Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Địa vị pháp lý của ngân hàng trung ương trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.33 KB, 22 trang )

Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) ở bất kỳ quốc gia nào đều có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát và sự an toàn của hệ
thống ngân hàng. Kinh nghiệm từ khủng hoảng tài chính của nhiều nước trên thế giới
trong giai đoạn vừa qua (đặc biệt là Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản) đã cho thấy
vai trò “người dẫn đường” đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế của một quốc gia
của NHTW. Nhờ có NHTW với thẩm quyền của mình trong việc xây dựng, thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia (CSTTQG) và với tư cách là “ngân hàng mẹ của hệ thống ngân
hàng” mà nhiều ngân hàng đã được giải cứu, thoát khỏi tình trạng phá sản và duy trì được
tính thanh khoản cho toàn hệ thống tài chính. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về NHTW
ở một số nước để có những kinh nghiệm, gợi ý cho Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật về
NHTW là rất hữu ích, nhằm nâng cao vị thế của NHTW ở Việt Nam theo mô hình
NHTW hiện đại. Vì thế, chúng tôi đã lựa chọn nghiêm cứu về NHTW Trung Quốc.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu địa vị pháp lý của ngân hàng trung ương Trung
Quốc. Tìm hiểu về lịch sử hình thành của ngân hàng trung ương nói chung và ngân hàng
trung ương Trung Quốc nói riêng. Bên cạnh đó còn phân tích về chức năng nhiệm vụ
quyền hạn của NHTW Trung Quốc.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để tại được thực hiện thông qua việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
các quy định của pháp luật trong việc quản lý hệ thống ngân hàng cũng như quy định về
NHTW của Trung Quốc.
4. Mục đích nghiên cứu.
Để hiểu rõ hơn,cụ thể hơn về địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc và từ đó có
được những điểm mới để cải cách thay đổi hệ thống ngân hàng ở Việt Nam cho phù hợp
với thời đại.
1
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRÊN THẾ
GIỚI.
1.1. Lịch sử ra đời.
Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở Châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi
ấy, tiền mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh
toán (promises to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở
cả Châu Âu và Châu Á. Ngược lại 500 năm trước đấy, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền (Knight
Templar) thời Trung Cổ sử dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân
hàng trung ương. Các giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và
nhiều người cho rằng các hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống ngân hàng hiện
đại. Cùng thời gian đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử
dụng loại tiền này bằng bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden) năm
1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of England) ra
đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William Paterson
tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội chiến lúc
đó. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội tại đạo luật
mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill). Tổng thống Woodrow
Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Từ đầu thế kỷ XX, các ngân hàng trung ương đã hình thành tuy nhiên các ngân
hàng này vẫn thuộc sở hữu tư nhân, sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 thì mới trở thành
ngân hàng sở hữu của nhà nước.
1.2. Khái niệm
Trường phái thứ nhất – tạm gọi là Trường phái Ngân hàng – coi ngân hàng trung
ương (NHTW) là “ngân hàng của các ngân hàng”. Các khách hàng của NHTW là bản
thân các ngân hàng – và NHTW là nơi các ngân hàng có thể vay tiền khi họ cần. Các
chức năng khác của NHTW bao gồm hỗ trợ hệ thống ngân hàng nhằm làm cho các ngân
hàng có thể đạt được mức lợi nhuận hợp lý. Quan trọng hơn cả là NHTW phải đảm bảo
đươc lượng cung tiền đủ lớn để tình trạng mất thanh khoản đơn thuần không khiến các
ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản.

Trường phái thứ hai: được gọi là Trường phái Kinh tế vĩ mô cho rằng các NHTW là
“quản gia” của toàn bộ nền kinh tế. Nhiệm vụ chính của NHTW là tuân thủ và hỗ trợ
thực thi Quy luật Say trên thực tế (quy luật mang tên nhà kinh tế Pháp Jean-Baptiste Say)
mà nội dung chính là sản lượng được cân bằng bởi cầu. Nói cách khác, trách nhiệm chính
2
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
của một NHTW không phải là duy trì sức khỏe các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực ngân hàng mà là duy trì tình trạng hoạt động lành mạnh của toàn bộ nền kinh tế.
1.3. Chức năng
Ngân hàng trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền
tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng của chính phủ,quản lí nhà nước về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng trung ương nào cũng
mang đầy đủ ba chức năng này.
1.3.1. Phát hành tiền tệ:
Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát
hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát
hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát
hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức năng phát
hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho
rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên
Bang phát hành.Nhưng hiện nay đã có rất nhiều cuộc nghiên cứu, và họ đã phát hiện ra
thực chất Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ mới có quyền phát hành tiền tệ, Chính phủ Mỹ
không có quyền này. Điều đó đồng nghĩa với việc họ nắm toàn quyền trong việc xây
dựng và thực hiện cách chính sách tiền tệ, từ đó thao túng nền tài chính toàn cầu. Tệ hại
hơn đó lại là ngân hàng của tư nhân vì cổ phần của họ chiếm đại đa số, thành viên Hội
Đồng Quản Trị được Quốc Hội và Chính phủ bổ nhiệm cũng dưới quyền của Ban cố vấn
(do Hội đồng cổ đông bổ nhiệm). ./
1.3.2. Ngân hàng của các ngân hàng:
Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với
các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua

đây kiểm soát lãi suất).
Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết
lượng vốn trên thị trường.
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài khoản
tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định.
Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi
vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ
thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng
đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay
người cho vay cứu cánh).
3
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
1.3.3. Ngân hàng của Chính phủ:
Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính phủ.
Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên,
ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chính phủ khi can thiệp vào thị trường
ngoại hối .
1.4. Phân loại
1.4.1 Ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội và độc lập với Chính phủ
Theo mô hình này, NHTW không nằm trong cơ cấu bộ máy của Chính phủ, không
chịu sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ. Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt
động của NHTW mặc dù ban lãnh đạo của ngân hàng do Tổng thống hay Thủ tướng bổ
nhiệm. Chính quyền không được phế truất thống đốc. Điển hình cho mô hình này là
NHTW ở các nước như Hoa Kỳ, Đức, Nga.
Việc quy định NHTW độc lập với Chính phủ bởi NHTW là cơ quan quản lý, điều
tiết tiền tệ và phát hành tiền, hoạt động của nó tác động trực tiếp tới sự phát triển của nền
kinh tế, nếu xác định vị trí pháp lý của nó thuộc Chính phủ thì không có gì bảo đảm rằng
mọi quyết sách của Chính phủ về tiền tệ sẽ phù hợp với chủ trương, giải pháp của NHTW

