ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH THỦY
NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Thủy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9
1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo đức,
kinh tế và pháp luật 9
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam 12
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam 16
1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 18
1.2.1. Yêu cầu đối xử công bằng giữa những người phạm tội 19
1.2.2. Yêu cầu tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân người phạm tội 20
1.3. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN NAY 22
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự - Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1985 22
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến nay 31
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC
CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM, PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 33
2.1. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 33
2.1.1. Sự thể hiện nội dung trong nguyên tắc xử lý tội phạm 33
2.1.2. Sự thể hiện nội dung trong việc phân loại, phân hóa tội phạm 35
2.1.3. Sự thể hiện nội dung trong các quy định về hình phạt, quyết
định hình phạt 43
2.1.4. Sự thể hiện nội dung trong quy định về các tội phạm cụ thể 52
2.2. SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 59
2.2.1. Yêu cầu của pháp luật quốc tế về nguyên tắc công bằng trong
pháp luật hình sự 60
2.2.2. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình
sự Liên bang Nga 62
2.2.3. Sự thể hiện nội dung nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình
sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 64
Chương 3: THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM 66
3.1. THỰC THI NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC
TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 66
3.1.1. Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk 66
3.1.2. Tình hình thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 67
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực thi nguyên tắc công
bằng và các nguyên nhân cơ bản 71
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM 86
3.2.1. Sự cần thiết của việc ghi nhận nguyên tắc công bằng trong Bộ
luật hình sự Việt Nam 86
3.2.2. Nội dung nguyên tắc công bằng trong Bộ luật hình sự Việt Nam 88
3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC CÔNG
BẰNG TRONG THỰC TIỄN THI HÀNH 90
3.3.1. Nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ và kiện toàn đội ngũ
cán bộ áp dụng pháp luật 91
3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
hình sự 91
3.3.3. Một số giải pháp khác 93
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1.
Hệ thống các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk
66
Bảng 3.2.
Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)
68
Bảng 3.3.
Khảo sát 287 bị cáo trong 150 vụ án hình sự sơ thẩm do
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử trong giai đoạn 05
năm (2009-2013)
69
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại
tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm
2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách
mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Nghiên cứu
Hiến pháp năm 2013 và hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước cho
thấy, cùng với nhân đạo, pháp chế, dân chủ thì công bằng “không chỉ là một
trong các giá trị xã hội liên quan chặt chẽ với pháp luật và các giá trị xã hội
khác, mà còn là định hướng cơ bản đối với hoạt động thực tiễn của các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền vì mục đích
cao quý chung - lợi ích của toàn thể xã hội và nhân dân” [2, tr.50]. Đối với tư
pháp, công bằng là nền tảng để tồn tại như một nhà luật học danh tiếng
(A.M.Jekovev, GS. TS. Võ Khánh Vinh dẫn) đã viết: “Thiếu sự cưỡng chế tư
pháp hình sự sẽ không có sức mạnh, thiếu sự giáo dục tư pháp sẽ vô nhân
đạo. Nhưng thiếu công bằng tư pháp nói chung sẽ không tồn tại” [42, tr.47].
Chính vì vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tư tưởng công bằng được thể hiện
xuyên suốt quy định của Bộ luật hình sự từ Phần chung cho đến Phần các tội
phạm, là cơ sở chủ yếu trong việc bảo đảm tính khách quan, công bằng của
các bản án hình sự.
Hiện nay, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý người
phạm tội, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ những
nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc công bằng nói riêng, bảo
đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mặc dù có ý nghĩa to lớn như
2
vậy nhưng nguyên tắc công bằng chưa được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu
trong khoa học luật hình sự mà chủ yếu được đặt trong các nghiên cứu chung
về hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật hình sự hoặc chỉ tập trung nghiên cứu
lồng ghép về các chế định thuộc Phần chung pháp luật hình sự. Do đó, việc
nghiên cứu có ý nghĩa lý luận, lập pháp và thực tiễn sau đây:
* Về phương diện lý luận, còn nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến
nguyên tắc công bằng chưa được làm rõ (khái niệm, nội dung, ý nghĩa, mối
quan hệ giữa nguyên tắc công bằng với các nguyên tắc khác trong luật hình
sự, chuẩn mực quốc tế và pháp luật các nước; v.v ).
