Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

So sánh để thấy được sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương đông và triết học phương tây trong lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.02 KB, 15 trang )

A – MỞ ĐẦU
Trong quá trình học tập và nghiên cứu môn triết học, em cảm thấy sự vận
động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại nói chung và tư tưởng triết học
nói riêng, triết học Phương Đông và triết học Phương Tây có nhiều nội dung rất
phong phú và đa dạng, có thể nói là trung tâm tư tưởng và văn hóa lớn của thế
giới, đặc biệt những tư tưởng triết học và văn hóa của Phương Đông đã có ảnh
hưởng rất lớn đối với văn hóa Việt Nam nói riêng, hơn thế nữa triết học Phương
Đông, triết học Phương Tây những giá trị của nó đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét
và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người, không thể thoát ly về những vấn
đề chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết
học Phương Tây vẫn có những đặc điểm và đặc thù riêng của nó. Nghiên cứu về
hai nền triết học trên, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của nó là một vấn đề rất
phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó chúng ta có thể hiểu biết sâu sắc thêm
những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặt khác, bản sắc văn hoá Việt
Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học Phương Đông, do đó chúng ta
nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đông trong mối quan hệ với
đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn trong
thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn bản sắc văn hoá Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu triết học Phương Đông và triết học Phương Tây rất cần thiết
để góp phần tìm hiểu lịch sử tư tương văn hóa của Phương Đông và Phương
Tây, do đó, em chọn vấn đề “So sánh để thấy được sự giống nhau và khác
nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây trong lịch sử triết
học” làm đề tài nghiên cứu trong bài tiểu luận môn học của mình.
1
B - NỘI DUNG
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Triết học Ấn Độ cổ đại bị chi phối trực tiếp và sâu sắc bởi xu hướng tín
ngưỡng và tôn giáo truyền thống mạnh hơn nhiều so với các nền triết học khác, ở
nơi đây khó phân biệt tôn giáo và triết học. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ
nghi huyền bí. Hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết


vần đề nhân bản. Trong nhân sinh quan của triết học thường quanh vấn đề “giải
thoát”, “siêu thoát”. Các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết
học trước đó. Do vậy phần lớn các tác phẩm triết học Ấn Độ không có niên đại rõ
ràng, dù phong phú và đa dang, có nhiều tư tưởng sấu sắc về bí ẩn thế giới và đời
sống con người, nhưng vận động chậm chạp, khi bàn về vấn đề bản thể luận, có
một số trường phái xoay quanh vấn đề “tính không”, đem đối lập “không” và “có”
về cái “không”. Điều đó thể hiện trình độ tư duy trừu tượng cao.
Do điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời kỳ này, trên đất nước
Ấn Độ hình thành rất nhiều tiểu vương quốc độc lập với nhau, điều này dẫn đến
hình thành nhiều trường phái tôn giáo – triết học khác nhau.
Theo cách phân chia truyền thống, ở Ấn Độ cổ, trung đại có 9 hệ thống triết
học, được chia làm 2 loại: 6 trường phái chính thống bao gồm triết học
Safmkhya, Mìmàsa, Vêdànta, Yoga, Nyaya, Vaisêsyka là các trường phái trung
thành với kinh Veeda, kinh Upanishd, đạo Balamon truyền thống, tin ở thần linh
(Astika, nghĩa là tin vào thế giới bên kia), thừa nhận tính đúng đắn tuyệt đối của
Vesda và 3 trường phái không chính thống bao gồm đạo Jaina, Lôkayata, Phật
giáo, không tin ở thần linh (Nastika, nghĩa là làm ô nhục Vesda), phủ nhận uy
thế của thánh kinh Vesda, có kinh điển riêng và bị gọi là “tà giáo”.
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề
của triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức
luận và nhân sinh quan, triết học Ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái
quát khá sâu sắc; đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản triết
học của nhân loại, quan tâm giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm
linh tôn giáo với xu hướng “hướng nội”, đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã
của một thực thể cá nhân, sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của
nhiều học thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokayata), và
hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến
hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Những điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của “phương thức sản xuất châu
Á” ở Ấn Độ vào tư duy triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành một trong