và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thị trường tiền tệ. Hơn nữa, nếu NHTW thuộc
Chính phủ khi có thâm hụt tài chính ngân sách, việc phát hành tiền quá giới hạn và không
phụ thuộc vào quy luật lưu thông tiền tệ dễ xảy ra, gây ra tình trạng lạm phát, ảnh hưởng
tới sự phát triển của nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, việc trao cho NHTW vị trí pháp lý độc lập là vô cùng cần thiết, là yếu tố
then chốt để đảm bảo tính hiệu quả trong điều hành CSTTQG ở mỗi nước.
Có thể nói, mô hình NHTW trực thuộc Quốc hội thường được thiết lập ở những
nước có nền kinh tế phát triển và CSTTQG được coi là động lực của mọi sự phát triển.
Để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động quản lý của NHTW thì ngân hàng này phải có
vị trí pháp lý độc lập, tức là mối quan hệ giữa NHTW với Quốc hội và Chính phủ phải
được làm rõ và tính độc lập, tự chủ phải được đề cao. Trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, Ban lãnh đạo NHTW có quyền tự quyết, chứ không phải là
quyết định của Quốc hội hay Chính phủ. Vị thế này được thể hiện rõ nét nhất trong việc
xây dựng và thực hiện CSTTQG. Đây là một trong những nhân tố quyết định sự thành
công của hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô.
1.4.2. Ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ
Theo mô hình này, NHTW nằm trong cơ cấu bộ máy của Chính phủ, chịu sự điều
hành trực tiếp của Chính phủ. Chính phủ có quyền can thiệp rất lớn, không chỉ trên
phương diện tổ chức, điều hành mà còn trong hoạt động thực hiện CSTTQG. NHTW
4
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
được ví như công cụ của Chính phủ trong việc điều tiết giá trị đồng tiền và huy động các
nguồn tài chính trong nền kinh tế. Mô hình này được xác định dựa trên cơ sở: Chính phủ
là cơ quan hành pháp, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Do đó,
Chính phủ phải nắm trong tay các công cụ kinh tế vĩ mô để sử dụng nó một cách đồng bộ
và phối hợp các công cụ nhằm vận hành nền kinh tế trôi chảy và hiệu quả, cũng là để
thực thi tốt nhiệm vụ của mình, mà thực chất là Chính phủ nắm NHTW và thông qua
NHTW tác động đến CSTTQG. Tiêu biểu cho mô hình này là NHTW ở một số nước
châu Á như Trung Quốc, Việt Nam…
1.4.3. Ngân hàng trung ương trực thuộc Bộ Tài chính

Đây là mô hình ít phổ biến, bởi lẽ hoạt động của NHTW phụ thuộc vào Bộ Tài
chính, dễ xảy ra khả năng sử dụng công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách,
gây ra tình trạng lạm phát cao trong nền kinh tế, ảnh hưởng trầm trọng tới đời sống của
nhân dân. Mô hình này đã tạo ra mâu thuẫn giữa một cơ quan thực hiện nhiệm vụ ngân
sách với một cơ quan phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng. Mô hình đã từng
được áp dụng ở một số nước như Pháp, Anh, Malaysia… tuy nhiên, đến thời điểm hiện
nay nó đã không còn tồn tại do những bất cập của nó.
Vậy, hiện nay mô hình tổ chức NHTW trên thế giới chỉ còn được thể hiện dưới dạng
thứ nhất và thứ hai. Mỗi mô hình đều có ưu điểm và hạn chế nhất định. Với mô hình
NHTW độc lập với Chính phủ, NHTW có toàn quyền xây dựng và thực thi CSTTQG mà
không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hay áp lực chính trị khác, trên
cơ sở đó có thể tăng hiệu quả của mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giảm
thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính. Song bên cạnh đó, mô hình này cũng
có điểm bất lợi ở chỗ khó có sự kết hợp hài hòa giữa CSTTQG (do NHTW thực hiện) và
chính sách tài khóa (do Chính phủ chỉ đạo) để quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách hiệu
quả. Tuy nhiên, có thể khẳng định đây là mô hình tổ chức hiện đại, phù hợp với vai trò
của NHTW trong nền kinh tế thị trường.
Ngược lại, mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ có ưu điểm nổi trội là Chính phủ
có thể dễ dàng chỉ đạo và yêu cầu NHTW phối hợp CSTTQG với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả của tổng thể các chính sách kinh tế
tài chính đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù
hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng, xây dựng kinh tế trong
thời kỳ tiền phát triển. Tuy nhiên, mô hình cũng có hạn chế nhất định, NHTW sẽ mất đi
sự chủ động trong việc thực hiện CSTTQG. Việc xây dựng và thực thi CSTTQG có sự
can thiệp chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Sự phụ thuộc vào
Chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền
tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, mô hình này có thể biến NHTW thành nơi
phát hành tiền để bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước khiến cho hoạt động phát hành
5
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc

tiền không tuân thủ nguyên tắc và có thể dẫn đến lạm phátchuyển về Bắc Kinh năm 1949.
Trong thời gian từ 1949 đến 1978, nó là ngân hàng duy nhất của toàn Trung Quốc và đảm
đương vai trò ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại.
6
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
CHƯƠNG 2 NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRUNG QUỐC
2.1. Lịch sử ra đời của ngân hàng trung ương Trung Quốc.
Ngân hàng này thành lập ngày 11 tháng 12 năm 1948 trên cơ sở hợp nhất các ngân
hàng Hoa Bắc, ngân hàng Bắc Hải và ngân hàng nông dân Tây Bắc. Trụ sở ban đầu đặt
tại Thạch Gia Trang, tỉnh Hồ Bắc, sau đó chuyển về Bắc Kinh 1949. Trong thời gian từ
1949 đến 1978, nó là ngân hàng duy nhất của toàn Trung Quốc và đảm đương vai trò
ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại.
Vào thập niên 1980, các chức năng ngân hàng thương mại được tách ra hình thành
bốn ngân hàng quốc doanh. Năm 1983, Chính phủ Trung Quốc thông báo rằng Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện vai trò ngân hàng trung ương của Trung Quốc.
Tư cách này được xác nhận ngày 18 tháng 3 năm 1995 tại phiên họp toàn thể thứ 3
của Quốc hội Trung Quốc. Năm 1998, ngân hàng tiến hành tái cấu trúc cơ bản. Tất cả các
chi nhánh địa phương và cấp tỉnh đều bãi bỏ, Ngân hàng trung ương Trung Quốc mở 9
chi nhánh khu vực, địa giới từng chi nhánh không theo địa giới hành chính. Năm 2003,
Ủy ban thường vụ Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn một đạo luật sửa đổi nhằm tăng
cường vai trò của ngân hàng này trong việc đề ra và thực hiện chính sách tiền tệ với mục
đích bảo vệ sự ổn định tài chính quốc gia và thiết lập các dịch vụ tài chính.
2.2. Khái niệm.
Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi, bổ sung năm
2003 quy định: “Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là NHTW của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc
hoạch định và thực thi CSTTQG, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tài chính và duy trì sự ổn
đinh tài chính” (Điều 2); “Toàn bộ vốn của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc do nhà
nước cấp và thuộc sở hữu của nhà nước” (Điều 8). Như vậy, Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc là cơ quan của Chính phủ và thuộc sở hữu nhà nước