* Về phương diện lập pháp, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 mặc dù đã có những bước tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm
1985 và các văn bản pháp luật thời kỳ trước đó trong việc thể hiện tư tưởng
và nội dung của nguyên tắc công bằng nhưng cũng chưa chính thức ghi nhận
nguyên tắc này; cũng như sự thể hiện nội dung của nó vẫn chứa đựng một số
nội dung dễ dẫn đến không bảo đảm công bằng, bình đẳng Chính vì vậy,
vấn đề hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và các giải pháp
bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng là một vấn đề cấp thiết trong công tác
xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự hiện nay.
* Về phương diện thực tiễn, vì những lý do chủ quan và khách quan
khác nhau nên nguyên tắc công bằng ít nhiều vẫn chưa được thực thi triệt
để ở nhiều khía cạnh, điều đó dẫn đến còn có hiện tượng oan, sai, bất công
làm phát sinh tâm lý tiêu cực trong xã hội, đánh mất niềm tin của nhân dân
vào pháp luật của nhà nước, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa
học những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên
tắc công bằng; sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự
3
Việt Nam hiện hành, cũng như yêu cầu quốc tế và pháp luật hình sự một số
nước; thực tiễn thực thi để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực thi nguyên tắc này không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan
trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng
cho việc học viên quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học với tên
gọi: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, nguyên tắc công bằng
còn ít được quan tâm nghiên cứu chuyên sâu. Vấn đề chủ yếu được đề cập
đến bởi các nghiên cứu chung về hệ thống các nguyên tắc của luật hình sự.
Tham khảo tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy liên quan đến nguyên
tắc công bằng trong luật hình sự có những công trình tiêu biểu sau đây:
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở nước ngoài: 1)
Nhikifôrôv B.X, Về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự Liên Xô,
Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1960; 2) Melesko Iu. B, Về khái niệm và bản
chất của các nguyên tắc của luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
6/1973; 3) Kêlina X. G. và V. N. Kudriaxev, Những nguyên tắc của luật hình
sự Xô viết, Nxb. Khoa học, Mátxcơva, 1988 [4, tr.992]; 4) Ashworth, Các
nguyên tắc của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Oxford University
Press, 1995; 5) David Brown, David Farrier, Neal, Các nguyên tắc chung của
luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự, Nxb. Federation Ress, Sydney,
Australia, 1996; 6) Michael Bogdan (chủ biên), Chương 2 - Các nguyên tắc
của luật hình sự, Trong sách: Luật hình sự Vương quốc Thụy Điển trong thiên
niên kỷ mới, Nxb. Elanders Gotab, Stockholm, Thụy Điển, 2000; v.v
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, bài viết ở trong nước: 1)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam,
4
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ
ba - Đạo luật hình sự, mục III - Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt
Nam, trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 3) GS.TSKH.
Lê Cảm, Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học,
số 3/2000; 4) GS. TSKH. Đào Trí Úc, Chương V - Các nguyên tắc cơ bản của
luật hình sự Việt Nam, trong sách chuyên khảo: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1
- Những vấn đề chung), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; 5) GS.TSKH.
Đào Trí Úc, Bản chất và vai trò của các nguyên tắc luật hình sự Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1999; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chính sách xử
lý tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/2005; Nguyễn
Tấn Hùng, Quan niệm của chủ nghĩa Mác về vấn đề bình đẳng và công bằng xã
hội, Tạp chí Thông tin Khoa học, số 5/1996; v.v
* Dưới góc độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước: Luận án tiến
sĩ luật học của tác giả Võ Khánh Vinh với tên gọi: “Nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam” (Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 1993). Đến nay,
trên 20 năm, không có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học nào.
