Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước
nhà từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang một nền kinh tế có
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao, dựa trên nền tảng một nền kinh tế tri thức
và xu hướng gắn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sự chuyển dịch này đã tạo cơ
hội và điều kiện thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Song cũng làm
phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và
thách thức mới , đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự vận động, vươn lên để vượt
qua những thử thách, tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc
nghiệt của cơ chế thị trường.
Trong bối cảnh kinh tế như thế, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên
thương trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quản lý tài
chính là một vấn đề được quan tâm hàng đầu và có khả năng ảnh hưởng trực tiếp
đến sự sống còn đói với doanh nghiệp Việt Nam. Bởi lẽ, hoạt động tài chính
doanh nghiệp liê quan và ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.
Nhu cầu vốn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng lớn.Do vậy
việc lựa chọn và sử dụng các công cụ tài chính để huy động vốn và sử dụng vốn
như thế nào ảnh hưởng rất lớn đến tình hình và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Thêm nữa các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp là cơ sở
quan trọng của người lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp để kiểm soát và
chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp nhà quản lý
doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, từ đó có thể nhận ra những
mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp nhằm làm căn cứ để hoạch định phương
án hành động phù hợp cho tương lai và đồng thời đề xuất những giải pháp hữu
hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính giúp nâng cao chất lượng
doanh nghiệp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân tích tình hình tài chính
trong nghiệp vụ quản lý tài chính nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh tại
doanh ghiệp nói chung, sau quá trình đi sâu tìm hiểu thực tế hoạt động kinh
doanh tại Công ty Cổ phần thiết bị Vật tư Ngân hàng, em đã chọn đề tài.
“Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần Thiết bị Vật tư Ngân
hàng”
Nội dung của luận văn gồm ba phần chính:
Chương 1: Một số vấn đề chung về phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích thực trạng tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần
thiết vị Vật tư Ngân hàng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao tình hình tài chính tại Công ty Cổ
phần Thiết bị Vật tư Ngân hàng.
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH TẠI DOANH NGHIỆP
1.1 Quản lý tài chính doanh nghiệp và vai trò của tài chính doanh nghiệp.
1.1.1. Khái quát về quản lý tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có
tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì tại
đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với qua trình sản xuất,
đầu tư, tiêu thụ và phân phối.
Tài chính cũng không phải là tiền tệ, và cũng không phải là quỹ tiền tệ.
Nhưng thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của
tài chính, còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng.
Do vậy toàn bộ các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong
doanh nghiệp thể hiện nội dung của tài chính doanh nghiệp. Nó bao gồm các
quan hệ tài chính sau:
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đó là những quan hệ về phân
phối, điều hoà cơ cấu thành phần vốn kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các
thành viên trong nội bộ doanh nghiệp; các quan hệ về thanh toán hợp đồng lao
động giữa chủ doanh nghiệp và công nhân viên chức.Các mối quan hệ này đều
thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở doanh nghiệp như: vốn cố
định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ khấu hao, quỹ dự trữ tài chính... nhằm
phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
-Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước : doanh nghiệp thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế, lệ phí... ngân sách Nhà
nước cấp vốn cho doanh nghiệp quốc doanh .
-Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức tài chính trung gian :hiện nay các tổ
chức tài chính trung gian ở nước ta mới chỉ hiện rõ nét bằng hoạt động của các
ngân hàng thương mại và của công ty bảo hiểm. Nhưng để có một nền kinh tế
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
1
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
thị trường phát triển tất yếu phải có sự thiết lập các hình thức phong phú, đa
dạng trong lĩnh vực môi giới về vốn. Nhằm biến những nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi ở các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức khác thành những
nguồn vốn dành để đầu tư cho kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhau : mối quan hệ này phát sinh trong quá
trình thanh toán các sản phẩm và dịch vụ, trong việc góp vốn liên doanh, vốn cổ
phần và chia lợi nhuận do vốn liên doanh cổ phần mang lại.Cùng với sự phát
triển của các yếu tố cấu thành trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ về
kinh tế giữa các doanh nghiệp có xu thế ngày càng tăng lên. Các hoạt động đó
đan xen vào nhau và tự điều chỉnh theo các quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ và
khả năng thu hút lợi nhuận.
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài phát
sinh trong quá trình vay, cho vay, trả nợ và đầu tư với giữa doanh nghiệp với
các tổ chức kinh tế trên thế giới. Nền kinh tế thị trường gắn liền với chính sách
mở cửa, các hoạt động giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức kinh tế
nước ngoài ngày càng có xu thế hoà nhập lẫn nhau, hợp tác với nhau để phát
huy hết khả năng và thế mạnh của mình trong việc khai thác các nguồn vốn đưa
vào sản xuất kinh doanh để có chi phí ít nhất với hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.1.2.Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Có thể nói sự thành công trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
có đóng góp rất lớn của công tác qunả lý tài chính. Quản lý tài chính doanh
nghiệp có 3 vai trò quan trọng sau:
Huy động vốn đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường nay
sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn cũng như dài hạn cho hoạt động kinh doanh
thường xuyên cũng như đầu tư phát triển. Quản lý tài chính doanh nghiệp là xác
định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong
từng thời kỳ. Từ đó lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp để huy
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
2
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
động vốn từ các nguồn vốn khác nhau để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của
doanh nghiệp.
Sử dụng vốn tiêt kiệm và hiệu quả.Hiệu quả hhoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp phụ thuộc vào việc tổ chức sử dụng vốn. Vai trò của tài chính
doanh nghiệp là đánh giá lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng
sinh lời và mức độ rủi ro của dự án .Việc huy động kịp thừi các nguồn vốn có ý
nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được các cơ hoọi
kinh doanh. Mặt khác, việc huy động tối đa số vốn hiện có của doanh nghiệp
vào hoạt động kinh doanh có thể tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây
ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được khoản tiền trả lãi
vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, việc sử dụng các
hình thức thưởng, phạt vật chất một cách hợp lý góp phần quan trọng thúc đẩy
cán bộ nhân viên gắn bó với doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động, cải
tiến sản xuất kinh doanh qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Quản lý tài chính là công cụ quan trọng để kiểm soát, chỉ đạo hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gắn
liền với quá trình vận động của các dòng tiền bao gồm các luồng tiền đi và đến
doanh nghiệp. Thông qua việc quản lý tình hình tài chính , nhà quản lý có thể
đánh giá và kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp để phát hiện kịp thời các
vướng mắc, tồn tại trong kinh doanh từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn.
Từ những điều nói trên, ta thấy công tác quane lý tài chính có một vai trò rất
quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Muốn quản lý tốt tài chính thì phải bắt
đầu từ việc phân tích tài chính.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết của phân tích tài chính
doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm
Phân tích tài chính là quá trình tìm hiểu các kết quả của sự quản lý và điều
hành tài chính ở doanh nghiệp được phản ánh trên các báo cáo tài chính đồng
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
3
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
thời đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra trên cơ sở đó
kiến nghị những biện pháp để tận dụng triệt để những điểm mạnh, khắc phuc
những điểm yếu.
Hay nói cách khác, phân tích tài chính doanh nghiệp là làm sao cho các con
số trên báo cáo tài chính “ biết nói” để người sử dụng chúng có thể hiểu rõ tình
hình tài chính của doanh nghiệp và các mục tiêu, các phương pháp hành động
của những người quản lý doanh nghiệp đó.
1.2.2. Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nhiệp:
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nhiệp và có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành, tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh
đều có ảnh hưởng đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài
chính tốt hay xấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đói với quá trình sản
xuất kinh doanh. Vì thế cần phải thường xuyên đánh giá, kiểm tra tình hình tài
chính của doanh nghiệp, trong đó công tác phân tích hoạt động kinh tế giữ vai
trò quan trọng và có ý nghĩa sau :
- Qua phân tích tình hình tài chính mới đánh giá đầy đủ, chính xác tình
hình phân phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, nguồn vốn, vạch rõ khả năng
tiềm tàng về vốn của xí nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, giúp doanh nghiệp củng cố tốt hơn hoạt động tài chính của mình.
- Phân tích tình hình tài chính là công cụ không thể thiếu phục vụ cho
công tác quản lý của cơ quan cấp trên, cơ quan tài chính, ngân hàng như : đánh
giá tình hình thực hiện các chế độ, chính sách về tài chính của nhà nước, xem
xét việc cho vay vốn...
Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các
dữ liệu tài chính mà có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán. Do
đó số đối tác quan tâm và sử dụng các báo cáo tài chính cũng như thông tin từ
kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
4
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp đối với mỗi đối tượng cũng
khác nhau.
Đối với các chủ doanh nghiệp : việc phân tích tài chính cung cấp thông tin
về kết quả hoạt động kinh doanh, kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn, khả
năng sinh lời , khả năng thanh toán, rủi ro tài chính... Từ đó sẽ là cơ sở để các
chủ doanh nghiệp lựa chọn, cân nhắc đưa ra quyết định về quản lý trong tương
lai như quyết định về đầu tư, về tài trợ, về phân bổ vốn và sử dụng vốn, về tình
hình công nợ, về cơ cấu sản xuất, mở rộng thị trường, liên doanh liên kết...
Đối với cơ quan quản lý của nhà nước, cơ quan thuế : cung cấp thông tin về
tình hình phân bổ và sử dụng vốn, tình hình đầu tư, khả năng tạo vốn, khả năng
sinh lời, tình hình bảo toàn vốn... Đồng thời cung cấp cho cơ quan thuế kết quả
hoạt động kinh doanh, việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước như thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất, thuế tài nguyên...
Đối với các nhà cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp, các cổ đông hiện
tại và cổ đông tương lai : hiện nay vốn vay và nợ pahỉ trả chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Do đó các đối tượng này rất quan tâm đến
kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời , khả năng thanh toán, khả năng
trả lãi vay, hiệu quả sử dụng vốn, thu nhập của cổ phiếu, tỷ suất lợi nhuận trên
vốn cổ đong...
Đối với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp : họ là những người trực
tiếp tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp nên quyền lợi của họ luôn gắn
liền với kết quả hoạt đọng kinh doanh. Họ cần những thông tin về kết quả hoạt
đọng kinh doanh, khả năng sinh lời, tình hình đầu tư, khả năng thanh toán ( đặc
biệt là khả năng thanh toán nhanh)...
Đối với các đối thủ cạnh tranh : trong điều kiện của kinh tế thị trường, đặc
biệt là xu hướng toàn cầu hoá thì sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Những
thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khác như kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình hình
đầu tư, tình hình tạo vốn... luôn được quan tâm hàng đầu.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
5
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Từ những vấn đề đó có thể thấy có rất nhiều đối tượng quan tâm đến báo
cáo tìa chính và thông tin rút ra từ việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Những
thông tin đó là cơ sở quan trọng để họ sử dụng trong việc đưa ra quyết định liên
quan tới mục đích của mình.
1.2.3. Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính có thể được hiểu như quá trình kiểm tra, xem xét các
số liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, dự tính các rủi
ro tiềm ẩn trong tương lai phục vụ cho các quyết định tài chính của doanh
nghiệp. Mặt khác phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là để đáp ứng
nhu cầu sử dụng thông tin của nhiều đối tượng quan tâm đến những khía cạnh
khác nhau về tài chính của doanh nghiệp để phục vụ cho mục đích của mình.
1.2.3.1. Đối với nhà quản trị doanh nghiệp:
Phân tích tình hình tài chính nhằm mục tiêu:
-Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá
khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ,
rủi ro tài chính doanh nghiệp.
-Định hướng các quyết định của ban giám đốc như : quyết định đầu tư, tài
trợ, phân chia lợi tức cổ phần...
-Là cơ sở cho các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phần ngân sách tiền
mặt...
-Là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
1.2.4.2 Đối với các đơn vị chủ sở hữu
Họ cũng quan tâm đến lợi nhuận và khả năng trả nợ, sự an toàn của tiền
vốn bỏ ra, thông qua phân tích tình hình tài chính giúp họ đánh giá hiệu quả của
quá trình sản xuất kinh doanh, khả năng điều hành hoạt đọng của nhà quản trị để
quyết định sử dụng hoặc bãi miễn nhà quản trị, cũng như việc phân phối kết quả
kinh doanh.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
6
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
1.2.4.3 Đối với các chủ nợ( Ngân hàng,cácnhà cho vay,nhà cung cấp)
Mối quan tâm của họ hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Do đó
họ cần chú ý đến tình hình và khả năng thanh toán của đơn vị cũng như quan
tâm đến lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời để đánh giá đơn vị có khả
năng trả nợ được hay không khi quyết định cho vay, bná chịu sản phẩm cho đơn
vị.
1.2.4.4. Đối với nhà đầu tư trong tương lai.
Điêù mà họ quan tâm đầu tiên, đó là sự an toàn của lượng vốn đầu tư, kế
đó là mức độ sinh lãi, thời gian hoàn vốn. Vì vậy họ cần những thông tin về tài
chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh, tiềm năng tăng trưởng của daonh
nghiệp. Do đó họ thường phân tích báo cáo tài chính của đơn vị qua các thời kỳ,
đẻ quyết định đầu tư vào đơn vị hay không, đầu tư dưới hình thức nào và đầu tư
vào lĩnh vực nào.
1.3. Phân tích hệ số tài chính của doanh nghiệp
Một trong những phương pháp phân tích thường trực sử dụng để đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp là phân tích các hệ số tài chính. Thông qua
việc phân tích các hệ số tài chính cho phép đánh giá tổng quan tình hình tài
chính của một doanh nghiệp.