2.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
2.3.1. Chức năng.
Một số chức năng quan trọng của ngân hàng nhân dân Trung Quốc:
- Phát hành tiền: tiền giấy và tiền xu.
Ngân hàng Trung Ương Trung Quốc là cơ quan duy nhất của quốc gia, có chức
năng phát hành tiền. Mục tiêu cơ bản của hoạt động này là đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu
cầu về phương tiện thanh toán, làm sao cho tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ, đồng
thời góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ổn định sức mua của đồng tiền
- Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng.
7
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
Thực hiện chính sách tiền tệ,PBOC sử dụng các công cụ: (1) Dự trữ bắt buộc, (2)
Thị trường mở; (3) Tái chiết khấu; (4) Tái cấp vốn; (5) Lãi suất; (6) Tỷ giá
- Là ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc là hệ thống hai cấp,cấp một là ngân hàng trung
ương thực hiện chức năng quản lý các ngân hàng khác, còn các ngân hàng khác thực hiện
chức năng thương mại nên nó là ngân hàng mẹ của các ngân hàng.Vì theo hệ thống ngân
hàng trung ương trực thuộc Chính Phủ nên nó chịu sự quản lý trực tiếp của Chính Phủ và
thực hiện các nhiệm vụ Chính Phủ đề ra.
- Quản lý hệ thống tài chính ngân hàng của quốc gia quản lý các định chế tài
chính của nước này nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, thống nhất hệ thống ngân
hàng.
- Giám sát các hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo các ngân hàng thực hiện
đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, và kịp thời phát hiện vi phạm để xử

- Phân tích các tham số kinh tế của đất nước.
2.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn.
Tùy theo những hoạt động khác nhau mà có những nhiệm vụ, quyền hạn tương
ứng.
-Trong hoạt động phát hành tiền tệ và thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng

Trung ương Trung Quốc có nhiệm vụ báo cáo Chính Phủ quyết định của mình
liên quan đến cung cấp hàng năm tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái và các vấn đề
quan trọng khác theo quy định của Chính Phủ chấp thuận trước khi thực hiện
(Điều 5 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi, bổ
sung năm 2003).
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có thể, thực hiện và đưa vào các quyết định có
hiệu lực ngay lập tức về các vấn đề chính sách tiền tệ khác ngoài quy định tại khoản trên,
miễn là nó báo cáo cho Chính Phủ.
Tại Điều 6 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phải gửi báo cáo công việc với Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc về chính sách và hoạt động của ngành tài
chính tiền tệ.
Tại Điều 7 của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc sẽ, dưới sự lãnh đạo của Hội
đồng Nhà nước, độc lập thực hiện chính sách tiền tệ, thực hiện chức năng của mình và
thực hiện các hoạt động kinh doanh theo pháp luật và được miễn phí từ sự can thiệp của
chính quyền địa phương, cơ quan chính phủ ở các cấp độ khác nhau, không chính phủ tổ
chức, cá nhân.
8
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
-Trong việc giám sát các hoạt động ngân hàng Ngân hàng Trung Ướng Trung
tiến hành giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức tài chính, các tổ chức
khác và cá nhân sau đây: (Điều 6 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm
1995, được sửa đổi, bổ sung năm 2003)
(1) Tuân thủ các quy tắc pháp lý về dự trữ bắt buộc;
(2) Các hoạt động liên quan đến cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhân dân Trung
Hoa;
(3) Tuân thủ các quy định pháp quy về đồng nhân dân tệ;
(4) Tuân thủ các quy tắc pháp lý trên thị trường cho vay liên ngân hàng và thị
trường trái phiếu liên ngân hàng;
(5) Phù hợp với quy định ngoại hối;
(6) Tuân thủ các quy tắc pháp lý về vàng;

(7) hành động như đại lý tài chính thay mặt cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc;
(8) Tuân thủ các quy định thanh toán bù trừ và thanh toán; và
(9) Tuân thủ các quy định chống rửa tiền.
Nói trên cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đề cập đến các khoản
vay của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, sau khi được Hội đồng Nhà nước, các tổ chức
tài chính cho mục đích sử dụng theo quy định.
Tại Điều 33 Khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thấy cần thiết cho việc thực
hiện chính sách tiền tệ và duy trì sự ổn định tài chính, cơ quan quản lý ngân hàng thuộc
Hội đồng Nhà nước có thể yêu cầu tiến hành kiểm tra giám sát ngân hàng trên tổ chức tài
chính. Cơ quan quản lý ngân hàng phải trả lời trong vòng 30 ngày sau khi nhận được yêu
cầu như vậy.
Tại Điều 34 Trường hợp tổ chức tài chính ngân hàng gặp khó khăn thanh toán có
thể gây ra rủi ro tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có thể, với sự chấp thuận
của Hội đồng Nhà nước, tiến hành kiểm tra, giám sát các tổ chức như vậy để duy trì sự ổn
định tài chính.
Tại Điều 35 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có thể yêu cầu tổ chức tài chính
ngân hàng để nộp bảng cân đối, báo cáo thu nhập và báo cáo tài chính khác, và số liệu
thống kê và thông tin khi cần thiết để thực hiện chức năng của mình.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc sẽ thiết lập một hệ thống chia sẻ cùng với các cơ quan
quản lý ngân hàng và cơ quan giám sát tài chính khác thuộc Hội đồng Nhà nước thông tin
giám sát.
Tại Điều 36 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc chịu trách nhiệm biên soạn số liệu
thống kê và báo cáo hợp nhất của ngành công nghiệp tài chính và tiết lộ chúng cho công
chúng theo quy định có liên quan của Nhà nước.
9
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
Tại Điều 37 Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc sẽ thiết lập và cải thiện kiểm toán
nội bộ và hệ thống kiểm tra và tăng cường kiểm soát nội bộ của mình.
2.4. Cơ cấu tổ chức và lãnh đạo điều hành NH
Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi, bổ sung năm