Nhìn chung, trong tất cả các tác phẩm nói trên, nguyên tắc công bằng
được nghiên cứu với tư cách là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật hình
sự và được đề cập với tư cách là một mục nhỏ trong Chương, mục về các
nguyên tắc cơ bản chứ không phải đối tượng nghiên cứu riêng của tác phẩm.
Đặc biệt, cuốn sách chuyên khảo: “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
Việt Nam” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân dân năm 1994 đã
nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc này nhưng thời gian xuất bản đã trên 20
năm, cơ sở thực tiễn trong nghiên cứu còn là nội dung quy định Bộ luật hình
sự năm 1985 và có ba chương tiếp cận như sau: Chương 1: Khái niệm nguyên
tắc công bằng trong luật hình sự; Chương 2: Nguyên tắc công bằng và việc
5
quy định tội phạm và hình phạt; Chương 3: Nguyên tắc công bằng và việc
quyết định hình sự [42, tr.206].
Như vậy, đến nay chưa có công trình nào tiếp tục nghiên cứu chuyên
sâu và có hệ thống về những vấn đề lý luận cơ bản của nguyên tắc công bằng,
đồng thời đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng trong các quy định
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực thi để làm cơ sở cho
việc đề xuất giải pháp bảo đảm nguyên tắc này. Nói một cách khác, các vấn
đề lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc công bằng của luật hình sự đòi
hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu hơn, đặc
biệt là trong bối cảnh sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn thực thi của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phương diện lý luận, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ
bản như: khái niệm công bằng dưới các góc độ khác nhau (triết học, chính trị,
đạo đức, kinh tế, pháp luật), làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa, cũng như
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc công bằng trong
lịch sử luật hình sự Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, luận văn nghiên cứu sự thể hiện của nguyên
tắc này trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, so sánh với yêu cầu liên
quan của pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới
(Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa); đánh giá thực tiễn thực
thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thực tiễn
xét xử trên địa bàn tỉnh giai đoạn 05 năm (2009-2013), chỉ ra tồn tại, hạn chế
6
và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật và các giải pháp khác bảo đảm thực thi nguyên tắc này trong
thực tiễn xét xử.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Tiếp cận khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo
đức, kinh tế và pháp luật, từ đó đưa ra khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích nội dung nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam;
- Hệ thống hóa sự hình thành và phát triển tư tưởng của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến nay để rút ra nhận xét;
- Phân tích sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình
sự Liên bang Nga và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, để rút ra nhận xét;
- Đánh giá việc thực thi nguyên tắc công bằng của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk trong thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế
và các nguyên nhân cơ bản, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự
Việt Nam về nguyên tắc công bằng, cũng như các giải pháp khác bảo đảm
thực thi nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc công
bằng trong xây dựng, tổ chức Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm; cũng như thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử Nhà nước và pháp luật, lý luận về Nhà nước và
7
pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự; những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí
của một số nhà hình sự học ở Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để luận chứng về các vấn
đề khoa học của đề tài là: hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, điều tra xã hội
học, phân tích số liệu thực tiễn, từ đó tổng hợp các tri thức khoa học luật hình
sự và giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình
sự; khái quát quá trình phát triển của nguyên tắc công bằng trong lịch sử pháp
luật Việt Nam; phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc công bằng
trong quy định pháp luật hình sự nước ta hiện hành; đánh giá việc thực thi
nguyên tắc công bằng trong xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn
của tỉnh Đắk Lắk; từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những giải
pháp bảo đảm thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử.
5.2. Điểm mới về mặt khoa học
Ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu
chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999 đến nay. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một
vấn đề mang tính nguyên tắc đòi hỏi khi phải sửa đổi toàn diện Bộ luật hình
sự năm 1999 hiện hành, cũng như thực tiễn cải cách tư pháp đang đặt ra.
Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các
cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao
học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
8
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Sự thể hiện nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp
luật hình sự Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới.
