Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk) luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 110 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




KIU HNG NHUNG




KIểM SáT VIệC TUÂN THEO PHáP LUậT
TRONG HOạT ĐộNG ĐIềU TRA CủA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)






LUN VN THC S LUT HC







H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




KIU HNG NHUNG



KIểM SáT VIệC TUÂN THEO PHáP LUậT
TRONG HOạT ĐộNG ĐIềU TRA CủA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04



LUN VN THC S LUT HC


Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN NGC CH



H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



KIỀU HỒNG NHUNG

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU
TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự 8
1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự 8
1.1.2. Đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự 10

1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát 11
1.3. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát hoạt động điều tra 17
1.4. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
hoạt động điều tra vụ án hình sự 22
1.4.1. Khái niệm 22
1.4.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
trong hoạt động điều tra vụ án hình sự 23
1.5. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân 26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN 31
2.1. Qui định của pháp luật về kiểm sát hoạt động điều tra 31
2.1.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án 33
2.1.2. Kiểm sát việc khởi tố bị can 39
2.1.3. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường 44
2.1.4. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can 48
2.1.5. Kiểm sát hoạt động khám xét 50
2.1.6. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 51
2.1.7. Kiểm sát việc đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra 61
2.2. Thực tiễn thực thi công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 63
2.2.1. Thực trạng kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự 64
2.2.2. Thực trạng kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường 66
2.2.3. Thực trạng kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong các biện
pháp ngăn chặn 67
2.3. Những hạn chế, tồn tại trong công tác kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 69
2.4. Những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hạn chế công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 73
2.4.1. Quy định của pháp luật 73
2.4.2. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự 74
2.4.3. Công tác cán bộ 75
2.4.4. Cơ sở vật chất 76
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 78
3.1. Cơ sở và định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 78
3.1.1. Cơ sở nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra của VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 78
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra của VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 84
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 85
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật 85
3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk 90
3.2.3. Nâng cao về cơ sở vật chất 94
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC 99


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Tố tụng Hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
KSĐT Kiểm sát điều tra
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Bảng thống kê các vụ án được đình chỉ từ 2009 - 2014
69
Bảng 2.2:
Bảng thống kê số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm
2009-2014
70



1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết đề tài
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN),
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước pháp quyền Việt
Nam, được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, không phụ thuộc hành chính nhà
nước; chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định phải bảo
đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện tốt hơn chức năng của mình và nhất
quán xác định VKSND thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng một lần nữa khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra. Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp [2].
Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra của VKSND là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
VKSND nhằm bảo đảm công tác điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ và theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm mọi hành vi phạm tội
đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, người phạm
tội và không làm oan người vô tội.

2

Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển của VKSND, qua tổng kết thực
tiễn về việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp cho thấy: VKSND đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực về mọi mặt,
luôn bám sát và thực hiện đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
yêu cầu cải cách tư pháp; đổi mới về tổ chức và nhận thức thực hiện chức năng,
nhiệm vụ. Chính vì vậy, trong thời gian qua, chất lượng, hiệu quả các hoạt động
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được nâng lên rõ rệt, ngày càng được
nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo sự tin tưởng của Đảng, của Quốc hội và các cơ quan
trong hệ thống chính trị; góp phần tích cực bảo vệ và xây dựng CNXH; góp phần
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội và bảo đảm các quyền dân chủ của công dân; chất lượng công tác điều tra, truy
tố, xét xử được nâng lên, tỷ lệ vụ án oan sai ngày càng giảm, một số vụ án hình sự
với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội đã được khám phá,
điều tra kịp thời, tuân thủ đúng quy định của pháp luật, góp phần quan trọng trong
việc giữ vững, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Tuy nhiên, qua hơn 20 năm đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, pháp
lý ở nước ta có những thay đổi sâu sắc, vấn đề về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của VKSND nói chung và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra nói riêng đang là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và các nhà nghiên
cứu khoa học pháp lý đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
Những quy định của pháp luật về quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND
và Cơ quan điều tra (CQĐT) còn bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc do thiếu những
quy định bảo đảm hiệu lực của quan hệ phối hợp và chế ước được quy định trong
BLTTHS. Do đó, vẫn còn nhiều quyết định gây tranh cãi; những quy định đảm bảo
cho VKSND và CQĐT thực hiện chức năng, nhiệm vụ còn thiếu và không phù hợp
với thực tế; hậu quả pháp lý của những yêu cầu, kiến nghị của VKSND trước những
vi phạm của CQĐT mang tính hình thức, nên hiệu quả chưa cao.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND


3
thực hiện chưa đầy đủ, chưa làm hết trách nhiệm theo quy định của pháp luật dẫn
đến: Nhiều vụ án hình sự trong quá trình điều tra vi phạm nghiệm trọng về trình
tự, thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ, việc xây dựng hồ sơ chưa bảo đảm tính
khách quan, hợp pháp, thậm chí còn có những vi phạm nghiêm trọng các quy định
của BLTTHS; không xác định được người thực hiện hành vi phạm tội. Từ đó đã
gây hậu quả là nhiều vụ án không đảm bảo căn cứ để truy tố, bị Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên vô tội hoặc bị cấp phúc thẩm cải sửa, hủy án để điều tra lại. Số lượng
các vụ án hình sự hàng năm không giảm, tính chất của tội phạm ngày càng phức
tạp, thủ đoạn gây án càng manh động, trắng trợn, xuất hiện các nhóm tội phạm có
tổ chức làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
gây hoang mang và giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự quản lý của Nhà
nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND, mối quan hệ giữa VKSND với CQĐT trong hoạt động điều tra, tìm ra và
thực hiện được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Đó là lý do cơ bản làm cơ sở cho tác
giả chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu một số công trình khoa học ở trong nước có liên quan đến đề
tài, phần lớn các tài liệu tập trung nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ chung của
Viện kiểm sát nhân dân; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều
tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự; một số hoạt động đấu tranh phòng,
chống tội phạm; vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra các vụ án
hình sự. Có thể, khái quát một số nội dung của các công trình khoa học đã nghiên
cứu có liên quan đến đề tài luận văn như sau:
GS,TS. Lê Cảm (2011), bài viết về “Viện kiểm sát Việt Nam”, đã đề cập một


4
cách sâu sắc chức năng, nhiệm vụ, thiết chế về Viện Công tố, Viện kiểm sát nhân
dân các nước trên thế giới; vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
ta; phân tích sự cần thiết phải tiếp tục duy trì các chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân như quy định của Hiến pháp hiện hành. Đồng thời, tác giả khẳng định sự cần
thiết phải duy trì vị trí hiện hành của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy
nhà nước. Tuy nhiên, để phân biệt vị trí của Toà án nhân dân, trong Hiến pháp cần
đặt một chương riêng về Viện kiểm sát nhân dân ngay sau chương về Tòa án nhân
dân. Nhiều nước XHCN trước đây ở Đông Âu hiện nay đã đi theo hướng đó. Cũng
có quốc gia đặt chung trong một chương của Hiến pháp nhưng nói rõ tên chương là
“Các cơ quan tư pháp”. Cách làm này cũng có nhiều yếu tố hợp lý, bởi vì cần
khẳng định rằng, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta, nếu với hai loại
chức năng như hiện nay, chắc chắn là nằm trong quỹ đạo của các hoạt động tư pháp.
Việc đặt Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi các hoạt động tư pháp theo tinh thần
các văn kiện của Đảng ta là hoàn toàn có cơ sở khoa học mà mục đích chủ đạo của
cách lựa chọn này phải là bảo đảm yêu cầu về tính độc lập của các hoạt động tư
pháp, trong đó có hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân [22].
Sách do GS,TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên (xuất bản năm 2012), “Những
vấn đề về Hiếp pháp và sửa đổi Hiến pháp”, đề cập đến sự ra đời và phát triển Viện
kiểm sát, cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát qua các bản Hiến pháp, làm rõ sự cần thiết
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong từng thời kỳ
lịch sử. Đồng thời, tác giả phân tích một cách sâu sắc việc thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát và khẳng định hoạt động điều tra
là hoạt động quan trọng bậc nhất của quá trình tố tụng. Điều tra được xác định là
khâu đầu tiên, đồng thời cũng là khâu có tính quyết định nhất trong toàn bộ quy
trình của hoạt động tư pháp [21, tr.305]. Các hoạt động truy tố, xét xử là những hoạt
động tiếp theo nhằm tìm ra tính xác thực của hoạt động điều tra, do đó hoạt động
điều tra gắn bó với hoạt động công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Sách chuyên khảo do tiến sĩ Lê Hữu Thể làm chủ biên (năm 2008), “Thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”,

5
Nhà xuất bản Tư pháp, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm
vi quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra.
Trong đó, mối quan hệ giữa quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là hai chức năng độc lập nhau, nhưng có quan
hệ mật thiết với nhau.
Đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra,
chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt ở bậc cao học. Đề tài
“Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là một nghiên cứu chuyên
sâu ở bậc cao học trong bối cảnh kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk thời gian qua.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận
về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Kiến nghị
với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xây dựng, thực thi pháp luật nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của VKSND và hoạt động điều tra của Lực lượng Cảnh sát điều tra các vụ án
hình sự được khách quan, chính xác, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Tập hợp hóa, nghiên cứu, phân tích, làm rõ, bổ sung
để hoàn thiện những vấn đề lý luận về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
VKSND, để xác định cơ sở pháp lý cùng với thực trạng hiện nay của hoạt động
kiểm sát này. Trên cơ sở đó, tìm ra giải pháp khắc phục nhược điểm, phát huy ưu
điểm, góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra của VKSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