2003 quy định từ điều 10 đến điều 15.
2.4.1. Mô hình hoạt động
Tư vấn
2.4.2. Cơ cấu tổ chức
- Cơ quan quản lý cao nhất của PBOC là Ban lãnh đạo, được cơ cấu gồm Thống
đốc, một số Phó Thống đốc và tương đương. Thống đốc PBOC được Thủ
tuwongs Quốc Vụ Viện đề cử, Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước ra quyết
10
CHÍNH PHỦ
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRUNG
QUỐC
MPC
(Ủy ban chính sách tiền tệ)
BAN LÃNH ĐẠO
THỐNG ĐỐC
TRỢ LÝ THỐNG ĐỐC PHÓ THỐNG ĐỐC
18 VỤ, CỤC CHỨC
NĂNG
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
định bổ nhiệm,miễn nhiệm. Các Phó Thống đốc và tương dương do Thủ tướng
Quốc Vụ Viện bổ nhiệm, miễn nhiệm trên cở sở đề nghị của Thống đốc PBOC.
- Thống đốc chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được
giao, điều hành mọi hoạt động của PBOC; giúp việc Thống đốc là các Phó
Thống đốc và Trợ lý Thống đốc
- Tư vấn cho Ban lãnh đạo PBOC trong việc hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ là Uỷ ban chính sách tiền tệ (MPC), mà nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và quy
chế làm việc của nó sẽ do Quốc Vụ Viện quy định sau khi báo cáo lên Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội. MPC đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh
tế vĩ mô trong việc lập, điều chỉnh chính sách tiền tệ quốc gia
- Trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của MPC là đưa ra các khuyến nghị về

việc:hoạch định, điều chỉnh chính sách tiền tệ và các mục tiêu chính sách cho
từng giai đoạn cụ thể; lựa chọn áp dụng các công cụ chính sách tiền tệ, các giải
pháp chính sách tiền tệ chủ yếu; và phối hợp giữa chính sách tiền tệ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô mà Chính Phủ
đặt ra.
- Cơ cấu MPC gồm 13 thành viên là Thống đốc PBOC - Chủ tịch Hội đồng, hai
Phó Thống đốc PBOC, Phó Tổng Thư ký Quốc Vụ Viện, Thứ trưởng Uỷ ban cải
cách và phát triển nhà nước, Thứ trưởng Bộ Tài chính, Cục trưởng Cục Ngoại
hối Nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban quản lý và giám sát Ngân hàng Ttrung Quốc,
Chủ tịch Uỷ ban quản lý và giám sát chứng khoán, Chủ tịch Uỷ ban quản lý và
giám sát bảo hiểm Trung Quốc, Uỷ viên Cục Thống kê Quốc gia, Chủ tịch hiệp
hội ngân hàng Trung Quốc và một chuyên gia đến từ một viện nghiên cứu hay
một trường đại học thích hợp nào đó.
- MPC thực thi nhiệm vụ của mình thông qua các phiên họp hàng quý hay đột
xuất. Các ý kiến mà thành viên MPC đưa ra trong các phiên họp được ghi lại
dưới dạng các “biên bản cuộc họp”. Những biên bản như vậy hay bất cứ ý kiến
tư vấn chính sách nào nếu được trên 2/3 số thành viên MPC chấp thuận, sẽ được
đính kèm như một tài liệu tham chiếu với các dự thảo quyết định của PBOC về
cung ứng tiền hàng năm, về lãi suất, tỷ giá, và về các vấn đề quan trọng khác liên
quan tới chính sách tiền tệ để đệ trình lên Quốc vụ viện xem xét , phê chuẩn.
- Có 18 vụ, cục chức năng đóng tại trụ sở chính, với tổng số nhân sự trên 600
người( bình quân mỗi đơn vị có khoảng 30-40 người; tất cả số này đã và sẽ được
phổ cập trình độ thạc sĩ), gồm:
(1) Văn phòng
(2) Vụ pháp chế
(3) Vụ chính sách tiền tệ
(4) Vụ thị trường tài chính
(5) Cục ổn định tài chính
11
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc

(6) Khảo sát và thống kê tài chính
(7) Kế toán và ngân quỹ
(8) Hệ thống thanh toán
(9) Công nghệ ngân hàng
(10)Cục Tiền tệ và ngân kim
(11) Cục Kho bạc nhà nước
(12)Quốc tế
(13)Kiểm toán nội bộ
(14)Nhân sự
(15)Cục nghiên cứu
(16)Cục hệ thống thông tin tín dụng
(17)Cục chống rửa tiền
(18)Đào tạo
- Ba trong số các đơn vị đề cập ở trên là: Cục chống rủa tiền, cục tiền tệ và ngân
kim, và cục ngoại hối nhà nước, do chức năng nhiệm vụ có phần còn chồng chéo
nhau, nên đang được tiếp tục xem xét, sắp xếp lại theo hướng thu gọn hơn đầu
mối.
- Ngân hàng nhân dân Trung quốc có 9 chi nhánh khu vực ở Thiên Tân, Thẩm
Dương, Thượng hải, Nam Kinh , Tế Nam, Vũ Hán, Quảng Châu, Thành Đô và
Tây An, 2 trụ sở điều hành ở Bắc Kinh và Trùng Khánh, 303 chi nhánh thứ cấp
cấp thành phố và 1809 chi nhánh thứ cấp cấp huyện, khu.
Ngoài ra, trực thuộc PBOC còn 1 số doanh nghiệp tổ chức công như: trung tâm
thanh toán bù trừ quốc gia Trung quốc, công ty xử lý dữ liệu tài chính Trung
quốc, hệ thống giao dịch ngoại hối Trung quốc, nhà máy in tiền trung quốc,
trường giáo dục PBOC, nhà xuất bản tài chính Trung quốc, tin tức tài chính . Và
6 văn phòng đại diện đặt tại các trung tâm tài chính quốc tế.
2.5. Những nhận xét đánh giá đối với PBOC
PBOC quyết định thành lập mạng lưới chi nhánh khu vực và các sở giao dịch đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của các vụ, cục tại trụ sở chính, thay thế cho số các
chi nhánh các tỉnh, thành phố có trước đây . Việc làm này xuất phát từ hai lý do chủ yếu