Chương 3: Thực thi nguyên tắc công bằng trong thực tiễn xét xử trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk và những kiến nghị.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Công bằng là một khái niệm đa chiều, tiếp cận dưới nhiều góc độ sẽ
cho ra những nội hàm khác nhau. Để có thể phân tích, đánh giá sự thể hiện
của nguyên tắc công bằng trong pháp luật hình sự, nhất định phải làm rõ khái
niệm này ở bình diện pháp lý và chỉ ra những biểu hiện, ý nghĩa của nó trong
pháp luật hình sự.
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm công bằng dưới các góc độ triết học, xã hội, đạo
đức, kinh tế và pháp luật
Công bằng xã hội là lý tưởng, khát vọng và nỗ lực chung của nhân loại
tiến bộ. Ở nước ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm
2011) cũng thể hiện lý tưởng này qua việc nhấn mạnh về mục tiêu của cách
mạng Việt Nam hiện nay là: “xây dựng Việt Nam trở thành một nước dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [6, tr.205]. Công bằng là
một phạm trù, khái niệm đa chiều, tiếp cận và đứng trên lập trường khác nhau
về văn hóa hoặc xuất phát từ những phương diện, ở không gian và thời gian
khác nhau sẽ cho ra những quan niệm, đánh giá khác nhau về vấn đề này.
Dưới góc độ triết học, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Bản chất của công bằng là sự phù hợp giữa một loạt khía
cạnh thể hiện các phương diện khác nhau giữa cái mà cá nhân (hay
nhóm xã hội) làm và cái mà họ được hưởng từ xã hội. Cái mà cá
nhân làm cho xã hội có thể là điều tốt lành (lao động, cống hiến,
nghĩa vụ, công lao…), hoặc cũng có thể là điều xấu, có hại cho xã
10
hội (ví dụ: tội phạm). Còn cái mà cá nhân được hưởng từ xã hội có
thể là địa vị xã hội, quyền lợi, tiền công, phần thưởng, sự đánh giá,
ghi công của xã hội… và cũng có thể là sự trừng phạt bằng những
hình thức từ thấp đến cao [10, tr.61].
Theo đó, công bằng - một cách đơn giản nhất - được hiểu là sự phù hợp
giữa cái mà cá nhân làm cho xã hội với cái mà cá nhân nhận được từ xã hội.
Nếu làm những điều có ích cho xã hội thì được hưởng quyền lợi, ngược lại
làm những điều có hại cho xã hội thì bị trừng phạt ở những mức độ nặng nhẹ
tùy theo tính có hại của việc làm thấp hay cao.
Dưới góc độ xã hội, công bằng chủ yếu được nhìn nhận là sự ngang bằng
nhau giữa người và người về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo
nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Điều này
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến khi nói về nguyên tắc phân phối
dưới chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già
yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom” [14, tr.175]. Theo đó,
công bằng xã hội đi đôi với hợp lý. Công bằng thể hiện qua việc mức độ
hưởng thụ tương xứng với cống hiến; còn hợp lý ở chỗ có sự hỗ trợ để những
đối tượng không có khả năng cống hiến (chứ không phải có khả năng mà
không cống hiến) vẫn được hưởng thụ những nhu cầu thiết yếu.
Dưới góc độ đạo đức, theo Từ điển bách khoa Blackwell về đạo đức
kinh doanh:
Khái niệm công bằng (fairness) liên quan chặt chẽ với một số
khái niệm đạo đức khác như bình đẳng (equality), không thiên vị
(impartiality) và công lý (justice). Giống như các khái niệm kia, nó
tập trung vào cách mọi người được đối xử bởi những người khác
với yêu cầu đặc biệt rằng họ phải được đối xử như nhau trong
trường hợp giữa họ không có sự khác biệt đáng kể [49, p.272].
11
Như vậy, công bằng chính là yêu cầu về cách đối xử với con người và ở
góc độ này công bằng đòi hỏi rằng trong những điều kiện tương tự, mọi người
phải được đối xử như nhau.