6
- Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND từ 2009 đến tháng 5 năm 2014.
Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đấu tranh
và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương
pháp thống kê hình sự, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu dựa trên những tài
liệu tổng kết, số liệu thống kê của VKSND tỉnh Đắk Lắk và CQĐT Công an tỉnh
Đắk Lắk nhằm đánh giá thực trạng, mức độ, cơ cấu, diễn biến tội phạm, phân tích
làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm; các đặc điểm xã hội - nhân khẩu
nhân thân người phạm tội; dự báo tình hình tội phạm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận
khoa học pháp lý về công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, những kiến nghị luận
văn là nguồn tài liệu để hoàn thiện những quy định pháp luật về tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn hoạt động điều tra với hoạt động công
tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Luận văn sẽ là tài liệu bổ ích không những cho cán bộ làm công tác nghiên
cứu khoa học tham khảo, mà còn giúp cho các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tham
khảo xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong đấu tranh, phòng chống tội phạm
nói chung. Giúp cho các Kiểm sát viên những kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ
kiểm sát cụ thể khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

hoạt động điều tra. Những đề xuất trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm hình sự trong những năm tới.

7
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.






8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Khi có tội phạm xảy ra thì việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn

khác nhau, do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự. Theo giáo trình Luật
tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng
hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách
quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [18].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai
đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng
với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định.
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai
đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự
và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự.
Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là
các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các
hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử
có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng
hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.

9
BLTTHS quy định “Giai đoạn điều tra vụ án hình sự” trong 6 chương, từ
chương VIII đến chương XIII, đây cũng là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự. Ở giai đoạn này được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ
án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra
sang VKS để đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các
căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt
động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong

trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt
giai đoạn điều tra vụ án.
Thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố
tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều
tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng
không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc
biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài
các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi
thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức
tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ quan trọng, bởi vì trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự thì kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa
án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều
phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Vì vậy, nhiệm
vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện
pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội
phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện
phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội
phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được
thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của

10
Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách
quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố
tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt
động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên

quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt
động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và
kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan.
1.1.2. Đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự có các đặc điểm cơ bản và đặc trưng cơ bản
như sau:
- Đây là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự, có thời hạn xác định
bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho
đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị
truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
- Nhiệm vụ của giai đoạn này là các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi
biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm
tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết
gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên
nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp
phòng ngừa tội phạm.
- Chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là CQĐT
hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu
do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là
những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu
có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì
phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng
minh tội phạm.

11
- Biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp
do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính
chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời
khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú;
khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam…v.v Các biện pháp được áp dụng phải theo

đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.
1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
Vấn đề phân biệt giữa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều
tra với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, cũng như mối quan hệ giữa
chúng với nhau cần phải được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt
động thực tiễn các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Thực tế “Quyền công tố” là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất
Nhà nước và pháp luật, nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà
nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước. Trong đời
sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình thì quyền công
tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước (với tư
cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi phạm tội (với tư
cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt). Trong quan
hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của Nhà
nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải
buộc tội được người phạm tội. Nên theo tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng
quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự
buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm,
với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực
hình sự, còn trong lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các
vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật. Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố

12
tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là
tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, phạm vi quyền công tố không phải có trong
mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được thể hiện rõ trong Luật tổ chức
VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng hình sự nhưng ở giai đoạn

này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án
nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự (Điều 23 Luật tổ
chức VKSND năm 2002). Do đó, giai đoạn thi hành án không có hoạt động thực
hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố được
xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Từ đó có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước, được
Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội
người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố -
điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm luật nước ta ghi nhận và
đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời hoạt động thực hành
quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm qua (từ năm
1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước
đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông
qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành
quyền công tố".
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm
thì Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà
nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có
trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến
pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan

13
VKS. Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp dụng "các biện pháp do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội"
(Điều 13 BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và xét xử ở nước ta cho thấy

CQĐT và Tòa án các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số án do CQĐT khởi
tố chiếm khoản 95% và theo như quy định mới của BLTTHS năm 2003 thì việc
khởi tố vụ án hình sự được tập trung vào một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án
mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà
CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT có quyền bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra
thu thập chứng cứ Chính vấn đề thực tiễn nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công
tố trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tức là trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện,
chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng bao
gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra, VKS và Tòa án.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm trong các giai
đoạn khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể hiện cụ thể tại các
Điều 13 và Điều 17 Luật tổ chức VKS năm 2002.
Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của BLTTHS có
thể nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố với
những nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy
bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố; đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát với thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.