là :
12
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
_ Tăng cường tính tập trung thống nhất trong chỉ đạo diều hành của NHTW bởi
môi trường hoạt động đã thay đổi cơ bản.
_ Tránh sự cang thiệp chính trị thái quá của các cấp chính quyền địa phương vào
hoạt động ngân hàng.
Việc tách bỏ chức năng giám sát NH (theo nghĩa rộng) chủ yếu do sự xung đột
tiềm tang về lợi ích giữa chính sách tiền tệ và chức năng điều tiết, giám sát NH. Hơn nữa,
lý thuyết NHTW hiện đại chỉ ra rằng: sứ mệnh trọng yếu của các NHTW ngày nay là
đảm bảo sự ổn định giá trị đồng tiền, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Do
vậy, theo khuynh hướng chung trên thới giới, nay PBOC chủ yếu tập trung mọi nguồn lực
của mình vào việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. việc thực hiện chức năng
“bảo vệ sự ổn định của nển tài chính quốc gia”, sẽ do cục ổn định tài chính thuộc bộ máy
hoạt động nghiệp vụ tại Trụ sở chính ( được thành lập mới) đảm nhiệm.
Hoạt động thanh toán ( cả bằng tiền mặc và không dùng tiền mặc) được PBOC hết
sức chú trọng, và vẫn tiếp tục được quản lý rất chặc chẽ. Mới đây, Vụ Hệ thống thanh
toán đã được tách ra khỏi Vụ công nghệ và thanh toán, và được tăng cường, củng cố để
có đủ khả năng thực thi nhiệm vụ “ đảm bảo sự vận hành an toàn và hiệu quả của các hệ
thống thanh toán”.
2.6. Hoạt động của NHTW Trung Quốc
Tại Điều 4 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi, bổ sung
năm 2003 quy định Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thực hiện các chức năng sau:
_ Ban hành nghị định, quy tắc và các quy định có liên quan đến việc thực hiện
chức năng của mình cũng như điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động
ngân hàng.
_ Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ theo quy định của pháp luật;
Chính sách tiền tệ là tổng thể các biện pháp, công cụ của ngân hàng trung ương
nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế. Nó nhằm ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảm quốc

phòng an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân.Chính sách tiền tệ biến đổi phụ thuộc vào
tình hình kinh tế.Khi tình hình kinh tế suy thoái thì cần có chính sách nới rộng tiền tệ,
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất bằng cách cung ứng tiền vào lưu thông, hỗ trợ
bằng tỷ giá. Ngược lại khi nền kinh tế đang có dấu hiệu lạm phát thì cần phải thắt chặt
chính sách tiền tệ để kiềm chế sự gia tăng quá nhanh giá trị làm mất giá trị đồng tiền.
_ Phát hành tiền tệ và quản lý lưu thông của nó;
Phát hành tiền là việc cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh
toán.Tiền do ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán không hạn chế
trên lãnh thổ quốc gia, là tiền hợp pháp dùng để thanh toán cho mọi khoản nợ của Chính
Phủ hay tư nhân.
13
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
Phát hành tiền là chức năng độc quyền của ngân hàng trung ương, đặt dưới sự
quản lý của nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ. Nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ dễ
dẫn đến tình trạng lạm phát.
_ Quy định và giám sát thị trường cho vay liên ngân hàng và thị trường trái phiếu
liên ngân hàng;
_ Thực hiện quản lý ngoại hối, điều tiết và giám sát liên ngân hàng thị trường
ngoại hối;
Ngoại hối là tiền, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh
toán bằng tiền nước ngoài. Ngân hàng trung ương thực hiện điều tiết ngoại tệ nhằm tận
dụng đến mức tối đa lượng ngoại tệ ở các kênh tài chính khác nhau. Ngân hàng trung
ương thực hiện quản lý các hoạt động ngoại hối gồm các hoạt động đầu tư, kinh doanh,
mua bán ngoại hối bằng phương pháp mệnh lệnh hành chính vì mục tiêu chính sách tiền
tệ quốc gia.
_ Quy định và giám sát thị trường vàng;
_ Tổ chức, điều hành và quản lý nhà nước dự trữ ngoại hối và dự trữ vàng;
Quản lý dự trữ ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo khả
năng thanh toán quốc tế, bảo đảm dự trữ ngoại hối nhà nước cần thiết cho thanh toán
quốc tế, thõa mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư và hợp tác với nước ngoài.

_ Quản lý Kho bạc Nhà nước
Tại Điều 24 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi,
bổ sung năm 2003 có quy định Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thực hiện quản lý Kho
bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật, các quy định hành chính và các quy định.
_ Đảm bảo hoạt động bình thường của hệ thống thanh toán và quyết toán;
Tại Điều 27 Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa đổi, bổ
sung năm 2003 có quy định Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tổ chức hoặc hỗ trợ trong
việc tổ chức một hệ thống thanh toán bù trừ giữa các tổ chức tài chính ngân hàng, phối
hợp sắp xếp thanh toán bù trừ giữa họ và cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ. Quy định
chi tiết được lập bởi Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phải xây dựng các quy định về thanh toán và quyết
toán cùng với các cơ quan quản lý ngân hàng thuộc Hội đồng Nhà nước
_ Hướng dẫn và sắp xếp công việc chống rửa tiền trong lĩnh vực tài chính và màn
hình của phong trào quỹ cho mục đích chống rửa tiền;
_ Tiến hành khảo sát, phân tích và dự báo của ngành công nghiệp tài chính;
_ Tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế có liên quan trong khả năng của
ngân hàng trung ương của Nhà nước;
_ Thực hiện các chức năng khác do Chính Phủ giao.
Thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc có thể tham gia
vào các hoạt động tài chính phù hợp với các quy định có liên quan của Chương Ⅳ của
Luật này
14
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
15
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRUNG QUỐC
HIỆN NAY
3.1. Thực trạng
Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc (PBOC).