1.3.1. Hệ số khả năng thanh toán.
Chỉ số này đo lường khả năng thanh toán nợ ngắng hạn của một công ty
khi đến hạn phải trả. Nó phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để
trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần tới một khoản vay mượn thêm.
1.3.1.1 Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
Chỉ số này đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của một công ty khi
đến hạn trả. Nó phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các
khoản nợ ngắn hạn mà không cần tới một khoản vay mượn thêm.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
7
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =
Tổng tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động bao hàm cả khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Số nợ
ngắn hạn những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng bao
gồm : các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán , thuế và các khoản phải
nộp Nhà nước , phải trả người lao động, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải
thu khác.
1.3.1.2 Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là một chỉ tiêu đánh giá khá chặt chẽ
hơn khả năng thanh toán hiện thời của doanh nghiệp, được xác định bằng tài sản
lưu đọng trừ đi hàng tồn kho và chia cho số nợ ngắn hạn. ở đây hàng tồn kho
loại trừ ra, bởi lẽ, trong tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản
hông có tính thanh khỏan cao. Hệ số này được xác định bằng công thức sau :
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Số nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn
bằng tiền hoặc các khoản tương đương tiền để thanh toán ngay cho một đồng nợ
ngắn hạn
1.3.1.3 Hệ số khả năng thanh toán bằng tiền
Ngoài hai hệ số khả năng thanh toán hiện hành và hệ số khả năng thanh
toán nhanh, để đánh giá cao hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp còn có
thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vốn bằng tiền hay còn có thể gọi là hệ số thanh toán
tức thời.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
8
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Hệ số vốn bằng tiền =
Tiền+ Các khoản tương đương tiền
Số nợ ngắn hạn
Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản
tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán.
1.3.2 Hệ số hoạt động kinh doanh
1.3.2.1. Số vòng quay hàng tồn kho
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau :
Số hàng tồn kho bình quân có thể tính bằng cách lấy số dư đầu kỳ cộng
với số dư cuối kỳ và chia đôi.
1.3.2.2. Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình là một hệ số hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, nó phản ánh đọ dài thời gian thu tiền bán hàng của một doanh nghiệp,
nó phản ánh độ dài thời gian thu tiền bán hàng của một doanh nghiệp kể từ lúc
xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền. Kỳ thu tiền trung bình của doanh
nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tiêu thụ và việc tổ chức thanh toán của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi kỳ thu tiền trung bình quá dài so với các doanh
nghiệp trong ngành thì phải chú ý xem xét, vì dễ gần đến tình trạng nợ khó
đòi.Kỳ thu tiền trung bình có thể xác định theo công thức sau :
Kỳ thu tiền trung bình Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu thuần bình quân 1 ngày trong kỳ
1.3.2.3. Số vòng quay vốn lưu động
Đây là một rong hai chỉ tiêu cho phép đánh giá tốc độ luân chuyển của
vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh
nghiệp cao hay thấp
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
9
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Số vòng vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu đọng là một trong những chỉ tiêu tổng hợp để đánh
giá chất lượng công tác sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn và trong cả quá
trình sản xuất kinh doanh. Số vòng quay vốn lưu động càng lớn hoặc số ngày
của một vòng quay càng nhỏ sẽ góp phần tiết kiệm tương đối vốn cho snả xuất.
1.3.2.4. Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá mức độ sử dụng vốn cố định của doanh
nghiệp trong kỳ :
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Doanh thu thuần trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
1.3.2.5. Vòng quay toàn bộ vốn
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát hiệu suất sử dụng toàn bộ vốn hiện có của
doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau
Vòng quay toàn bộ vốn
Doanh thu thuần trong kỳ
Số vốn kinh doanh bình quân sử dụng
trong kỳ
1.3.3. Hệ số khả năng sinh lời.
1.3.3.1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu
thuần trong kỳ của doanh nghiệp . Nó thể hiện, khi thực hiện 1 đồng doanh thu
thuần trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận ròng
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
10
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Tỷ suất lợi nhuận
doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
1.3.3.2. Hệ số khả năng sinh lời vốn kinh doanh
Hệ số này phản ánh khả năng sinh lời của đồng vốn kinh doanh không
tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh
doanh.
Hệ số khả năng sinh lời
của vốn kinh doanh =
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Vốn kinh doanh bình quân.
1.3.3.3 .Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng sinh
lời ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay.
