Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Đánh giá hiện trạng môi trường khu công nghiệp tiên sơn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.73 KB, 117 trang )

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
là trung thực và chưa qua sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cũng xin cam kết chắc chắn rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc, bản luận văn này là nỗ lực, kết quả là việc của cá nhân tôi (ngoài
phẫn đã trích dẫn).
Tác giả luận văn
Đinh Thị Huệ Linh
Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn Thạc Sĩ: “Đánh giá
hiện trạng môi trường Khu công nghiệp Tiên Sơn”, tôi đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cám ơn tập thể các thầy cô giáo trong khoa Tài
nguyên và Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, đã giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hòa thành luận vưn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Danh Thìn - Giảng viên
hướng dẫn khoa học đã trực tiếp đóng góp những ý kiến quý báu và giúp đơ tôi
trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin trân thành cám ơn Trung tâm Quan trắc Phân tích Tài nguyên Môi trường
Bắc Ninh, Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, Chi cục bảo vệ môi
trường Bắc Ninh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu khách
quan giúp tôi hoàn thành luận văn.
Gia đình và bạn bè giúp đỡ tôi về vật chất và tinh thần để tôi hoàn thành học tập
và hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Tác giả luận văn
Đinh Thị Huệ Linh
Danh mục các chữ viết tắt
Bộ KHCN&MT : Bộ Khoa học công nghệ và môi trường
Bộ TN&Mt: Bộ Tài nguyên và Môi trường
BQL: Ban quản lý


BVMT: Bảo vệ môi trường
CCN: Cụm công nghiệp
CTNN: Chất thải nguy hại
CTR: Chất thải rắn
ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐTM: Đánh giá tác động môi trường
KCN: Khu công nghiệp
KCX: Khu chế xuất
KKT: Khu kinh tế
NXB: Nhà xuất bản
QLMT: Quản lý môi trường
UBND: Ủy an nhân dân
VSMT: Vệ sinh môi trường
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Hàng loạt khu công nghiệp tập trung đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Sự
hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao
ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đem lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế
nước nhà.
Song hành cùng với sự phát triển công nghiệp và khu công nghiệp, vấn đề
ô nhiễm, suy thoái môi trường và cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên đang
ngày càng gia tăng. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều nỗ lực khắc phục các tác
động tiêu cực đến môi trường do hoạt động sản xuất gây ra, chúng ta cũng phải
nhìn nhận một thực tế rằng chúng ta đang xử lý các “triệu chứng môi trường”
(nước thải, chất thải rắn, khí thải ) thay vì giải quyết các “căn bệnh môi
trường” (nguyên nhân làm phát sinh chất thải).
Tính đến nay, Bắc Ninh có 15 khu công nghiệp tập trung được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt. Khu công nghiệp Tiên Sơn là khu công nghiệp đầu tiên và
lớn nhất của tỉnh Bắc Ninh, được triển khai xây dựng năm 1999 với diện tích

350ha theo quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 18 tháng 12 năm 1998 của thủ
tướng chính phủ về việc thành lập và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng và kinh
doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Tiên Sơn- Bắc Ninh, quyết định số
1192/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 1999 của thủ tướng Chính Phủ về việc cho
Tổng công ty Thủy tinh và gốm xây dựng(VIGLACERA) – Bộ xây dựng thuê
đất để đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp Tiên Sơn.
Bên cạnh những lợi ích đạt được của việc xây dựng khu công nghiệp thì
nó cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên. Chính vì vậy tôi đã
chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng môi trường khu công nghiệp Tiên Sơn tỉnh
Bắc Ninh”.
1.2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng môi trường khu công nghiệp Tiên Sơn, tỉnh Bắc
Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường tại
khu công nghiệp.
1.2.2. Yêu cầu nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát về hoạt động của khu công nghiệp Tiên Sơn
- Đánh giá thực trạng quản lý môi trường khu công nghiệp
- Đánh giá thực trạng môi trường khu công nghiệp
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý môi trường khu công
nghiệp.
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1 Quản lý môi trường và các công cụ quản lý môi trường khu công nghiệp
1.1.1 Khái niệm khu công nghiệp
Theo nghị định 29/2008/NĐ-CP của chỉnh phủ quy dịnh về thành lập,
hoạt động, chính sách và quản lý nhà nước đối với KCN, khu chế xuất (KCX),
khu kinh tế (KKT), KKT cửa khẩu thì KCN được định nghĩa như sau: “khu
công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều
kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này”. (nguồn