Hiện tại theo Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc thì chức năng nhiệm vụ của
PBOC là: (i) Hoạch định chính và thực hiện chính sách tiền tệ; (ii) Phát hành đồng Nhân
dân tệ (NDT) và giám sát sự lưu thông tiền tệ; (iii) Giám sát hoạt động thị trường liên
ngân hàng và thị trường trái phiếu ngân hàng; (iv) Giám sát ngoại hối và giám sát thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của PBOC cũng
thay đổi. Tùy thuộc vào từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế mà PBOC đặt ra cho
mình các mục tiêu khác nhau. Cụ thể:
_ Về mục tiêu hoạt động: (i) Từ năm 1979-1997, mục tiêu hoạt động chuyển từ kế
hoạch tín dụng sang tiền cơ sở qua đó tác động tới mức cung tiền là mục tiêu
trung gian. Tuy nhiên, sau một thời gian PBOC cũng nhận thấy chỉ riêng MB là
chưa đủ để tác động hiệu quả nhất tới mức cung tiền. (ii) Từ năm 1998 đến nay,
mục tiêu hoạt động của PBC gồm 3 mục tiêu, đó là: Tiền cơ sở, Dự trữ vượt
mức, Lãi suất trên thị trường tiền tệ.
_ Về mục tiêu trung gian: (i) Trước năm 1978, mục tiêu trung gian của PBOC là
kiểm soát tiền mặt trong lưu thông và đặt ra trần tín dụng đối với các NHTM
Nhà nước nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và đảm bảo nguồn cung trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung nhưng bằng các công cụ trực tiếp. (ii) Từ năm
1979-1997, PBOC chuyển từ kế hoạch tín dụng sang công bố chỉ tiêu về mức
cung tiền trên cơ sở hàng tháng nhằm một bước chuyển sang công cụ gián tiếp
của nền kinh tế thị trường. (iii) Từ tháng 1/1998 đến nay, PBOC bãi bỏ chỉ tiêu
về trần tín dụng và xây dựng chính thức chỉ tiêu mức cung tiền là mục tiêu trung
gian cho chính sách tiền tệ.
_ Về mục tiêu cuối cùng: (i) Trước năm 1978 là giai đoạn nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, mục tiêu cuối cùng của CSTT bao gồm hai mục tiêu là Phát triển
kinh tế và đảm bảo nguồn cung hàng hóa và dịch vụ. (ii) Từ năm 1979-1992, là
giai đoạn đầu của nền kinh tế chuyển đổi nên tồn tại song song cơ chế kế hoạch
và cơ chế thị trường, mục tiêu cuối cùng của CSTT trong giai đoạn này là phát
triển kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả. (iii) Từ năm 1993 đến nay là giai đoạn
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên mục tiêu cuối cùng của

CSTT chỉ có một mục tiêu duy nhất là duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
16
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
Các công cụ chính sách tiền tệ của PBC.
Cũng giống như NHNN Việt Nam, PBOC sử dụng các công cụ: (1) Dự trữ bắt
buộc, (2) Thị trường mở; (3) Tái chiết khấu; (4) Tái cấp vốn; (5) Lãi suất; (6) Tỷ giá để
thực hiện chính sách tiền tệ. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các công cụ chính
sách tiền tệ cũng được chuyển dần từ trực tiếp sang gián tiếp. Cụ thể:
_ Một là, về công cụ dự trữ bắt buộc (DTBB):
Năm 1984, PBOC bắt đầu đưa ra hệ thống DTBB, tỷ lệ DTBB được thiết lập ở
mức 20% đối với tiền gửi của các doanh nghiệp, 40% đối với tiền gửi cá nhân và 25%
đối với tiền gửi của dân cư khu vực nông thôn.
Năm 1985, PBOC thống nhất các mức dự trữ này ở mức 10% nhằm khuyến khích
các NHTM Nhà nước cân bằng tài sản Có và tài sản Nợ.
Đến năm 1987, PBOC nâng mức dự trữ lên 12% nhằm sử dụng tiền gửi DTBB để
tập trung vốn hỗ trợ cho các ngành công nghiệp và các dự án trọng điểm; năm 1988, PBC
đã cải tổ đáng kể hệ thống DTBB, tỷ lệ này lại tăng lên một lần nữa lên mức 13%. Nhìn
chung, hai lần điều chỉnh này nhằm hạn chế sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế, sự
tăng giá và tăng cung tiền quá mức. Có thể nói, trong giai đoạn đầu này, DTBB tương đối
cao nhằm tăng quyền lực của PBOC trong việc kiểm soát và điều chỉnh tín dụng. Bên
cạnh đó, PBOC sử dụng tiền gửi trong tài khoản dự trữ cho việc cung cấp tín dụng PBOC
cho sản xuất nông nghiệp và các dự án đầu tư quan trọng.
Tháng 3/1998, PBOC đã thay đổi về căn bản hệ thống dự trữ bằng việc sát nhập
hai tài khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức thành một tài khỏan thống nhất là tài
khoản dự trữ; đồng thời, các TCTD được toàn quyền sử dụng phần dự trữ vượt mức trong
tài khoản này. Tỷ lệ DTBB sẽ là khác nhau với các đối tượng khác nhau và tình trạng tài
chính, nội bộ khác nhau. Cách xác định tỷ lệ DTBB dựa trên: Tỷ lệ vốn thích hợp, tỷ lệ
nợ quá hạn, tình trạng kiểm soát nội bộ, sự vi phạm quy chế lớn, sự cố rủi ro nghiêm
trọng…