những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó.
2
2. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Trung Quốc Cổ, Trung Đại
Thứ nhất, triết học Trung Quốc thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn.
Chú trọng luận bàn đến những vấn đề liên quan đến con người như triết học
nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn
triết học tự nhiên mờ nhạt.
Thứ hai, nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên, xã hội và nhân sinh.
Đa số các nhà triết học đều nhấn mạnh hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi
trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các sự vật, coi việc điều hòa
mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề.
Các trường phái triết học đều phản đối “thái quá”, “bất cập”… coi trọng “thiên
nhân hợp nhất”, “tri thành hợp nhất”, “thể dụng như nhất”, “tâm vật dung hợp”…
Thứ ba, tư duy triết học mang tính trực giác, tức là có trong sự cảm nhận
hay thể nghiệm. Cảm nhận theo cách đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao
tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi dậy linh cảm nhiều chiều trong chốc lát, từ đó
mà nắm bản thể trừu tượng. Hầu hết các nhà tư tưởng triết học Trung Quốc đều
quen tiến hành trực quan thể nghiệm lâu dài, rồi bỗng chốc giác ngộ, nêu nhận
xét, ý tưởng. Vì vậy, thiếu sự chứng minh rành rọt, thiếu suy luận logic. Cuối
cùng, triết học Trung Quốc cổ đại thiếu những phương pháp cần thiết để xây
dựng một hệ thống lý luận khoa học.
Trong suốt chiều dài hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc, các học thuyết
được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận thuộc về trường phái đã có
nào đó từ thời cổ đại mà không lập học thuyết mới
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ xã hội phong kiến, do vậy mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Quốc cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội. Mặc dù vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và
đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng tư tưởng của các
nhà triết học Trung Quốc đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã

hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những
giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Ngoài ra, nền triết học Trung Quốc thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết
học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng
về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng vẫn là
những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung
Quốc cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những
của người Trung Quốc mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học
Trung Quốc.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
3
Triết học Hy Lạp – La Mã tồn tại hơn 1000 năm với nội dung phong phú,
đa dạng, bao trùm mọi lĩnh vực tri thức của con người. Nội dung triết học Hy
Lạp – La Mã cổ đại đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thế giới và lý giải những vấn đề
phức tạp trong cuộc sống người Hy Lạp – La Mã cổ. Nhiều vấn đề đặt ra từ đây
vẫn mang ý nghĩa thời sự cần giải đáp trong điều kiện ngày nay.
Khoa học tự nhiên và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau, các nhà khoa học
tự nhiên đồng thời là các nhà triết học. Các khái quát triết học thường tập trung
hướng về các vấn đề tự nhiên.
Các hệ thống triết học Hy Lạp cổ đại nói chung đều có xu hướng đi sâu vào
giải quyết các vấn đề bản thể luận của triết học, bên cạnh đó, những tư tưởng
biện chứng với tư cách là những tư tưởng triết học về sự phát triển mà điển hình
là những tư tưởng của Heraclit đã trở thành nét khác biệt giữa triết học Hy Lạp
với nền triết học phương Đông cổ đại
So với các giai đoạn phát tiển triết học ơ các nước Tây Âu sau này thì nền
triết học Hy Lạp cổ đại nói chung còn ở trình độ trực quan, chất phát, đặc biệt là
đối với các hệ thống triết học duy vật biện chứng. Tuy vậy nó đã đặt ra hầu hết
các vấn đề căn bản của triết học, bao chứa tất cả thế giới quan về sau.
Sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học; duy vật và duy tâm,

biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát
sinh phát triển triết học Hy Lạp cổ đại (đây là sự khác biệt cơ bản so với tư
tưởng triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại).
Các trường phái triết học đại diện cho tư tưởng của mỗi tập đoàn xã hội
nhất định. Tầng lớp chủ nô dân chủ đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật,
vô thần, đấu tranh thúc đẩy xã hội phát triển. Còn tầng lớp chủ nô quý tộc đứng
trên lập trường duy tâm và tôn giáo, lạc hậu, chống lại tầng lớp chủ nô dân chủ
nhằm duy trì trật tự xã hội và địa vị xã hội của mình.
Những đặc điểm này không chỉ là cái phân biệt giữa hai nền triết học Đông
– Tây cổ đại mà còn tác động tới các giai đoạn phát triển của triết học Tây Âu
sau này. Đồng thời những nét đặc trưng ấy còn nói lên vị trí, vai trò của nền triết
học Hy lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới, nó làm phong phú tư duy triết
học và chính nó đã đặt nền tảng cho sự phát triển triết học Tây Âu sau này.
2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời Trung cổ
Từ thế kỷ thứ II, ở Tây Âu có sự tan rã của chế độ nô lệ, chế độ phong kiến
từng bước hình thành. Người ta thường coi thời trung cổ là xã hội Tây Âu trong
khoảng thế kỷ IV-XIV. Đây là thời kỳ xuất hiện và phát triển của phương thức
sản xuất phòng kiến phương Tây, nó có nhiều nét khác biệt với phong kiến
phương Đông. Song hành với phương thức sản xuất phong kiến là quá trình hình
thành những giai cấp cơ bản trong xã hội: chúa đất và nông nô.
Sự hình thành những điền trang, thái ấp phong kiến ở các quốc gia phòng
kiến Tây Âu đã tạo ra chế độ phong kiến cát cứ phân quyền (còn ở phương
4
Đông là tập quyền). Đây chính là nguy cơ phân tán lực lượng kinh tế và chính trị
của các nước này.
Lênin nhận định rằng nền kinh tế của thời kỳ này nằm trong tay những
người tiểu nông, những người khốn cùng phụ thuộc, nhục nhã về mặt cá nhân và
tối tăm về trí tuệ. Thời kỳ đầu trung cổ, toàn bộ đời sống xã hội suy đồi trầm
trọng. Những thế kỷ tiếp theo, chế độ phong kiến cũng tạo ra được một sự phát
triển xã hội cao hơn xã hội cổ đại: kỹ thuật và nghề thủ công dần dần được phát

triển; dân cư tăng nhanh các thành thị ra đời, tạo ra những tiền đề cho sự phục
hưng mới của khoa học và văn hóa.
Để tạo dựng những quốc gia phong kiến thống nhất trong điều kiện đó, tất
yếu phải có tôn giáo một thần, chiếm độc tôn với vai trò cố kết khối cộng đồng bị
cát cứ lại. Đạo Cơ đốc (ra đời từ thế kỷ thứ nhất) giữ vai trò thống trị mặt tinh
thần của xã hội trung cổ phương Tây. Theo Angghen, nhà thờ thời trung cổ là một
tổ chức tập quyền hùng mạnh, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội làm cho triết học, luật học, chính trị học biến thành các bộ môn của thần học.
Do triết học bị chi phối rất mạnh của thần học nên nó phải có tính kinh viện
và đây là nét đặc trưng tiêu biểu cho triết học thời kỳ này. Triết học khi này có
nhiệm vụ làm cho quần chúng tin vào trật tự phong kiến, tin vào sự bất bình
đảng và sự bóc lột là do Chúa sáng tạo ra. Chủ nghĩa kinh viện tuyên truyền
cuồng tín, tiêu diệt tư tưởng tự do, Những vấn đề trung tâm của triết học tất phải
là vấn đề quan hệ giữa niềm tin tôn giaó và trí tuệ lý trí, giữa cái chung và cái
riêng (giữa khái niệm và các sự vật đơn lẻ). Cũng vậy, biểu hiện đặc thù của
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật ở thời kỳ này là
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc
giải quyết các vấn đề trung tâm của triết học.
Đời sống tinh thần xã hội Tây Âu thời Trung cổ chịu ảnh hưởng sâu sắc
những quan điểm, tư tưởng trong thần học. Triết học chính thống của xã hội là
chủ nghĩa kinh viện. Mặc dù vậy, cuộc đấu tranh của xu hướng duy vật chống
lại chủ nghĩa kinh viện vẫn tiếp tục diễn ra. Trong cuộc đấu tranh đó, thần học
và những tư tưởng phản tiến bộ của triết học kinh viện từng bước bị phủ nhận và
loại bỏ, triết học duy vật và khoa học tự nhiên dần được nhen nhóm và khẳng
định vai trò của nó. Đây là những nhân tố tích cực cho sự khôi phục và khẳng
định các học thuyết khoa học duy vật thời kỳ cổ đại và phát triển chúng trong
thời kỳ Phục hưng – Cận đại.
3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Thời kỳ Phục hưng (khôi phục lại nền văn hóa cổ đại) diễn ra từ thế kỷ
XV-XVI ở Tây Âu. Về mặt hình thái kinh tế - xã hội là thời kỳ quá độ từ xã hội