Dưới góc độ kinh tế, “người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về
công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal
justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau
và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là đối xử khác
nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc
có các điều kiện sống khác nhau” [32]. Cũng giống như quan niệm ở phương
diện đạo đức, quan niệm này nhìn nhận công bằng có nghĩa là đối xử như
nhau giữa những người có đóng góp như nhau. Tuy nhiên, theo quan niệm thể
hiện ở đây, công bằng không mang nghĩa cào bằng mà còn có khía cạnh phân
hóa, tức là đối xử tương xứng với khả năng, mức độ đóng góp.
Dưới góc độ pháp luật, nhà triết học pháp luật người Mỹ John Rawls
cho rằng “công bằng là ý nghĩa cơ bản của khái niệm công lý” [48, p.164].
Hoặc cụ thể hơn, Ambrose Bierce cho rằng công bằng là sự phản ánh mối
quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân (nhóm xã hội) qua tính tương ứng giữa cái
mà nhà nước trả lại cho công dân so với cái mà anh ta (họ) làm cho nhà nước
[47, p.116]. Theo cách hiểu này, sự công bằng trong pháp luật thể hiện ở hai
khía cạnh: sự ghi nhận, quyền lợi Nhà nước trao cho chủ thể thực hiện tốt các
nghĩa vụ đối với Nhà nước; sự trừng phạt, lên án của Nhà nước dành cho chủ
thể vi phạm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Xử sự của Nhà nước đối với các chủ
thể thông qua quy định pháp luật dù theo hướng tích cực (ghi nhận) hay tiêu
cực (trừng phạt) cũng phải đảm bảo tương xứng với cách ứng xử tốt hay xấu
mà chủ thể đã thể hiện mới công bằng.
Như vậy, dưới những khía cạnh nghiên cứu khác nhau, công bằng có ý
nghĩa và tiêu chí đánh giá rất khác nhau. Tuy nhiên, có hai điểm chung phải
thừa nhận ở khái niệm công bằng trong mọi góc độ đánh giá là:
12
Một là, con người ở những điều kiện giống nhau phải được hưởng sự
đối xử như nhau từ phía Nhà nước, xã hội;
Hai là, việc đối xử của Nhà nước, xã hội đối với con người cụ thể phải
tương xứng với xử sự của họ.
Trên cơ sở tiếp cận đó, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu được
định nghĩa như sau: Công bằng là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong
xã hội được hưởng, trong đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi
người trong điều kiện tương tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng
với xử sự của bản thân họ.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Nguyên tắc theo nghĩa Từ điển là “Điều định ra, nhất định phải tuân
theo trong một loạt việc làm” [38, tr.637]. Nói một cách khác, nguyên tắc là
quy tắc cơ bản, tư tưởng chỉ đạo của một quá trình hay hoạt động nào đó. Ý
nghĩa này đều được các nhà khoa học pháp lý sử dụng khi xây dựng khái
niệm về nguyên tắc của luật hình sự.
GS.TSKH. Đào Trí Úc định nghĩa: “Nguyên tắc của luật hình sự là những
tư tưởng chỉ đạo và các định hướng đường lối cho toàn bộ quá trình quy định tội
phạm và hình phạt, áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn” [33, tr.7].
GS. TSKH. Lê Văn Cảm lại quan niệm: “Nguyên tắc cơ bản của luật hình
sự là tư tuởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật
hình sự, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự thông qua một hay nhiều quy phạm hoặc chế định của nó” [4, tr.200-201].
Chia sẻ với quan điểm này, PGS.TS. Kiều Đình Thụ cho rằng: “Các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là các tư tưởng chủ đạo, nền tảng của việc
xây dựng và thực hiện luật hình sự, phản ánh tính quy luật của cuộc đấu
tranh phòng chống và phòng ngừa tội phạm” [13, tr.16]; v.v
Như vậy, trong khoa học luật hình sự cơ bản đều thống nhất quan điểm:
13
nguyên tắc của luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên suốt
quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Theo đó, có thể suy ra bằng
phương pháp logic rằng nguyên tắc công bằng trong luật hình sự là sự thể
hiện xuyên suốt của tư tưởng công bằng trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật hình sự.