khucongnghiep.com.vn)
Sự phát triển của các KCN sẽ đưa đến sự tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, quá trình này
cũng sẽ gây áp lực mạnh mẽ cho môi trường.
1.1.2 Định nghĩa quản lý môi trường
Quản lý môi trường là một hoạt động nhằm vào việc tổ chức thực hiện
cũng như giám sát các hoạt động bảo vệ, cải tạo và phát triển các điều
kiện môi trường và khai thác sử dụng tài nguyên một cách tối ưu. Theo
một số tác giả, thuật ngữ về quản lý môi trường gồm hai nội dung chính:
quản lý Nhà nước về môi trường và quản lý của các doanh nghiệp, khu
vực dân cư về môi trường. Trong đó nội dung thứ 2 có mục tiêu chủ yếu
là tăng cường hiệu quả của hệ thống sản xuất và bảo vẹ sức khở người lao
động, dân cư sống trong khu vực chịu ảnh hưởng của các hoạt động sả
xuất.
Theo tác giả Trần Thanh Lâm (2006) thì “quản lý môi trường là sự tác
động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường
lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển
trong hệ thống môi trường và các khách thể quản lý môi trường, sử dụng
một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu quản
lý môi trường đã đề ra, phù hợp với pháp luật và thông lệ hiện hành”;
theo Lưu Đức Hải (2005) “quản lý môi trường là một hoạt động trong
lĩnh vực quản lý xã hội có tác dụng điều chỉnh các hoạt động của con
người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối thông tin
đối với các vấn đề môi trường có liên quan đến con người; xuất phát từ
quan điểm định lượng, hướng tới sự phát triển bền vững và sử dụng hợp
lý tài nguyên”.
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp luật
pháp chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, xã hội, văn hóa giáo
dục các biện pháp có thể đan xen, phối hợp tích cực với nhau tùy theo
điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra. Việc thực hiện quản lý môi trường

được thực hiện ở mọi quy mô: toàn câu, khu vực, quốc gia, vùng, tỉnh,
huyện ( Hồ Thị Lam Trà, 2009).
1.1.3. Các công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp và phương tiện
mà các nhà quảy lý sử dụng để thực hiện các nội dung của quản lý môi
trường ( Bộ tài nguyên & môi trường, 2009).
1.1.3.1. Đặc điểm
Công cụ quản lý là vũ khí hoạt động của nhà nước trong việc thực hiện
công tác quản lý môi trường quốc gia và rất đa dạng, không có một công
cụ nào có giá trị tuyệt đối trong việc quản lý môi trường. Mỗi công cụ có
chức năng và phạm vi tác động nhất định, chúng tạo ra một tập hợp các
biện pháp hỗ trợ nhau. Việc nghiên cứu và hoàn thiện các công cụ quản
lý là điều bắt buộc phải làm thường xuyên ở các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường và là công tác trọng tâm của nghành môi trường.
1.1.3.2. Phân loai công cụ quản lý môi trường và ưu nhược điểm của các
công cụ quản lý.
Việc phân loại công cụ quản lý môi trường theo chức năng và theo bản
chất.
• Dựa theo chức năng, công cụ quản lý môi trường được phân ra thành 3
nhóm công cụ:
- Nhóm điều chỉnh vĩ mô: Phạm vị điều chỉnh rộng lớn, bao gồm luật
pháp, chính sách.
- Nhóm công cụ hành động: Phạm vi điều chỉnh trong lĩnh vực cũ thể,
gồm các công cũ hạnh chính, xử phạt vi phạm môi trường trong kinh
tế, sinh hoạt; công cụ kinh tế, có tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế-
xã hội của cơ sở sản xuất kinh doanh .
- Nhõm phụ trợ: Là các công cụ không có tác động điều chỉnh hoạc
không tác động trực tiếp tới hoạt đông. Các công cụ này dùng để quan
sát, giám sát các hoạt động gây ô nhiễm, giáo dục con người trong xã
hội. Công cụ phụ trợ có thể là các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình

hóa
• Dựa theo bản chất, công cụ quản lý môi trường được phân loại như
sau:
- Công cụ luật pháp- chính sách: Bao gồm các quy định pháp luật và
chính sách môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như các bộ luật
về môi trường, nhà nước.
Các định hướng cơ bản của công cụ luật pháp – chính sách là xây
dựng văn bản pháp quy về Bảo vệ môi trường; chấn chỉnh, tăng cường
công tác xây dựng, ban hành và hướng dẫn tiêu chuẩn môi trường; tạo
cơ chế, chính sách trong lĩnh vực môi trường.
Công cụ luật pháp mang tính chất cưỡng chế cao và phạm vi điều
chỉnh rộng lớn, có vai trò định hướng và điều chỉnh thực hiện đối với
các loại công cự khác nhau. Nhược điểm của công cụ luật pháp là
cứng nhắc và ít linh hoạt.
Công cụ chính sách gồm tổng thể các quan điểm, chuẩn mực, các biện
pháp, thủ thuật mà nhà nước sử dụng nhằm đạt được những mục tiêu
chiến lược của đất nước.
- Công cụ kinh tế: Là những phương tiện, biện pháp có tác dụng làm
thay đổi chi phí và lợi ích của các hoạt động kinh tế, thường xuyên tác
động đến môi trường nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm
trước việc gây ra sự hủy hoại môi trường.
Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để đưa ra các quy định
nhằm đặt được mục tiêu môi trường, từ đó có cách ứng xử hiệu quả
chi phí bảo vệ môi trường.
Các công cụ kinh tế quan trọng bao gồm: thuế tài nguyên và thuế môi
trường, phí và lệ phí môi trường, nhãn sinh thái và quỹ môi trường.
Ưu điểm: công cụ kinh tế môi trường giúp duy trì sự hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường; tạo điều kiện để các doanh
nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp.
Nhược điểm: tuy nhiên, để phát huy hiệu lực công cụ kinh tế cần có