phong kiến sang xã hội tư bản. Khi này, sự phát triển khoa học đã dần dần thoát
ly khỏi thần học và tôn giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc
lập. Giai cấp tư sản mới hình thành, đang giữ vai trò tích cực thúc đẩy tiến bộ xã
hội, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ
5
thuật và sản xuất. Sự phát triển của khoa học tự nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ
chống thế giới quan duy tâm tôn giáo. Cuối cùng, sự phát triển khoa học tự
nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có tính chất duy
vật từ các tri thức khoa học cụ thể.
Thời kỳ này nổi lên các nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicolai
Copecnich, Bruno, Galile, Nicolai Kuzan, Tomat Moro…
Tóm lại, vào thời kỳ này cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo diễn ra gay gắt. Song cũng cần thấy rằng, triết học
của hầu hết các nhà tư tưởng thời kỳ này còn lẫn lộn các yếu tố duy vật với duy
tâm và có tính chất phiếm thần luận (chẵng hạn, Bruno cho rằng Thượng đế và
tự nhiên chỉ là một)
4. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại thế kỷ
XVII – XVIII
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, sự phát triển của lực lượng sản xuất
làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời, mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt. Điều đó làm cho những cuộc cách
mạng tư sản bắt đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, Ý, Áo,v.v Đòn giáng mạnh
nhất vào chế độ phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ
XVII) và cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Mác nhận định đó là
những cuộc cách mạng có quy mô toàn châu Âu, đánh thắng lợi của trật tự tư
sản mới đối với trật tự phòng kiến cũ.
Thời kỳ này khoa học kỹ thuật cũng phát triển mạnh do nhu cầu của sự phát
triển sản xuất. Thế kỷ XVII – XVIII cơ học phát triển, sau đó thế kỷ XVIII-XIX
vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế học trỗi dậy. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự
phát triển rực rỡ của triết học Tây Âu, với khuynh hướng duy vật chiếm vai trò