Bước sang năm 2011, nhằm kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng trưởng kinh tế và
tổng phương tiện thanh toán (M2), PBC điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB. Cụ thể: Ngày
20/6/2011, PBC đã tăng tỷ lệ DTBB áp dụng đối với các TCTD lớn lên mức 21,5%/năm,
các tổ chức tín dụng nhỏ và vừa lên 19,5%/năm.
Hiện tại, PBOC sử dụng hai tài khoản tiền gửi cho các TCTD: (1) tài khoản
DTBB, yêu cầu hàng ngày các TCTD phải duy trì đúng quy định, hiện được trả lãi là
1,92%/năm; (2) Tài khoản DTBB vượt, hiện được trả lãi 0,72%/năm.
Việc áp dụng tỷ lệ DTBB được phân chia thành hai khối là: (1) các TCTD lớn chịu
tỷ lệ DTBB cao hơn; (2) các TCTD nhỏ chịu tỷ lệ DTBB thấp hơn. Việc quy định tỷ lệ
DTBB của các TCTD nhỏ và vừa ở mức thấp hơn trong khi áp dụng cùng một mức trần
17
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các TCTD nhỏ có thể cạnh
tranh, đảm bảo ổn định so với các TCTD lớn khác.
Ngoài ra, PBC còn ban hành chính sách mới về áp dụng tỷ lệ DTBB phạt đối với
từng TCTD tăng trưởng tín dụng cao. Trước đây, PBC đã từng áp dụng biện pháp DTBB
phạt trong trường hợp các TCTD không đảm bảo tỷ lệ vốn tối thiểu hoặc có tỷ lệ nợ xấu
cao hơn mức cho phép. Tùy vào từng mục tiêu cụ thể, PBC sẽ áp dụng DTBB phạt như là
một chế tài để đạt được các mục tiêu điều hành của mình. Việc áp dụng tỷ lệ DTBB phạt
đối với các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn được coi là một biện pháp quan
trọng để đảm bảo các TCTD sẽ tăng trưởng tín dụng ở mức “vừa phải, hợp lý” theo mục
tiêu điều hành của PBC.
_ Hai là, về công cụ Nghiệp vụ Thị trường mở (OMO):
Nghiệp vụ Thị trường mở bắt đầu thực hiện từ tháng 3/1994, đây là nghiệp vụ
ngoại hối. Tuy nhiên, thị trường mở bắt đầu khôi phục và được đánh giá là hoạt động
thực sự có hiệu quả bắt đầu từ tháng 5/1998, hệ thống buôn bán sơ cấp được thành lập
khi PBC xóa bỏ cơ chế điều hành thông qua việc phân bổ hạn mức tín dụng. Nghiệp vụ
OMO dần trở thành một kênh quan trọng trong quá trình truyền dẫn chính sách tiền tệ và
trở thành một công cụ định hướng diễn biến lãi suất thị trường. Các nghiệp vụ OMO bắt
đầu được sử dụng kể từ ngày 26/5/1998; đến ngày 22/4/2003, tín phiếu NHTW bắt đầu

được phát hành trên cơ sở thị trường trái phiếu liên ngân hàng. Mục đích chính của tín
phiếu NHTW là hút về phương tiện thanh toán tăng lên do mua ngoại hối cho dự trữ
ngoại hối.
_ Ba là, công cụ tái chiết khấu:
Các công cụ chiết khấu là thương phiếu, hối phiếu được các ngân hàng chấp nhận
trên thị trường. Tái chiết khấu là công cụ hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD, không phải
là kênh cung ứng vốn chủ yếu của PBC đối với các TCTD. Lãi suất tái chiết khấu do
PBC quy định trong từng thời kỳ. Lãi suất tái chiết khấu được xây dựng ở mức điều
chỉnh phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ (nới lỏng hoặc thắt chặt).
Từ năm 1986, PBOC bắt đầu thực hiện chiết khấu đối với các NHTM, thời gian
này thị trường tín phiếu ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển và khối lượng giao dịch
tương đối nhỏ.
Đến ngày 21/3/1998, PBOC đã đổi mới cơ chế điều hành lãi suất chiết khấu và tái
chiết khấu. Theo đó, PBC quyết định lãi suất tái chiết khấu như là một loại lãi suất độc
lập và lãi suất chiết khấu bằng lãi suất tái chiết khấu cộng biên độ 0,9%.
Từ 1/7/1998, PBOC điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu và mở rộng biên độ
tăng lãi suất chiết khấu lên 2%, do đó lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất cho vay kỳ hạn
6 tháng. Đến tháng 12/1998, trần lãi suất chiết khấu được điều chỉnh đúng bằng mức lãi
suất cho vay cùng kỳ hạn.
18
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
Việc PBOC điều chỉnh thận trọng lãi suất tái chiết khấu là một bước đi quan trọng
trong quá trình đổi mới cơ chế lãi suất theo định hướng thị trường. Điều này góp phần cải
thiện cơ chế hoạt động của chính sách lãi suất, điều tiết mối quan hệ vay mượn giữa
PBOC với các TCTD, nâng cao khả năng quản lý hiệu quả, minh bạch nguồn vốn vay từ
PBOC của các TCTD.
_ Bốn là, vay NNTW (Central bank Lending-Tái cấp vốn):
PBOC thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với các NTM mà không cần cầm cố bằng
giấy tờ có giá. Hệ thống lãi suất thả nổi đối với các khoản vay của PBOC, lãi suất vay
của PBOC kỳ hạn 20 ngày đóng vai trò như lãi suất trần, lãi suất tiền gửi dự trữ vượt mức

đóng vai trò lãi suất sàn, còn lãi suất repo 7 ngày trên OMO và lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng 7 ngày giao động trong khoảng của hai lãi suất trên.
_ Năm là, công cụ lãi suất
Đối với Trung Quốc, việc xây dựng hệ thống lãi suất NHTW, cải thiện cơ chế hoạt
động của chính sách lãi suất và tăng cường định hướng lãi suất thị trường của lãi suất
NHTW là điều kiện tiên quyết đối với NHTW trong việc thực thi có hiệu quả chính sách
điều hành lãi suất trong quá trình cải cách lãi suất. Cải cách lãi suất ở Trung Quốc được
thực hiện trên cơ sở thị trường, lãi suất được tự do hóa từng bước thông qua việc tự do
hóa (i) Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng; (ii) Lãi suất thị trường trái phiếu; (iii) Lãi
suất huy động và cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế.
Tự do hóa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Từ 1996, lãi suất thị trường liên
ngân hàng được tự do hóa: tất cả các hoạt động cho vay liên ngân hàng được tổ chức
thông qua một hệ thống mạng liên ngân hàng thống nhất, lãi suất thị trường liên ngân
hàng được tự do hóa, mức lãi suất do các bên tự quyết định theo quan hệ cung cầu vốn
trên thị trường.
Tự do hóa lãi suất của các trái phiếu: PBOC cho rằng thị trường trái phiếu là một
bộ phận quan trọng của thị trường tài chính và việc tự do hóa lãi suất thị trường trái phiếu
đã tạo thành một bước tiến quan trọng trong cải cách toàn diện lãi suất theo thị trường.
Tự do hóa lãi suất cho vay và lãi suất huy động:
Trung Quốc đang thực hiện cơ chế trần lãi suất tiền gửi và sàn lãi suất cho vay để
tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và tổ chức tài chính. Các
mức lãi suất trần tiền gửi và sàn cho vay chuẩn được điều chỉnh linh hoạt để đạt được sự
cân bằng trong và ngoài nước. Việc quản lý sàn lãi suất cho vay chủ yếu nhằm 2 mục tiêu
chính (i) Hạn chế hạ thấp lãi suất kiểm soát tăng trưởng tín dụng khi nền kinh tế phát
triển quá nóng; (ii) Hạn chế cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD lớn với các
TCTD nhỏ. Việc áp dụng trần lãi suất huy động nhằm hai mục tiêu chính (i) Lãi suất tiền
gửi không được tăng cao quá mức làm hạn chế tiêu dùng gây ra tình trạng dư cung. (ii)
Hạn chế sự dịch chuyển vốn giữa các NHTM.
19
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc

Hiện PBC thực hiện công bố các mức lãi suất huy động và cho vay chuẩn với
nhiều kỳ hạn khác nhau như lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn 3, 6, 12 tháng, 2
năm, 3 năm và 5 năm, lãi suất cho vay thời hạn 6 tháng, 1 năm, 1-3 năm, 3-5 năm và trên
5 năm để làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay.
_ Sáu là, về công cụ tỷ giá:
Trước năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Cơ
chế này đã làm cho các doanh nghiệp mất đi quyền chủ động trong kinh doanh, không
gắn kết lợi ích kinh tế với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho các doanh
nghiệp không chú ý đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng tính ỷ lại vào
sự bao cấp của nhà nước, chính điều này đã làm cho Trung Quốc rơi vào suy thoái, khủng
hoảng kinh tế sâu sắc.
Đầu những năm 80, Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá
giảm dần để phản ảnh đúng sức mua của đồng NDT. Chính sách này đã giúp Trung Quốc
cải thiện được cán cân thương mại, giảm thâm hụt thương mại và cán cân thanh toán, đưa
đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát của Trung quốc
tiếp tục gia tăng, hạn chế xuất khẩu và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế.
Tháng 1/1994, Trung Quốc chính thức công bố điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng NDT;
đồng thời, để chính sách điều chỉnh tỷ giá giữ được ổn định, không bị giới đầu cơ thao
túng, Trung Quốc đã thực hiện chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối, nhằm mục đích tập
trung ngoại tệ về Nhà nước, đảm bảo cung-cầu ngoại tệ thông suốt. Đồng thời, từ năm
1994-1996, Trung Quốc thực hiện chính sách kết hối ngoại tệ bắt buộc theo quy định của
Chính phủ và quy định về cải cách cơ chế quản lý ngoại hối PBC. Theo đó, các nguồn thu
ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội phải kịp thời chuyển về nước và bán hết
cho các ngân hàng được ủy quyền. Từ năm 1997 đến nay chính sách kết hối ngoại tệ tiếp
tục được nới lỏng khi dự trữ ngoại hối tăng lên.
Hiện Trung quốc đang thực hiện việc quản lý tỷ giá theo một rổ tiền tệ của các đối
tác thương mại chính. Bên cạnh đó, việc điều hành chính sách tỷ giá thuộc nhiệm vụ của
Vụ CSTT của PBC vì theo quan điểm của PBC trong việc điều hành chính sách tiền tệ,
kênh tỷ giá cũng là một kênh quan trọng trong cơ chế truyền dẫn và có tác động qua lại
với các kênh khác. Kết quả là nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về

ngoại hối, Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Thị trường ngoại
tệ ổn định, cung cầu ngoại tệ được cân đối.
Có thể nói trong thời gian qua, Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả trong quá
trình cải cách nền kinh tế, trong đó có những đóng góp quan trọng của việc điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.
20
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc
3.2. Nhận xét chung.
Cuối năm 1949 thời kỳ nội chiến ở Trung Quốc kết thúc nhằm ổn định đất nước ,
giúp cho nền kinh tế của Trung Quốc đi vào quỹ đạo nên Trung Quốc phải duy trì hệ
thống ngân hàng một cấp để tránh bạo loạn có thể xảy ra lần nữa nhằm ổn định tài chính
quốc gia. Vì thế đến 1978 nó là ngân hàng duy nhất của toàn Trung Quốc và đảm đương
vai trò ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại.
Nền tài chính Trung Quốc được chuyển đổi khi bước vào kinh tế thị trường. Vào
năm 1978, Trung Quốc thực hiện cải cách kinh tế với quy mô lớn. Nền kinh tế Trung
Quốc được dần dần hiện đại hóa theo hướng mở cửa hội nhập vào cộng đồng quốc tế.
Cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế thì cần có sự cân dối hài hòa của ba
thành tố cơ bản: là thể chế, công cụ và thị trường, ngân hàng, các tổ chức tài chính khác,
các cơ sở hạ tầng tài chính cần được thành lập và phát triển. Phạm vi sử dụng các công cụ
tài chính được mở rộng đảm bảo cho các thành viên tham gia thị trường có cơ hội đầu tư
và giao dịch. Thị trường phát triển và đòi hỏi sự tự do vận hành của cơ chế giá cả và lãi
suất. Việc xây dựng thể chế được khởi đầu từ sự cải tổ với việc thành lập hệ thống ngân
hàng hai cấp. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc từng bước tách ra khỏi những hoạt động
kinh doanh. Vào năm 1984, ngân hàng nhân dân Trung Quốc trở thành ngân hàng Trung
ương của Trung Quốc. Với sự thay đổi này giúp cho ngân hàng Trung ương Trung Quốc
tập trung vào chức năng quản lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của mình, xây dựng
các chính sách tiền tệ phù hợp, tạo nên một hệ thống ngân hàng thống nhất.
21
Địa vị pháp lý của NHTW Trung Quốc

KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ những tìm hiểu của nhóm mình về địa vị pháp lý của NHTW
Trung Quốc, thông qua liên hệ thực tế và kiến thức từ sách vở, bài giảng, chúng tôi đã rút ra
được những điều quan trọng thiết yếu trong NHTW. Hy vọng rằng bài luận có thể giúp được
bạn đọc phần nào hiểu rõ được đề tài, từ đó áp dụng hiệu quả vào thực tế để giải quyết những
vấn đề của bản thân.
22

×