những điều kiện sau: Nền kinh tế thị trường thực sự: hàng hóa tự do
trao đổi theo chất lượng và giá trị; Chính sách và các quy định pháp
luật chặt chẽ để có thể kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động sản xuất
kinh doanh gây ra ô nhiễm; hiệu lực cao của các tổ chức quản lý môi
trường từ trung ương đến địa phương; thu nhập bình quân cao đủ để
đảm bảo tài chính cho vấn đề quản lý môi trường.
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là một phần của chính
sách môi trường. Do đó, cần luôn được nghiên cứu để hoàn thiện,
tránh sự phản ứng của nhà sản xuất và người tiêu thụ. Công cụ kinh tế
môi trường có tác động rất mạnh đến sự điều chỉnh chính sách kinh tế
và môi trường ở các nước phát triển. Do vậy, cần phải nghiên cứu áp
dụng chúng trong mọi hoạt động kinh tế xã hội ở quy mô lâu dài.
- Công cụ kỹ thuật: có tác động trực tiếp vào các hoạt động tạo ra ô
nhiễm hoặc quản lý chất ô nhiễm trong quá trình hình thành và vận
hành hoạt động sản xuất.
Các công cụ kỹ thuật quản lý gồm các công cụ đánh giá tác động môi
trường, quan trắc môi trường, kiểm toán môi trường, quy hoạch môi
trường, công nghệ xử lý các chất thải, tái chế và sử dụng. Các công cụ
này có tác động mạnh tới việc hình thành và hành vi phân bố chất ô
nhiễm trong môi trường, có thể được thực hiện thành công trong bất
kỳ một nền kinh tế phát triển nào.
- Công cụ phụ trợ: không tác động trực tiếp vào quá trình sản xuất sinh
ra chất ô nhiễm hoặc điều chỉnh vĩ mô quá trình sản xuất này, có thể
bao gồm: GIS, mô hình hóa môi trường, giáo dục và truyền thông về
môi trường (Ngô Thế Ân, 2012).
1.2 Hệ thống quản lý nhà nước về quản lý môi trường khu công nghiệp
Theo Luật Bảo vệ môi trường và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật,
liên quan đến quản lý môi trường KCN có các đơn vị sau: Bộ Tài nguyên
&Môi trường (đối với các KCN và các dự án trong KCN có quy mô lớn);
Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND) (đối với các KCN và các dự án trong KCN

có quy mô thuộc thẩm quyền phê duyệt của tỉnh); UBND huyện (đối với
một số dự án có quy mô nhỏ) và một số Bộ, ngành khác (đối với dự án có
tính đặc thù).
Bên cạnh đó, cũng theo Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định của chính
phủ, liên quan đến bảo vệ môi trường và quản lý môi trường của các KCN
còn có: ban quản lý (BQL) các KCN; chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh
kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN; các cơ sở sản xuât, kinh doanh, dịch vụ trong
KCN.
Thông tư 08/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã quy
định trách nhiệm quyền hạn của các đơn vị và các vấn đề có liên quan đến
bảo vệ và quản lý môi trường của các KCN như sau:
UBND cấp tỉnh
Bộ TN&MT Bộ, ngành khác
Ban quản lý các KCN
Khu công nghiệp Khu công nghiệp
Chủ đầu tư XD&KD kết cấu
hạ tầng KCN
Các DN
CSSX
Chủ đầu tư XD&KD kết cấu
hạ tầng KCN
Các DN
CSSX
CHÍNH PHỦ
Hình 1.1: Sơ đồ nguyên tắc các mối quan hệ trong hệ thống quản lý môi trường
KCN
(nguồn khucongnghiep.com.vn)
- BQL các KCN thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường
KCN theo ủy quyền như tổ chức thực hiện thẩm định và phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM); chủ trì hoặc phối hợp