Nội hàm của khái niệm công bằng dưới góc độ chung như đã nêu ở
trên, là yêu cầu về cách đối xử mà con người trong xã hội được hưởng, trong
đó đòi hỏi việc được đối xử bình đẳng giữa mọi người trong điều kiện tương
tự và đối xử với mỗi người một cách tương xứng với xử sự của bản thân họ.
Do đó, đặt trong mối tương quan với pháp luật hình sự - lĩnh vực điều chỉnh
mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh khi tội phạm được
thực hiện [3, tr.6], nguyên tắc công bằng thể hiện thông qua “đối xử” của Nhà
nước đối với người phạm tội như thế nào. Rõ ràng, việc đối xử của Nhà nước
đối với người phạm tội chỉ công bằng khi thể hiện đầy đủ các khía cạnh: Một
là, đối xử công bằng giữa những người phạm tội và hai là, đối xử với mỗi
người phạm tội tương xứng với hành vi phạm tội của họ. Những khía cạnh
này cũng được các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam thừa nhận khi đề cập
đến nội dung của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự.
Trong nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc công bằng của luật hình
sự, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: trong pháp luật hình sự, công bằng
được khai thác trên hai khía cạnh công bằng ngang nhau và công bằng phân
phối [42, tr.48]. Công bằng ngang nhau được hiểu là việc xây dựng những
quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự, tội phạm và hình phạt bảo đảm sự
bình đẳng của mọi người trước pháp luật, có nghĩa là Nhà nước sẽ quy định
đạo luật hình sự thống nhất và những người có hành vi xâm phạm các khách
thể mà luật hình sự bảo vệ đều phải chịu sự điều chỉnh bởi các quy phạm của
đạo luật này mà không có bất cứ sự thiên vị nào. Đối với công bằng phân
14
phối, sự công bằng thể hiện ở việc các chế định pháp lý hình sự (hình phạt,
các biện pháp tư pháp, các chế định pháp lý hình sự khác) được áp dụng đối
với người phạm tội cần bảo đảm sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội,
nhân thân người phạm tội, cũng như hậu quả do hành vi phạm tội gây ra…
Nhấn mạnh hơn, tác giả cho rằng hai khía cạnh trên của công bằng tồn tại mối
quan hệ gắn bó mật thiết: trong công bằng ngang nhau có công bằng phân
phối, ngược lại, trong công bằng phân phối có công bằng ngang nhau, và
chính mối quan hệ qua lại này đã đem lại một sự hiểu đầy đủ về công bằng
dưới khía cạnh pháp luật hình sự. Từ phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm
như sau: “Nguyên tắc công bằng là phạm trù pháp lý bao gồm những nguyên
lý (đòi hỏi) chung đối với việc quy định giới hạn của sự tác động pháp lý
hình sự; cơ sở của trách nhiệm hình sự; các quy định về tội phạm và hình
phạt; các quy định về quyết định hình phạt và một số chế định khác” [42,
tr.59]. Xem xét quan điểm này cho thấy, đây là công trình nghiên cứu
tương đối công phu và những đánh giá về nội dung của nguyên tắc công
bằng trong luật hình sự rất sâu sắc, song trong khái niệm nguyên tắc công
bằng vẫn còn một điểm là chưa thể hiện được rõ vai trò của một nguyên tắc
là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt nội dung quy định pháp luật cũng như hoạt
động áp dụng quy định đó.