14
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002, trong
lĩnh vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối
công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm
pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định
của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vô
tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính
khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Cụ thể:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền công
tố được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
khởi tố vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm việc khởi tố
đúng với các quy định pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố xét thấy quyết
định khởi tố của CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là quyết định đó trái pháp
luật thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chấm dứt ngay hoạt động điều tra, đồng
thời ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố trái pháp luật, như thế quyền công tố có
thể bị triệt tiêu và việc ra quyết định hủy bỏ tức là VKS đã thực hành quyền công tố.
Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát khởi tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra
quyết định của VKS được chính xác và đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý
và hạn chế được các vi phạm trong việc thực hành quyền công tố của VKS. Ngược lại
nếu thực hiện kiểm sát khởi tố không tốt sẽ mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành
quyền công tố, thậm chí quyết định pháp lý của VKS là vi phạm pháp luật. Ví dụ,
trong trường hợp CQĐT khởi tố vụ án trái pháp luật, nếu kiểm sát khởi tố không
kiểm sát chặt chẽ thì sẽ không phát hiện được vi phạm trong việc ra quyết định khởi
tố của CQĐT thì VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện pháp khắc phục
ngay từ đầu, chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án phải
đình chỉ điều tra.

15

Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các
quyết định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố.
Nhưng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định
của pháp luật, muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
ngăn chặn hoặc trong việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện
kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính
xác, đúng pháp luật thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp
pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng,
mà hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng quyết định áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết
định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng các biện
pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không có căn cứ và hợp pháp VKS
sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp
luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Ví
dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết định khởi tố bị can của
CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi
tố bị can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và
hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ
và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra,
ngược lại quyết định khởi tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố của CQĐT.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra sẽ làm tiền đề


16
cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có
sai sót, vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động đều tra sẽ kéo theo sự
vi phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai
đoạn điều tra khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng
sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Ví dụ khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khấn
cấp của CQĐT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tạm giữ người bị bắt của CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh
hoặc có quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng
theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, tức là VKS thực hành quyền công tố,
hoạt động đó thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Nhưng quyết định truy
tố của VKS cũng phải bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp và điều đó có nghĩa
là bản thân VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật.
Muốn bảo đảm quyết định truy tố có căn cứ thì phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt
động kiểm sát điều tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra
thì VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội
của bị can và các tình tiết liên quan khác của vụ án và đó chính là căn cứ vững chắc
cho việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, ngược lại nếu VKS thực
hiện không tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai.
Cho nên, hoạt động kiểm sát điều tra là cơ sở rất vững chắc cho hoạt động thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và xét xử. Bên cạnh đó, hoạt động thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố lại là tiền đề làm phát sinh hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên tòa xét xử.
Như vậy, giữa kiểm sát hoạt động điều tra và thực hành quyền công tố trong
lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện
chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt
động kia và ngược lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho
hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra chỉ song song tồn tại trong phạm vi


17
bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố điều tra cho đến khi bản án có hiệu
lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát hoạt động điều tra
* Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã được sửa đổi bổ sung quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra các vụ án hình sự; đó là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng trên,
Nhà nước ta đảm bảo cho VKSND tăng cường chức năng giám sát trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai,
không để lọt tội phạm.
* Theo Hiến pháp năm 2013, chế định Viện kiểm sát nhân dân cũng có một
số điểm mới cơ bản như sau:
Một là, hệ thống VKSND được sửa đổi phù hợp với chủ trương cải cách tư
pháp: "Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện
kiểm sát khác do Luật định” (khoản 2 Điều 107).
Hai là, theo quy định của Điều 107 Hiến pháp năm 2013, nhiệm vụ của
VKSND được quy định một cách đầy đủ hơn, phạm vi rộng hơn. Cụ thể là:
"Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [12, Khoản 3, Điều 107].
Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của VKSND được đặt ra
là hết sức cần thiết. Bởi lẽ, để xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung
quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt
trong lĩnh vực tư pháp Hiến pháp đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm bảo đảm
một cách tối đa quyền con người, quyền công dân.
Ba là, nguyên tắc hoạt động của Viện kiểm sát cũng được sửa đổi, bổ sung
để bảo đảm tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của VKSND. Trên cơ sở tiếp

tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành

×