thực hiện giám sát, kiểm tra các vi phạm về bảo vệ môi trường đối với
các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh tại KCN; phối hợp với Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên & Môi trường thực hiện việc
thanh tra và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường trong KCN.
- Sở Tài nguyên Môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
môi trường, chủ trì công tác thanh tra việc thực hiện các quy định về
bảo vệ môi trường và các nội dung của Quyết định phê duyệt báo cáo
ĐTM theo thẩm quyền; chủ trì hoặc phối hợp với BQL các KCN tiến
hành kiểm tra công tác bảo vệ môi trường trong KCN; phối hợp giải
quyết các tranh chấp, khiểu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường KCN.
- Công ty phát triển hạ tầng KCN có chức năng xây dựng và quản lý cơ
sở hạ tầng KCN; quản lý và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập
trung, các công trình thu gom, phân loại và xử lý chất thải rắn theo
đúng kỹ thuật, theo dõi, giám sát hoạt động xả thải của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ đổ vào hệ thống xử lý nước thải tập trung
của KCN (Bộ TN&MT.2009).
1.3. phát triển công nghiệp và các vấn đề môi trường
1.3.1 Tình hình phát triển khu công nghiệp trên thế giới và Việt Nam
Phát triển kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hóa, đo thị hóa toàn cầu
kết hợp với sự gia tăng dân số đã làm cho lượng chất thải tạo thành ngày
càng tăng. Trong đó, lượng chất thải được tạo ra nhiều nhất tại các nước
phát triển, đặc biệt là chất thải tại các khu công nghiệp.
KCN đã có một quá trình hình thành và phát triển hơn 100 năm nay.
KCN hiện nay có nguồn gốc từ dạng cổ điển, sơ khai là “cảng tự do”, bắt
đầu được biết đến từ thế kỷ 16 như Leghoan và Genoa ở Italia. Cảng tự
do – cảng mà tại đó áp dụng “quy chế ngoại quan”, cảng tự do được
thành lập với mục đích ủng hộ tự do thông thương, hàng hóa từ nước
ngoài vào và từ cảng đi ra, được vận chuyển một cách tự do mà không
phải chịu thuế. Chỉ khi hàng hóa vào nội địa mới phải chịu thuế quan.
Các cảng tự do đã đóng vai trò thúc đẩy nền ngoại thương của các nước,

hình thành các đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ như New York,
singapore và dần dần khái niệm cảng tự do đã được mở rộng, vận dụng
thành loại hình mới là KCN (Nguyễn Bình Giang, 2012).
Anh là nước công nghiệp đầu tiên và là KCN đầu tiên được thành lập
năm 1896 ở Manchester và sau đó là vùng công nghiệp Chicago (Mỹ),
KCN Napoli (Ý) vào những năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước. Đến
những năm 50, 60 của thế kỷ XX, các vùng công nghiệp và các KCN
phát triển nhanh chóng và rộng khắp các nước công nghiệp như là một
hiện tượng lan tỏa, tác động và ảnh hưởng. Vào thời kỳ này, Mỹ có 452
vùng công nghiệp và gần 1000 khu công nghiệp, Pháp có 230 vùng công
nghiệp, Canada có 21 vùng công nghiệp. Tiếp theo các nước công nghiệp
đi trước, vào năm 60, 70 của thế kỷ trước, hàng loạt các KCN và KCX
hình thành và phát triển nhanh chóng ở các nước công nghiệp hóa thế hệ
sau như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thái Lan cũng
trong thời kỳ này, các nước XHCN trước đây, Liên Xô, Đức, Tiệp Khắc
đang tiến hành xây dựng các xí nghiệp liên hợp, các cụm công nghiệp
lớn, các trung tâm công nghiệp tập trung. Mặc dù có thể dưới những tên
gọi khác nhau gắn với tính đặc thù của ngành sản xuất, nhưng chúng đều
có những tính chất, đặc trưng chung của khu công nghiệp (Đặng Văn
Thắng, 2012).
Trong những năm mới phát triển, khu công nghiệp được xem là một mô
hình quy hoạch công nghiệp. Khu công nghiệp được sử dụng như một
công cụ phát triển kinh tế, và mục đích kinh tế này này ngày càng được
chú trọng, đặc biệt là các nước đang phát triển. Vì vậy, ngay từ rất sớm,
một số nước đang phát triển ở Đông Nam Á cũng đã có số lượng KCN
tăng lên đáng kể nhằm tạo bước đột phá trong nền kinh tế của họ. Hoạt
động của các KCN một mặt mang lại lợi ích kinh tế, mặt khác lại phát
sinh tác hại môi trường do hoạt động công nghiệp đã không được quan
tâm đúng mức trong một thời gian dài.
Tại Thái Lan, KCN đầu tiên được thành lập năm 1972, đó là khu

Bangchan rộng khoảng 108 ha ở huyện Min Buri của Bangkok. Cùng
năm, Ban quản lý các KCN Thái Lan (IEAT) được thành lập. Hiện nay,
IEAT đang quản lý hoặc cùng quản lý 38 khu công nghiệp đang hoạt
động phân bố ở Bangkok và 14 tỉnh khác, với 400.000 lao động trong
3300 doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có các KCN do chính quyền địa
phương và tư nhân tự phát triển.
Tại Maylaisia, số lượng các KCN đang hoạt động tăng lên nhanh chóng
từ con số 0 năm 1970 lên 105 năm 2002. Trong khi đí, ở các vùng phát
triển, con số các khu công nghiệp đã tăng từ con số 8 năm 1970 lên 188
năm 2002 và hầu như các KCN được đặt tại các trung tâm tăng trưởng
quan trong.
Tại Indonesia, tính đến tháng 11/2007, Indonesia có 225 KCN đang hoạt
động với tổng diện tích 75457 ha, hầu hết trên đảo Java. Số lượng các
KCN ở Indonesia tăng mạnh từ năm 1990 đến khi khủng hoảng 1997 nở
ra. Từ năm 2003, khi hiệp định thương mại tự do ASIAN có hiệu lưc, các
KCN phát triển khá mạnh trở lại. Tuy nhiên tỉ lệ lấp đầy khá thấp, bình
quân khoảng 42% vào năm 2006.
Vào đầu những năm 1990, các KCN đã được xây dựng tràn lan tại Trung
Quốc. Đến cuối năm 1991, Trung Quốc chỉ có 117 KCN. Tuy nhiên, con
số này đã lên đến 2700 vào cuối năm 1992 và các khu này được phê
duyệt từ các cấp khác nhau, từ cấp chính quyền Trung Ương, cấp tỉnh,
thành phố, thị trấn cho đến cấp quận. Và nhiều khu thậm chí mà không có
cấp chính quyền nào phê chuẩn. Và trong những năm gần đây, trước
chiến lược mới của Trung Quốc nhằm phát triển miền tây nước này,
nhiều KCN mới chính thức được chính quyền Trung Ương phê duyệt. Do
vậy, số lượng các KCN lại có cơ hội bùng nổ lần nữa. Theo Bộ Tài
nguyên và đất đai, trong số 3.837 KCN chỉ có 6% được phê duyệt bởi
Quốc vụ viện và 26,6% được phê duyệt bởi chính quyền cấp tỉnh
(Nguyễn Bình Giang, 2012).
Ở Việt Nam, tuy khu công nghiệp xuất hiện khá muộn nhưng lại phát

triển khá nhanh. Khu chế xuất (KCX) Tân Thuận thành lập tháng 11/1991
là KCN đầu tiên của cả nước. Tiếp theo là KCX Linh Trung 1 thành lập
năm 1992. Cả hai khu này đều ở Thành phố Hồ Chí Minh để khai thác lợi
thế nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng giao thông. Giai đoạn 1991 – 1994
chỉ có 12 khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập với tổng diện
tích tự nhiên 2.360 ha. Sau giai đoạn này, việc thành lập các KCN, KCX
được đẩy nhanh, cụ thể trong 5 năm 1996 – 2000 thành lập 53 KCN,
KCX với tổng diện tích so với kế hoạch 5 năm 1991 – 1995;
(khucongnghiep.com.vn).
Tính tới tháng 3/2011 thì cả nước có 260 KCN đã được thành lập với
tổng diện tích hơn 71.000 ha, trong đó có 173 KCN đã đi vào hoạt động,
87 KCN đang giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Trong đó, 105
KCN đã xây dựng và đi vào vận hành công trình xử lý nước thải tập
trung, chiếm 60% tổng số các KCN đã đi vào hoạt động. Ngoài ra, còn 43
KCN đang xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung và dự kiến đưa
vào vận hành trong thời gian tới (Vũ Quốc Huy, 2011). Tháng 12/2011,
đã có 118 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm 65% tổng số
KCN đã vận hành và hơn 30 KCN đang xây dựng công trình xử lý nước
thải tập trung (khucongnghiep.com.vn). Và tính đến tháng 9 năm 2012
trong cả nước có 283 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên
80.100 ha (Vũ Đại Thắng, 2012).
Hình 1.2 tình hình phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam
(nguồn: khucongnghiep.com.vn)
Các KCN được thành lập trên 58 tỉnh, thành phố trên cả nước; được phân bố
trên cơ sở phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm năng các vùng kinh tế trọng điểm,
đồng thời phân bố ở mức độ hợp lý một số KCN ở các vùng có điều kiện kinh
tế- xã hội khó khăn hơn nhằm tạo điều kiện cho ngành công nghiệp địa
phương từng bước phát triển. Quy mô các KCN, KCX đa dạng và phù hợp
với điều kiện, trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương. Quy mô trung
bình của các KCN, KCX đến 12/2011 là 268ha. Các vùng có điều kiện tương

đối khó khăn, ít có lợi thế phát triển công nghiệp quy mô KCN, KCX trung
bình thấp hơn các vùng khác, như vùng trung du miền núi phía Bắc (154,9
ha), Tây Nguyên (157,6 ha), vùng Đông Nam Bộ có quy mô KCN trung bình
cao nhất (378,3 ha) (nguồn: Khucongnghiep.com.vn)
Tỷ lệ lấp đầy của các KCN khá đồng đều giữa các vùng trên cả nước. Tỷ lệ
lấp đầy tính chung cho các KCN đã vận hành và đang xây dựng cơ bản của
các vùng dao động trong khoảng 50-60%; nếu tính riêng các KCN đã vận
hành thì ở mức 65-75%. Một số vùng phát triển KCN từ lâu như Đông Nam
Bộ, đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lấp đầy của các KCN đã vận hành ở
mức cao. Tính trung bình: Đông Nam Bộ (bao gồm cả Long An) 73%, đồng
bằng sông Hồng 73%, đồng bằng sông Cửu Long 89% (Bộ Tài nguyên &
Môi trường).
1.3.2. Hiện trạng môi trường các khu công nghiệp
1.3.2.1. Ô nhiễm nước mặt do nước thải khu công nghiệp:
 Đặc trưng nước thải KCN:
Sự gia tăng nước thải từ các KCN trong những năm gần đây là rất lớn. Tốc
độ gia tăng này cao hơn nhiều so với sự gia tăng tổng lượng nước thải từ các
lĩnh vực trong toàn quốc
Hình 1.2: tỷ lệ gia tăng lượng nước thải từ các KCN và tỷ lệ gia tăng tổng
lượng nước thải từ các lĩnh vực trong toàn quốc
(nguồn: TCMT tông hợp, 2009)
Thành phần nước thải của các KCN chủ yếu bao gồm các chất lơ lửng
(SS), chất hữu cơ (thể hiện qua hàm lượng BOD, COD), các chất dinh dưỡng
(biểu hiện bằng hàm lượng tổng Nitơ và tổng Phốtpho) và kim loại nặng .
Chất lượng nước thải đầu ra của các KCN phụ thuộc rất nhiều vào việc
nước thải có được xử lý hay không. Hiện nay, tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt
động có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm khoảng 43%, rất nhiều KCN
đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hạng mục này.
Nhiều KCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng tỷ lệ đấu nối của
các doanh nghiệp trong KCN còn thấp. Nhiều nơi doanh nghiệp xây dựng hệ

thống xử lý nước thải cục bộ nhưng không vận hành hoặc vận hành không hiệu
quả. Thực trạng trên đã dẫn đến việc phần lớn nước thải của các KCN khi xả
thải ra môi trường đều có các thông số ô nhiễm cao hơn nhiều lần so với quy
chuẩn Việt Nam(QCVN).
Hàm lượng cặn lơ lửng trong nước thải KCN thường xuyên vượt ngưỡng
cho phép. Kết quả phân tích mẫu nước thải từ các KCN cho thấy, nước thải các
KCN có hàm lượng các chất lơ lửng (SS) cao hơn QCVN từ 2 lần (KCN Hòa
Khánh) đến hàng chục lần (KCN Điện Nam– Điện Ngọc), thậm chí có nơi đến
hàng trăm lần.
H
ình 1.3: Hàm lượng cặn lơ lửng (SS) trong nước thải của một số KCN miền
Trung qua các năm
(nguồn: TCMT tổng hợp, 2009)
Giá trị các thông số BOD5 tại cống xả của các KCN thường ở mức khá
cao. Một số KCN khi lắp đặt hệ thống xử lý nước thải tập trung, các thông số
này đã giảm đi đáng kể (KCN Tiên Sơn, Bắc Ninh). Tuy nhiên, với các KCN
chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, các thông số này không đạt yêu cầu
QCVN (KCN Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng)
Hình 1.4: Hàm lượng BOD5 trong nước thải của một số KCN năm 2008
(Nguồn: TCMT,
2009)
Các kết quả khảo sát cho thấy hàm lượng Coliform trong nước thải từ các KCN
rất cao, có nơi vượt QCVN rất nhiều lần .
Hình 1.5: Hàm lượng Coliform trong nước thải một số KCN năm 2008
(Nguồn: TCMT,
2008)
 Ô nhiễm nước mặt do nước thải KCN:
Cùng với nước thải sinh hoạt, nước thải từ các KCN đã góp phần làm cho
tình trạng ô nhiễm tại các sông, hồ, kênh, rạch trở nên trầm trọng hơn. Những
nơi tiếp nhận nước thải của các KCN đã bị ô nhiễm nặng nề, nhiều nơi nguồn

nước không thể sử dụng được cho bất kỳ mục đích nào. Tình trạng ô nhiễm
không chỉ dừng lại ở hạ lưu các con sông mà lan lên tới cả phần thượng lưu theo
sự phát triển của các KCN. Kết quả quan trắc chất lượng nước cả 3 lưu vực
sông Đồng Nai, Nhuệ - Đáy và Cầu đều cho thấy bên cạnh nguyên nhân do tiếp
nhận nước thải sinh hoạt từ các đô thị trong lưu vực, những khu vực chịu tác
động của nước thải KCN có chất lượng nước sông bị suy giảm mạnh, nhiều chỉ
tiêu như BOD5, COD, NH4+, tổng N, tổng P đều cao hơn QCVN nhiều lần.
Hệ thống sông Đồng Nai:
Ô nhiễm nước mặt tập trung chủ yếu dọc các đoạn sông chảy qua các tỉnh
thuộc vùng KTTĐ phía Nam nơi các KCN phát triển mạnh.
Hình 1.6: Tần suất số lần đo vượt TCVN của một số thông số tại sông Đồng Nai
đoạn qua Tp. Biên Hoà
(Nguồn: Sở TN&MT Đồng Nai, 2008)
 Lưu vực sông Cầu
Nhiều đoạn sông thuộc LVS Cầu đã bị ô nhiễm nặng. Ô nhiễm cao nhất là đoạn
sông Cầu chảy qua địa phận thành phố Thái Nguyên, đặc biệt là tại các điểm
thải của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Khu Gang thép Thái Nguyên,
Hình 1.7: Hàm lượng NH4
+
trên sông Cầu đoạn chảy qua Thái Nguyên năm
2008
(Nguồn: TCMT, 2009)
 Lưu vực sông Nhuệ - Đáy
Hiện tại, nước của trục sông chính thuộc lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đã
bị ô nhiễm ở những mức độ khác nhau. Một trong những nguyên nhân gây ô
nhiễm nguồn nước mặt trên LVS là nước thải từ các KCN và các cơ sở sản xuất
không qua xử lý xả thải thẳng ra môi trường hoà với nước thải sinh hoạt.
Hình 1.9: Diễn biến nước sông Nhuệ đoạn qua Hà Đông (nguồn: TCMT,
2009)
2.Ô nhiễm không khí do khí thải khu công nghiệp:

 Đặc trưng khí thải khu công nghiệp:
Mỗi ngành sản xuất phát sinh các chất gây ô nhiễm không khí đặc trưng theo
từng loại hình công nghệ. Rất khó xác định tất cả các loại khí này, nhưng có thể
kể ra một số loại điển hình như:bụi,CO. SO
2
, NO
2
,Clo, NH
3
,H
2
S,…
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm không khí chủ yếu do hoạt động của các nhà máy
thuộc các KCN cũ, vận hành với công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm hoặc chưa
được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường bên ngoài, vì
vậy hầu hết các thông số quan trắc như bụi, CO và SO
2
không đạt QCVN.
Hình 1.10: Nồng độ khí SO
2
trong khí thải một số nhà máy tại KCN Bắc Thăng
Long (Hà Nội), KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh) năm 2006 – 2008
(Nguồn:TCMT, 2009)
 Ô nhiễm không khí do khí thải khu công nghiệp:
Chất lượng môi trường không khí tại các KCN, đặc biệt các KCN cũ, tập trung
các nhà máy có công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử
lý khí thải, đã và đang bị suy giảm. Ô nhiễm không khí tại KCN chủ yếu bởi
bụi, một số KCN có biểu hiện ô nhiễm CO, SO2 và tiếng ồn. Các KCN mới với
các cơ sở có đầu tư công nghệ hiện đại và hệ thống quản lý tốt thường có hệ
thống xử lý khí thải trước khi xả ra môi trường nên thường ít gặp các vấn đề về