chủ đạo, phát triển trong mối liên minh với khoa học tự nhiên, đồng thời lý luận
nhận thức cũng là một chủ đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà triết học.
Tóm lại sau 1000 năm phát triển hết sức khó khăn ở thời kỳ Trung cổ, triết
học Tây Âu phục hồi mạnh mẽ ở thời kỳ Phục hưng và đạt được sự phát triển
rực rỡ ở thời kỳ Cận đại.
Tuy có những hạn chế phương pháp tư duy siêu hình, máy móc, quan điểm
duy tâm về xã hội…nhưng triết học thời kỳ cận đại có một vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển triết học của nhân loại. Những tư tưởng duy vật tiến bộ và
những yếu tố biện chứng thời kỳ này đã được các nhà triết học duy vật thời sau
phát triển, đồng thời được Mác, Angghen, Lenin chọn lọc và kế thừa trong quá
trình xây dựng học thuyết triết học Mácxit.
5. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII
– nửa đầu thế kỷ XIX
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức
cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, thể hiện nguyện vọng đấu tranh cho một
6
trật tự xã hội mới ở Đức, mong muốn sự phồn thịnh và thống nhất đất nước.
Nhưng tính cách mạng và khoa học về tư tưởng ấy mâu thuẫn với sự bảo thủ, cải
lương về lập trường chính trị - xã hội.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con
người, coi con người là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Đề
cao sức mạnh của trí tuệ con người, thần thánh hóa con người đến mức coi con
người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt
động của con người (trong triết học của Kant), ý thức con người đã được thần
thánh hóa biến thành lực lượng siêu tự nhiên chi phối toàn vũ trụ (trong triết học
của Heghen), tình yêu con người trở thành công cụ, phương tiện giải phóng
(trong triết học của Phơbach). Đây là một trong những nguyên nhân làm cho
triết học cổ điển Đức có tính duy tâm. Hơn nữa, triết học Đức không phản ánh
trực tiếp hiện thực của mình, các nguyên lý triết học là kết quả suy lý chủ quan
thuần túy. Những điều đó đẩy triết học cổ điển Đức rơi vào lập trường duy tâm.

Một mặt triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong
các di sản triết học truyền thống, mặt khác, thành tựu trong các khoa học tự
nhiên gợi ý về sự vận động, phát triển của thế giới, sự liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng v.v nên nó đã xây dựng được phương pháp biện chứng khá hoàn
chỉnh, mặc dù dưới hình thức duy tâm.
Triết học cổ điển Đức có tham vọng hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành
tựu của nhân loại để xây dựng một hệ thống triết học vạn năng, làm nền tảng
cho toàn bộ thế giới quan, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của
các khoa học
Dù còn nhiều hạn chế nhưng triết học cổ điển Đức vẫn là giai đoạn phát triển
rực rỡ, dường như tất cả lịch sử triết học trước đó chỉ là sự chuẩn bị cho sự ra đời
của triết học cổ điển Đức. Vì lẽ đó nó là tiền đề trực tiếp của triết học Mác.
Ra đời và phát triển trong điều kiện thực tiễn lạc hậu, nhưng với năng lực
tinh thần tuyệt vời các triết gia Đức thời kỳ cổ điển đã để lại cho hậu thế những
hệ thống triết học đồ sộ với những nội dung phong phú, sâu sắc.
Mặc dù không tránh khỏi những yếu tố không tưởng, cường điệu, phiến
diện về nhận thức và bảo thủ, cải lương về xã hội, nhưng rõ ràng triết học cổ
điển Đức là một giai đoạn phát triển đặc biệt quan trọng trong triết học trước
Mác với vai trò là một trong những tiền đề lý luận để Mác, Angghen xây dựng
học thuyết triết học của mình.
III. SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA
TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VA TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
1. Sự giống nhau
Theo C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng
ta phải hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo
C.Mác, tồn tại xã hội luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn tại xã
7
hội – những điều kiện sinh hoạt về vật chất của xã hội. Chính vì thế, các trào lưu
triết học Phương Đông và Phương Tây đều được nảy sinh trên những điều kiện
kinh tế - xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa cơ

sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì triết học là một yếu tố của kiến trúc
thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Phương Đông – Phương Tây đều
chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó cũng có vai trò hết sức to
lớn đối với cơ sở hạ tầng, triết học phương Đông, phương Tây tất cả tư tưởng
triết học đều thể hiện quan niệm của con người về hiện tượng tự nhiên và xã hội
xung quanh họ và đều chịu sự quy định tồn tại xã hội bao gồm kinh tế, chính trị,
xã hội sự phát triển khoa học nhận thức của mỗi thời kỳ.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc đấu
tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan niệm duy
vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong xã hội và
ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền với lực lượng
lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Triết học Phương Đông và Phương Tây có thể sử dụng những khái niệm,
phạm trù khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết học, đồng
thời đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thế giới: Phương
pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con người ở
những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những thời kỳ
lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người.
Các học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều có khuynh
hướng chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc
trong sự phát triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ những quan
niệm lạc hậu, hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãn quan của giai cấp
thống trị.
Mà mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng
vậy, đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo nên
những giá trị văn minh nhân loại và các tư tưởng triết học ngày càng hoàn thiện.
2. Sự khác nhau

Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và
đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về cả
điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất của
phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức sản
xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác như văn hoá phương
Đông mang nặng tính chất cộng đồng còn phương Tây mang tính cá thể.
8
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn được thể
hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc
“thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là: Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền
thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I
trước công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển
của những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ
con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ
thống lớn trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người
cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la.
Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng
duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ
quan và trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm
“vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú
vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới
khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như
vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn,
không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta,
lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến
cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời
đất: trời có chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh
hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết

quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân
Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm
dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những
quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã
bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong
quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng trong tự
nhiên cũng như trong xã hội. Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình
thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn
từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị
thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ
của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng
như:
Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn
giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sáng tạo và chi
phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của
tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và
có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và
ràng buộc của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy
nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy
sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là
9
đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực
sự, là khách thể. Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô
hình hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người
mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của
“tinh thần tối cao”. Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở
quyết định nhiều đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người
làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu
thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học
phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặt trọng

tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ
được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm
nét về bản thể luận của vũ trụ. Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người
phương Đông cũng quan niệm khác phương Tây: Ở Phương Đông người ta đặt
trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, ít quan
tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác
theo lập trường của giai cấp thống trị cho nên nghiên cưú con người không phải
là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa
người với người trong lao động sản xuất. Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến
mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người,
chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân
kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng
thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái
kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia
với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm
tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan xen với
chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói
chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc lập
với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết
học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn
giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về
chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen
kẽ. Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ
nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế
kỷ 19). Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi
sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân
– lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời

tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ
thường, đời Tống biến thành chữ Lý Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới
hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó
10
để hoàn thiện và phát triển nó hơn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục
đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã
được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc
đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không triệt đễ. Có tình
trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế,
giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau. Ngược lại ở phương Tây lại
có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại
có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cổ đại bên
cạnh trường phái Talét, Hêraclit đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp,
Chủ nghĩa duy vật ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức Và hơn nữa cuộc đấu
tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, sự phân chia trường phái triết học cũng khác: Ở phương Đông đan
xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét.
Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là
có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy
tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân
kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và
các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật
siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với
triết học phương Tây ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”,
“vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình, vạn
pháp, hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ Để nói về bản chất của vũ
trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương Tây

dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý thức,
tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình
– thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ
“biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh
cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch,
vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì
phương Đông triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang
tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông
dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên
nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc
của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn
vũ trụ là tập hợp khổng lồ các soắn ốc
11
Thứ sáu, tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải
quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan.
Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai
phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy
vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn
phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu
cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được,
nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang
– dự báo.
Trên đây là một vài điểm khác biệt căn bản giữa triết học phương Đông và
phương Tây mà chúng ta có thể nhận thấy, ngoài ra chúng còn có nhiều điểm
khác biệt với nhau nữa mà trong thời gian có hạn em có thể chưa tìm ra được.

Rất mong sự góp ý của cô giáo!
12
C- KẾT LUẬN
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu và so sánh sự giống nhau và khác nhau của
lịch sử triết học Phương Đông và lịch sử triết học Phương Tây giúp chúng ta
càng hiểu nhiều hơn về nền lịch sử triết học của các nước Phương Đông và
Phương Tây, từ đó giúp chúng ta hiểu được triết học là hình thái ý thức xã hội ra
đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô
lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI
trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại
và ở các nước khác.
Theo quan điểm của mác xít triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của
con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Will Durant – Nhà triết gia, nhà sử gia đã viết: “Chúng ta sẽ ngạc nhiên nếu
được biết các món nợ tinh thần của chúng ta đối với Ai Cập và Phương Đông,
nợ về các phát minh hữu ích cũng như về tổ chức chính trị, kinh tế, về khoa học,
văn chương, triết học, tôn giáo. Hiện nay Châu Á tràn trề một sinh lực mới, càng
ngày càng mau đuổi kịp Châu Âu và chúng ta có thể đoán được rằng vấn đề
quan trọng của thế kỷ XX sẽ là sự xung đột giữa Đông và Tây; vậy thì viết sử
mà có óc hẹp hòi theo truyền thống cũ, bắt đầu bằng sử Hy Lạp, chỉ chép vài
hàng về sử Châu Á… thì là thiển cận, thiếu hiểu biết, hậu quả có thể tai hại.
Tương lai ở phía Thái Bình Dương và chúng ta phải hướng cặp mắt và trí óc về
phía đó”. Đúng thật vậy, có một thời gian dài, chúng ta chỉ nghiên cứu triết học
Phương Tây, chính vì thế chúng ta không nhận thức được những giá trị của triết
học Phương Đông. Không thấy được sự khác nhau giữa đặc điểm triết học
Phương Đông và Phương Tây.
Ngày nay, các trào lưu triết học Phương Đông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn
trong xã hội Phương Đông hiện đại, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo. Các nhà

tư tưởng đang tìm mọi cách để khai thác những yếu tố tích cực của triết học
Phương Đông, để góp phần tạo nên nguồn lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Các trào lưu của triết học Phương Tây hiện đại ngày nay phản ánh sâu sắc
những mâu thuẫn khách quan của xã hội tư bản hiện đại. Trong đó chủ nghĩa
duy lý là động lực tạo nên nền văn minh hiện đại, còn chủ nghĩa phi duy lý lấy
nhân tố con người để “tự cai trị” trong một xã hội ngày càng bị duy lí hoá đe doạ
cuộc sống của con người. Hai xu hướng triết học đó lại được tăng cường bởi
triết học tôn giáo. Chúng không hoàn toàn đối lập nhau một cách tuyệt đối mà
dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của con
người trong thế giới Phương Tây hiện đại. Nhưng trong thực tế, xã hội tư bản
hiện đại đã sản sinh ra những cá nhân vị kỷ, tình trạng bạo lực… đe doạ sự bất
ổn trong xã hội. Và hiện nay, các nhà tư tưởng Phương Tây đang quay về nghiên
cứu Phương Đông để học tập cái hay, cái đẹp của Phương Đông, đúng như dự
13
đoán của sử gia người Pháp Y.Michelet: “Người nào đã từng hành động hoặc
ham muốn quá nhiều, hãy uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở
Phương Tây cái gì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do
Thái khô khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về Châu Á cao cả và
Phương Đông thâm trầm trong giây lát”.
Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiên cứu
những giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triết học
Phương Đông. Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc
những học thuyết triết học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo, Đạo gia.
Những học thuyết đó trong lịch sử đã bị “Việt Nam hoá” và là những thành tố
tạo nên bề dày của bản sắc văn hoá Việt Nam. Để từ đó phát huy nội lực, phát
huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
Chính vì vậy được học tập, nghiên cứu môn triết học và so sánh sự giống
nhau và khác nhau của lịch sử triết học các nước là điều quan trọng trong mỗi
chúng ta./.

14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Thị Thanh Hương – CN. Nguyễn Văn Đại: Khái lược lịch sử
triết học, Nxb Chính trị - hành chính, Hà Nội, 2013
2. TS. Bùi Thị Thanh Hương – Nguyễn Đình Trình: Giáo trình Lịch sử
Triết học cổ điển Đức, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội,2014
3.Học viện Báo chí và tuyên truyền – Khoa triết học: Giáo trình lịch sử triết
học Trung Quốc thời kỳ Cổ - Trung đại, Nxb chính trị - hành chính, 2012
4.Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Giáo trình triết học Mác – LêNin, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
15

×