng theo Điều 126, Điều 127 Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 cũng bị “vô hiệu hóa”. Ví dụ như trường hợp của EVN,
Geleximco và ngân hàng TMCP An Bình. EVN và Geleximco là hai cổ đông
lớn của ngân hàng TMCP An Bình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 126 Luật
21
các tổ chức tín dụng năm 2010 thì Ngân hàng TMCP An Bình không được cấp
tín dụng cho 2 cổ đông trên. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP An Bình đã lách luật
bằng cách tài trợ cho 2 pháp nhân trên thông qua hình thức đầu tư trái phiếu.
● Các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của Ngân hàng Nhà
nước có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng không
trả được nợ, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo
quy định, Ngân hàng A có thể cho vay đảo nợ. Một doanh nghiệp X nợ Ngân
hàng A một khoản nợ tương đương với nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn),
Ngân hàng A thông qua Ngân hàng B (mà A sở hữu) cho vay gián tiếp doanh
nghiệp X để họ có tiền để trả cho món nợ xấu trước đó, như thế thì Ngân hàng
A sẽ giảm được mức nợ xấu trên sổ sách và không phải trích lập dự phòng.
Hành vi đảo nợ bị pháp luật nghiêm cấm triệt để nhưng với quy trình trên thì
pháp luật rất khó có thể kiểm soát được.
● Bên cạnh đó, nợ xấu gia tăng nhanh một cách chóng mặt nhưng đã bị nhiều
ngân hàng cố tình che giấu, thực tế là nợ xấu của hệ thống ngân hàng càng
cao thì sở hữu chéo ngân hàng càng chằng chịt. Theo NHNN, nợ xấu chiếm
khoảng 10% trong toàn hệ thống, tương đương với 258.000 tỉ đồng (khoảng 12
tỉ USD). Đây là một tỷ lệ rất cao và rủi ro. Nếu không giải quyết món nợ này,
các ngân hàng vẫn tiếp tục huy động, nhưng để nuôi nợ xấu chứ không thể cấp
vốn cho sản xuất.
Theo quy định, ngân hàng không được cho chính người sở hữu vay vốn nhưng
nhờ "sở hữu chéo" như nói trên, hầu hết các ngân hàng cổ phần đều cho chính
chủ của mình vay vốn thông qua việc cho công ty con, công ty trực thuộc, công
ty liên đới, công ty bạn, công ty của những công ty con vay. Vào thời điểm
kinh tế tăng trưởng thuận lợi, ai cũng có tiền để quay vòng thì mọi chuyện đều

ổn. Nhưng vào lúc kinh tế gặp khó khăn như mấy năm gần đây, nhiều khoản
vay này trở thành nợ xấu khi "sân sau" gặp khó khăn không thể trả; thậm chí
nhiều khoản nợ xấu, ngân hàng cũng không ráo riết thu hồi vì "người nhà vay".
Ước tính của chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu
6
, khoản nợ xấu từ các "sân
sau" này chiếm không dưới 25% trong tổng nợ xấu của toàn hệ thống ngân
hàng, tương đương giá trị 65.000 tỉ đồng.
6 Người thành lập Ngân Hàng First Vietnamese-American Bank, Ngân Hàng người Việt đầu tiên tại Mỹ.
22
Với bản chất "sở hữu chéo" này, nếu xử lý nợ xấu theo cách mà chúng ta đang
đưa ra hiện nay (giãn nợ, gia hạn nợ, mua nợ xấu cho toàn hệ thống ngân hàng)
sẽ dẫn đến tình trạng tiền thuế của dân được sử dụng để "cứu" các ông chủ
ngân hàng các nhóm lợi ích.
● Sở hữu chéo cũng làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng, vì
rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có, trong khi đó lại là vốn ảo. Việc che giấu
nợ xấu và tăng vốn ảo có thể khiến cho “Đề án tái cơ cấu hệ thống Ngân
hàng”
7
của Chính phủ bị sai mục đích do không hướng tới đúng đối tượng cần
tác động. Nhiều ngân hàng thuộc khu vực ngoài quốc doanh bị lũng đoạn bởi
các thế lực tài chính. Hoạt động cho vay sân sau đầy rủi ro đã làm thất thoát
một lượng lớn vốn đầu tư xã hội vào những dự án kém chất lượng.
Có thể thấy các rủi ro trong thị trường tài chính đến từ sở hữu chéo là rất nguy
hiểm, vì chúng mang tính hệ thống nên một khi bùng phát thành khủng hoảng
thì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng mà sẽ lây lan ra toàn hệ
thống và nền kinh tế. Hậu quả khi đó sẽ vô cùng khủng khiếp.
● Khi các ngân hàng sở hữu cổ phần của nhau, sẽ tạo thành một mạng lưới mà
từ đó dễ nảy sinh độc quyền nhóm. Liên minh ngân hàng này có thể đủ sức
mạnh để chi phối lãi suất, tỷ giá và kể cả chính sách. Điều này có thể gây xáo

trộn trên thị trường và thiệt hại cho nền kinh tế.
● Bằng sở hữu chéo, một cá nhân, một nhóm lợi ích có thể biến số vốn nhỏ ban
đầu nhân lên gấp nhiều lần, đủ để thâu tóm ngân hàng, gây bất ổn thị trường.
Cụ thể, cùng quản lý danh mục nhưng công ty quản lý quỹ và công ty chứng
khoán không được mang cổ phiếu (CP) đi cầm cố thì các công ty sản xuất kinh
doanh, công ty đầu tư tài chính lại thoải mái làm việc này. Một cách làm có thể
được phác họa như sau: Công ty đầu tư tài chính có vốn 500 tỷ đồng đi mua
50% cổ phần công ty A rồi mang số CP này đi thế chấp được 450 tỷ đồng.
Mang 450 tỷ đồng mua cổ phần công ty B. Nếu 450 tỷ đồng không đủ, sẽ kêu
thêm công ty A tham gia để mua ít nhất từ 50% cổ phần và chi phối công ty B.
Cầm CP của B đi thế chấp, lấy 400 tỷ đồng để mua công ty C. Tiền không đủ
7 Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015" (Ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày
01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ) - www.sbv.gov.vn.
23
thì kêu A, B tham gia mua vì cả hai công ty này đã bị chi phối. Rồi lại thế chấp
lấy 300 tỷ đồng và kêu A, B, C cùng hợp lực thâu tóm ngân hàng. Khi đã thâu
tóm xong, công ty tài chính ban đầu sẽ lấy tiền từ ngân hàng rót cho các công
ty con của mình.
24
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TIÊU CỰC CỦA SỞ HỮU
CHÉO TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG.
3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về giải quyết vấn đề tiêu cực của
sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng
Những kết quả nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy sở hữu chéo có ở hầu hết các
hệ thống tài chính trên thế giới với quy mô, mức độ phức tạp và biện pháp quản lý, kiểm
soát khác nhau. Và với khu vực đặc biệt như hệ thống ngân hàng thì sở hữu chéo thậm chí
còn là một mối đe dọa nguy hiểm đối với cạnh tranh trong phạm vi thị trường tín dụng
trong nước với nhiều lý do như sở hữu chéo có thể gây cản trở đến năng lực cạnh tranh
và vì vậy tác động không nhỏ đến sự phân bổ quyền sở hữu tài sản; hoặc sở hữu chéo
trong nhiều trường hợp có liên quan rất lớn đến những người sáng lập chính của ngân

hàng mà vì nhiều lý do không thể đảm bảo quản trị ngân hàng hiệu quả. Vì vậy, cần thiết
phải hạn chế tình trạng sở hữu chéo để tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp
phần nâng cao hiệu quả của quá trình tái cấu trúc khu vực ngân hàng. Các quốc gia trên
thế giới đã có những giải pháp hạn chế tiêu cực của sở hữu chéo khác nhau để phù hợp
với đặc điểm nền kinh tế của mình.
- Về vấn đề sở hữu chéo của các ngân hàng tại Nhật Bản – một cường quốc kinh tế,
từ 1/4/2000, họ đã áp dụng chế độ hạch toán kế toán theo giá thị trường đối với hàng hóa
tài chính thay thế chế độ hạch toán theo nguyên giá. Kết quả là các NHTM và công ty sở
hữu chéo cổ phần bị rơi vào tình trạng thua lỗ do định giá cổ phần sở hữu chéo theo giá
thị trường. Các chủ thể này đã nhận thức được sở hữu chéo là tác nhân gây ra tăng trưởng
lợi nhuận âm và từng bước điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần chéo. Từ năm 2000, nhiều
NHTM và các công ty đã bán tháo số lượng lớn cổ phần khiến hàng loạt cổ phiếu sụt giá.
Tình trạng này đã tạo ra áp lực đối với thị trường chứng khoán và xã hội nói chung.
Trong bối cảnh đó, năm 2001, Nhật Bản ban hành Luật Hạn chế Ngân hàng sở hữu
cổ phần. Luật này quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức mua cổ phần sở hữu của
NHTM, ngân hàng tín dụng dài hạn, quỹ nông lâm trung ương, liên minh quỹ tín dụng.
Như vậy, sở hữu chéo cổ phần vẫn được duy trì ở Nhật Bản nhưng pháp luật nước này
đã đặt ra khá nhiều quy định chặt chẽ để hạn chế những bất cập của chúng.
- Ở Đức, tuy không có cấm sở hữu chéo, nhưng quyền biểu quyết được giới hạn
25% và bị cấm quyền biểu quyết trong trường hợp quan hệ giữa hai công ty là mẹ - con.
25

×