ô nhiễm không khí hơn.
-Ô nhiễm bụi - dạng ô nhiễm phổ biến nhất ở các KCN: Tình trạng ô nhiễm bụi
ở các KCN diễn ra khá phổ biến, đặc biệt vào mùa khô và đối với các KCN
đang trong quá trình xây dựng. Hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí xung
quanh của các KCN qua các năm đều vượt QCVN.
Bảng 1.11: hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí xung quanh tại một số KCN
miền Bắc và miền Trung từ năm 2006-2008
(nguồn: TCMT, 2009)
-Ô nhiễm CO, SO2 và NO2 chỉ diễn ra cục bộ tại một số KCN. Nhìn chung,
nồng độ khí CO, SO2 và NO2 trong không khí xung quanh các KCN hầu hết
đều nằm trong giới hạn cho phép
hình 1.12:Nồng độ CO trong không khí xung quanh các KCN tỉnh Đồng Nai
năm 2008
(Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Đồng Nai, 2009)
-Ô nhiễm các khí khác - đặc thù cho các loại hình sản xuất
Tại các KCN, bên cạnh những ô nhiễm thông thường như bụi, SO2, NO2,
CO, còn cần quan tâm đến một số khí ô nhiễm đặc thù do loại hình sản xuất
sinh ra như hơi axit, hơi kiềm, NH3, H2S, VOC Nhìn chung những khí này
vẫn nằm trong ngưỡng cho phép.
Hình 1.13:Nồng độ NH
3
trong không khí xung quanh KCN Bắc Thăng Long
(Hà Nội) năm 2006 - 2008
(Nguồn: TCMT,
2009)
3. Chất thải rắn tại các KCN:
 Lượng chất thải rắn phát sinh tại các khu công nghiệp:
Tổng lượng chất thải rắn trung bình của cả nước đã tăng từ 25.000 tấn/ngày
(năm 1999) lên khoảng 30.000 tấn/ngày (năm 2005), trong đó lượng chất thải
rắn từ hoạt động công nghiệp cũng có xu hướng gia tăng, phần lớn tập trung tại

các KCN ở vùng KTTĐ Bắc Bộ và vùng KTTĐ phía Nam. Trong những năm
gần đây, cùng với sự mở rộng của các KCN, lượng chất thải rắn từ các KCN đã
tăng đáng kể, trong đó, lượng chất thải nguy hại gia tăng với mức độ khá cao.
Hình 1.14:Ước tính khối lượng chất thải rắn phát sinh tại các KCN.
(Nguồn: Viện Hóa học công nghiệp, Bộ Công thương, 2009)
Phần lớn chất thải nguy hại được phát sinh từ các hoạt động sản xuất công
nghiệp. Tổng lượng chất thải nguy hại do Công ty Môi trường đô thị URENCO
Hà Nội thu gom trong 1 tháng (của năm 2009) là khoảng 2.700 tấn/tháng, trong
đó số lượng chất thải nguy hại có nguồn gốc từ các hoạt động sản xuất công
nghiệp (dầu thải, dung môi, bùn thải, dung dịch tẩy rửa, bao bì hóa chất, giẻ
dầu, pin, acquy, thùng phi ) đã là 2.100 tấn/tháng. Điều đó chứng tỏ tỷ lệ chất
thải nguy hại phát sinh từ sản xuất công nghiệp (các ngành điện tử, sản xuất hóa
chất, lắp ráp thiết bị cao cấp ) cao hơn nhiều so với các ngành lĩnh vực khác.
 Thực trạng việc thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải rắn tại
các KCN:
Theo quy hoạch được duyệt, tất cả các KCN phải có khu vực phân loại và
trung chuyển chất thải rắn. Tuy nhiên, rất ít KCN triển khai hạng mục này. Điều
này đã khiến cho công tác quản lý chất thải rắn ở các KCN gặp không ít khó
khăn. Do hầu hết các KCN chưa có điểm tập trung thu gom chất thải rắn nên
các doanh nghiệp trong KCN thường hợp đồng với các Công ty môi trường đô
thị tại địa phương, hoặc một số doanh nghiệp có giấy phép hành nghề để thu
gom và xử lý chất thải rắn. Việc đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại cũng
do các doanh nghiệp chủ động đăng ký với Sở TN&MT cấp tỉnh.
Việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại từ các
KCN của các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép hành nghề vẫn còn nhiều vấn
đề. Nhiều doanh nghiệp có chức năng thu gom và xử lý chất thải nguy hại đã
triển khai các hoạt động tái chế thu lại tài nguyên có giá trị sử dụng từ những
chất thải này. Mục tiêu của những hoạt động tái chế này có thể là thu hồi nhiệt
từ các chất thải có nhiệt trị cao,thu hồi kim loại màu (Ni, Cu, Zn, Pb ), nhựa,
dầu thải, dung môi, một số hóa chất Tuy nhiên do công nghệ chưa hoàn chỉnh,

trong một số trường hợp là chưa phù hợp, nên hiệu quả thu hồi và tái chế chưa
cao, có trường hợp gây ô nhiễm thứ cấp, đặc biệt đối với dầu và dung môi.
Nghiêm trọng hơn một số doanh nghiệp không thực hiện xử lý chất thải nguy
hại mà sau khi thu gom lại đổ lẫn vào cùng chất thải thông thường hoặc lén lút
đổ xả ra môi trường .
1.3.4 công tác quản lý môi trường các KCN tại Việt Nam và trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh
1.3.4.1 công tác quản lý môi trường các KCN tại Việt Nam
- Trong những năm gần đây công nghiệp phát triển mạnh mẽ, Nhà nước đã
có những chiến lược quy hoạch phát triển các KCN, đa dạng hóa các ngành

×