Không “gọi tên” là nguyên tắc công bằng, GS.TSKH. Lê Văn Cảm
nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc này với với tên gọi là nguyên tắc
công minh. Trong nghiên cứu của mình, tác giả không xây dựng khái niệm
mà chỉ phân tích những nội dung của nguyên tắc công minh trong pháp luật
hình sự, bao gồm:
1) Hình phạt, các biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý
hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội cần đảm bảo sự
15
công minh, tức là phải phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng
của hậu quả tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm
tội, mức độ lỗi cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân
thân người phạm tội; 2) Trong Bộ luật hình sự có các quy định để
đảm bảo cho Tòa án có thể (hoặc phải) lựa chọn loại và mức hình
phạt phù hợp hơn cả đối với người phạm tội căn cứ vào các tình tiết
cụ thể của việc thực hiện tội phạm (ví dụ: danh mục các hình phạt
từ nặng đến nhẹ, các chế tài lực chọn, các chế tài xác định tương
đối, danh mục các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình
sự, v.v…; 3) Không người phạm tội nào có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự hai lần về cùng một tội phạm [4, tr.206-207].
Những nội dung của nguyên tắc công minh ở đây tập trung ở hai khía
cạnh: một là, nội dung quy định cũng như việc áp dụng các chế tài của luật
hình sự phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội; hai là, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự một lần về tội mình đã phạm. Do đó, có thể đánh giá rằng, hai khía
cạnh này đã được tác giả mô tả rất cụ thể, tuy nhiên tác giả mới tập trung đề
cập đến tính tương xứng giữa tội phạm với trách nhiệm hình sự nhưng yêu
cầu của nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi phải đề cập đến yêu cầu được đối
xử công bằng giữa những người phạm tội. Bởi lẽ, yêu cầu không ai phải chịu
trách nhiệm hai lần về một tội phạm cũng nhằm bảo đảm sự công bằng giữa
những người phạm tội nhưng chưa thật đầy đủ. Sự công bằng giữa những
người phạm tội còn đòi hỏi mọi tội phạm phải bị xử lý và mọi người phạm tội
bình đẳng trước pháp luật hình sự. Rõ ràng, sẽ không thể có công bằng nếu
hành vi phạm tội này bị xử lý và hành vi phạm tội khác được bỏ qua hay nội
dung quy định pháp luật hình sự cũng như việc áp dụng quy định đó dựa trên
cơ sở sự phân biệt đối xử.
16
Tóm lại, khái niệm nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
dù diễn giải theo cách nào cũng phải phản ánh được đầy đủ những biểu hiện
về nội dung, ý nghĩa của nó. Về ý nghĩa, đã là nguyên tắc của luật hình sự
nghĩa là nó phải mang tính tư tưởng chỉ đạo, được quán triệt xuyên suốt, bao
trùm mọi quy định của luật hình sự. Về nội dung, nguyên tắc công bằng thể
hiện ở hai phương diện: công bằng giữa những người phạm tội và tương xứng
giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Trên cơ sở khái quát nội dung và ý nghĩa này, chúng tôi đưa ra khái
niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam là tư tưởng chỉ đạo định hướng cho toàn bộ quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nước ta, trong đó đòi hỏi nội dung
quy định của pháp luật hình sự, cũng như việc áp dụng các quy định đó phải
thể hiện được sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính tương
xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội.
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Là một nguyên tắc của luật hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam
nói riêng, nguyên tắc công bằng trước hết có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng việc
xây dựng, hoàn thiện và áp dụng quy định pháp luật hình sự bảo đảm sự phản
ánh ý chí của Nhà nước, nguyện vọng của nhân dân. Mục tiêu cách mạng của
Việt Nam là xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa công bằng, dân chủ, văn
minh. Tính công bằng của nhà nước phải thể hiện trên mọi phương diện chính
trị, kinh tế, xã hội và chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua chính sách,
pháp luật về các lĩnh vực của đời sống, bao gồm trong đó lĩnh vực pháp luật
hình sự. Như vậy, nguyên tắc công bằng được đặt ra trong pháp luật hình sự
chính là một trong những khía cạnh bảo đảm mục tiêu công bằng xã hội là ý
chí của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Do đó, có các ý nghĩa chính
trên các bình diện sau đây:
17
* Nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc tiến bộ, văn
minh của nhân loại nói chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng
Nguyên tắc công bằng phù hợp và phản ánh tư tưởng pháp lý tiến bộ của
nhân loại đã được thừa nhận chung: pháp luật là nghệ thuật của sự thật và công
lý - “Jus est ars borny aequi” [4, tr.207]. Tư tưởng “pháp luật là nghệ thuật
của sự thật và công lý” này cũng đã được pháp luật quốc tế ghi nhận thông
quan các quyền con người cơ bản là quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền
được xét xử không bằng, quyền không bị buộc tội hay chịu trách nhiệm hai lần
về một tội phạm trong các đạo luật nhân quyền như Tuyên ngôn toàn thế giới
về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị của Liên
Hợp quốc năm 1966. Hay ngay cả Hiến pháp Việt Nam năm 2013 cũng đã thừa
nhận những quyền cơ bản này ở các Điều 16 và 31. Do vậy, sự thể hiện của
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam không chỉ phản ánh tư
tưởng pháp lý tiến bộ mà còn đáp ứng yêu cầu của pháp luật quốc tế và bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cùng vị trí tối cao của Hiến pháp.