Tỷ suất lợi nhuận vốn
kinh doanh=
Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
1.3.3.4. Tỷ suất lợi nhuận ròng vốn kinh doanh
Phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
ròng
Tỷ suất LN ròng của vốn kinh
doanh(ROA)=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
1.3.3.5. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Hệ số này đo lường
mức lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
11
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở
hữu(ROE)=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong
kỳ
1.3.4. Hệ số kết cấu tài chính doanh nghiệp
1.3.4.1 Hệ số nợ
Hệ số phản ánh mức độ sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, đồng thời nó
còn cho biết mức độ rủi ro tài chính mà doanh nghiệp đang phải đối diện cũng
như mức độ đòn bẩy tài chính mà doanh nghiệp đang được hưởng.
Hệ số nợ=
Tổng số nợ của doanh nghiệp
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn và nợ dài
hạn.
Tổng nguồn vốn bao gồm toàn bộ các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử
dụng.
1.3.4.2 Hệ số nợ dài hạn
Hệ số này phản ánh tỷ lệ nợ dài hạn trong tổng nguồn vốn dài hạn hay
nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp
Hệ số nợ dài hạn=
Số nợ dài hạn
Tổng nguồn vốn thường xuyên
Nợ dài hạn là các khoản nợ mà thời gian phải trả nợ trên 12 tháng ( nếu
chia chi tiết gồm nợ trung hạn và dài hạn) bao gồm các khoản vay dài hạn ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, nợ vay qua phát hành trái phiếu và các khoản nợ
dài hạn khác. Tổng nguồn vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và số nợ
quá hạn.
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
12
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
1.3.4.3 Hệ số thanh toán lãi vay
Đây cũng là một hệ số cần xem xét khi phân tích kết cấu tài chính của
doanh nghiệp. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán tiền lãi vay của doanh
nghiệp và cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với các chủ nợ.
Lãi tiền vay là khoản chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp có nghĩa
vụ trả đúng hạn cho các chủ nợ. Một doanh nghiệp vay nợ nhiều nhưng kinh
doanh không tốt, mức sinh lời của đồng vốn quá thấp hoặc bị thua lỗ thì khó có
thể đảmbảo thanh toán tiền lãi vay đúng hạn. Hệ số thanh toán lãi vay được xác
định theo công thức sau :
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước lãi tiền vay và thuế
Số tiền vay phải trả trong kỳ
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
13
Luận văn tốt nghiệp GVHD : Th.S Đặng Hương Giang
CHƯƠNG 2 :
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ VẬT TƯ NGÂN HÀNG
2.1. Khái quát về Công ty Cổ phần Thiết bị Vật tư Ngân hàng.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty Vật tư Ngân hàng là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập
theo Quyết định số 192/QĐ- NH ngày 29/2/1986 do thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ký, quý II năm 1987 chính thức đi vào hoạt động .Từ khi Nhà
nước có Nghị định 388/ MĐG về việc thành lập lại doanh nghiệp theo quyết
đinh số 04/QĐ-NH15 ngày 20/01/1993 cuat Thống đốc Ngân hàng Nhà nước,
doanh nghiệp được đổi tên từ “ Công ty vật tư ngân hàng” thành “Công ty
cung ứng dịch vụ và kỹ thuật Ngân hàng” tên giao dịch quôc tế “Banking
materials company”. Được vay vốn cac ngân hàng trong và ngoài nước theo
pháp luật hiện hành.
Căn cứ Quyết định số 495/QĐ-NHNN ngày 27/04/2004 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc cổ phần hoá Công ty Vật tư Ngân hàng, doanh
nghiệp được chuyển thành Công ty cổ phần theo hình thức bán một phần vốn
Nhà nước hiện có tại công ty theo khoản 2 điều 3 Nghị định 64/202/NĐ-CP
ngày 19/06/2002 của Thủ tướng Chính Phủ.
Ngày 22/11/2004 Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký quyết
định số 64/2002/NĐ-CP phê duyệt phương án cổ phần hoá và chuyển Công
ty Vật tư Ngân hàng thuộc Ngân hàng sang Công ty Cổ phần Thiết bị Vật tư
Ngân hàng .Ngày 01/07/2005 Công ty chính thức hoạt động theo mô hình Công
ty Cổ phần với 51% vốn Nhà nước.
Tên công ty : Cổ phần thiết bị vật tư Ngân hàng.
Tên giao dịch quốc tế : Banking Equipment Material Company.
Tên viết tắt : BEMC
Mã số thuế : 0100151475
Trụ sở : 69 Lạc Trung – Hai Bà Trưng – Hà Nội
Đỗ Thị Bích Ngọc- Lớp KT1101 MSV: 06A01743
14