* Nguyên tắc công bằng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực
hiện hiệu quả các nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam
Ba nhiệm vụ chính của luật hình sự tương ứng với ba chức năng của
luật hình sự - chức năng bảo vệ, phòng ngừa (tội phạm) và giáo dục (giáo dục
người phạm tội và những người khác trong xã hội). Ba chức năng hay ba
nhiệm vụ này có mối liên hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong các nhiệm
vụ trên thì nhiệm vụ bảo vệ là nhiệm vụ quan trọng trước tiên. Bởi lẽ,
Là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống tư pháp
hình sự, luật hình sự được coi là công cụ phản xạ tự vệ của xã hội
chống lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà
nước, cho con người. Chính vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của luật hình
sự là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia nào, luật hình sự
cũng có nhiệm vụ ấy [34, tr.90].
18
Do đó, các nhiệm vụ của luật hình sự “gắn liền với việc thực hiện chính
sách hình sự và chính sách phòng ngừa tội phạm của Nhà nước và với thực
tiễn các quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội” [39, tr.50]. Bên cạnh
nhiệm vụ trừng trị tội phạm để bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích
của con người, của xã hội, luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người ý
thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mục đích đó chỉ
đạt được khi các biện pháp xử lý tội phạm được quy định và áp dụng chính
xác, công bằng, tương xứng với hành vi phạm tội. Biện pháp xử lý quá nhẹ
vừa không đủ để trừng trị người phạm tội một cách thích đáng, vừa làm giảm
ý nghĩa phòng ngừa của chế tài hình sự, bởi nó có thể làm phát sinh thái độ vô
trách nhiệm, coi thường pháp luật, nảy sinh ý định phạm tội. Biện pháp xử lý
quá nặng tạo ra tâm lý oán hận, thái độ chống đối xã hội ở người phạm tội.
Việc tội phạm bị bỏ lọt, xử nặng quá hay nhẹ quá đều làm mất niềm tin của
quần chúng nhân dân vào Nhà nước, pháp luật.
Tóm lại, nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định pháp luật
hình sự phải công bằng thì nhiệm vụ giáo dục ý thức pháp luật của ngành luật
này mới được bảo đảm thực hiện. Chính vì những ý nghĩa trên mà sự hiện diện
của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự nói chung, luật hình sự Việt Nam
nói riêng làm rõ tính ưu việt của chế độ pháp luật, củng cố niềm tin của nhân
dân vào công lý, chính quyền, góp phần tạo dựng nền tảng công bằng xã hội.
1.2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Như thể hiện trong khái niệm đã nêu trên, nguyên tắc công bằng đòi hỏi
nội dung quy định cũng như việc áp dụng quy định luật hình sự phải thể hiện
được hai yếu tố: sự đối xử công bằng giữa những người phạm tội và tính
tương xứng giữa biện pháp trách nhiệm hình sự với hành vi phạm tội và nhân
thân người phạm tội. Đó cũng chính là những nội dung cơ bản của nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự.