Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở việt nam thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 99 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY BẢO
HIỂM Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN



















































Họ và tên sinh viên : PHẠM THỊ HẠNH
Lớp : TRUNG 1
Khoá : K41E - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HOA



































































Hà Nội, 11/2006
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
1
LỜI NÓI ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, bảo hiểm là một ngành đã hình thành từ
lâu đời và phát triển mạnh mẽ. Hoạt động bảo hiểm thâm nhập vào mọi lĩnh
vực và có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, công ty bảo hiểm là một tổ chức
trung gian tài chính lớn, có chức năng huy động các nguồn vốn và cung ứng
vốn trung, dài hạn cho đầu tƣ phát triển. Ngành kinh doanh bảo hiểm đóng
góp 5% đến 10% GDP của các nƣớc đó.
1


So với thế giới, ngành bảo hiểm Việt Nam còn non trẻ. Các công ty bảo
hiểm ở Việt Nam mới chỉ thực sự hoạt động trong môi trƣờng cạnh tranh một
vài năm trở lại đây. Vai trò của các công ty bảo hiểm đối với nền kinh tế còn
hạn chế. Trong bối cảnh Nhà nƣớc đang tập trung mọi nguồn lực có thể để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì nguồn vốn mà các công ty bảo hiểm đang
quản lý đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên hầu hết các công ty bảo hiểm
ở Việt Nam hiện nay đều sử dụng chƣa hiệu quả nguồn vốn này. Dù đã có
những thay đổi trong cách nhìn nhận về vai trò, cách thức cũng nhƣ phƣơng
pháp tiến hành nhƣng hoạt động đầu tƣ - đặc biệt là hoạt động đầu tƣ tài chính
vốn đƣợc coi là hoạt động then chốt của công ty bảo hiểm vẫn chƣa thực sự
xứng đáng với tầm quan trọng của nó. Vì vậy, em đã chọn đề tài : “Hoạt
động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng
và giải pháp phát triển” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận xác định đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động đầu tƣ
tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2005.
Hoạt động đầu tƣ tài chính của các công ty bảo hiểm mà khóa luận đề cập bao


1
Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 2/2005.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
2
gồm: gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, cho vay có thế chấp, đầu tƣ chứng
khoán và kinh doanh bất động sản. Khóa luận cũng sẽ chỉ đề cập đến khái
niệm bảo hiểm với tƣ cách là một hoạt động kinh doanh mang tính chất
thƣơng mại trên thị trƣờng gọi là thị trƣờng bảo hiểm chứ không đề cập đến
nghiệp vụ bảo hiểm xã hội do cơ quan an sinh xã hội thực hiện.
3.Kết cấu của khóa luận.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa
luận đƣợc trình bày trong 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về công ty bảo hiểm và hoạt động đầu tƣ tài
chính của công ty bảo hiểm.
Chương 2. Thực trạng hoạt động đầu tƣ tài chính của các công ty bảo hiểm ở
Việt Nam.
Chương 3. Một số giải pháp phát triển hoạt động đầu tƣ tài chính của các
công ty bảo hiểm ở Việt Nam.
Do đây là hoạt động khá mới mẻ đối với các công ty bảo hiểm ở Việt
Nam nên số liệu thống kê chƣa thật đầy đủ. Hơn nữa do những hạn chế về
kiến thức nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong
nhận đƣợc những ý kiến chỉ bảo, đóng góp của các thầy cô và các bạn để hoàn
thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng,
đặc biệt là cô giáo TS. Nguyễn Thị Việt Hoa đã tận tình giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 11/2006.
Phạm Thị Hạnh
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
3
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY BẢO
HIỂM VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY
BẢO HIỂM

I. Công ty bảo hiểm.
1.Khái niệm.
Bảo hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ bản thân và tài sản của
con ngƣời trƣớc những bất hạnh của số phận. Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn
gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời nhƣng do tính đặc thù của loại hình này,

đến nay vẫn chƣa có một định nghĩa thống nhất về bảo hiểm.
Nhìn chung, bảo hiểm đƣợc hiểu là một dịch vụ tài chính dựa trên cơ sở
tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều ngƣời, nhiều đơn vị
cùng tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thƣờng thiệt hại về tài
chính do tài sản hoặc tính mạng của ngƣời đƣợc bảo hiểm gặp phải rủi ro bất
ngờ.
Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa : “Bảo hiểm là một cơ chế
mà theo cơ chế này nếu một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển
nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người
được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt
hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.”
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam ban hành ngày 9 tháng 12
năm 2000 thì “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm
để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Nhƣ vậy, các chuyên gia bảo hiểm Việt Nam quan niệm Bảo hiểm là
hoạt động kinh doanh mà theo đó trên cơ sở những thỏa thuận, ngƣời bảo
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
4
hiểm sẽ chấp nhận rủi ro có thể xảy ra và thuộc phạm vi bảo hiểm của ngƣời
đƣợc bảo hiểm, đồng thời ngƣời đƣợc bảo hiểm phải trả phí bảo hiểm. Khi rủi
ro xảy ra nằm trong phạm vi bảo hiểm thì ngƣời bảo hiểm bồi thƣờng cho
ngƣời đƣợc bảo hiểm hoặc thanh toán cho ngƣời thụ hƣởng.
Xét một cách chung nhất thì bảo hiểm có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
“Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm đối với người
được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một
rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo

hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.”
2

Bảo hiểm gồm bảo hiểm thƣơng mại và bảo hiểm xã hội. Nhƣ đã trình bày,
trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp này, em chỉ xin đề cập đến
bảo hiểm thƣơng mại.
Theo dòng lịch sử, bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất còn lƣu lại đƣợc phát
hành tại thành phố cảng Genoa-Italia năm 1347. Bảo hiểm hàng hải là loại
bảo hiểm có lịch sử lâu đời nhất, nó ra đời đầu tiên và đánh dấu sự ra đời của
bảo hiểm. Ngày nay, bảo hiểm đã phát triển nhanh và trở thành một ngành
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế với tƣ cách là một trung gian tài
chính, một nhà đầu tƣ tiềm năng lớn, đảm bảo an toàn cho nền kinh tế vận
hành ổn định và phát triển bền vững.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam ban hành ngày 9/12/2000 :
“Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật này (Luật kinh doanh bảo hiểm) và các quy định
khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.”
Các quy định khác của pháp luật mà Luật kinh doanh bảo hiểm muốn nói đến
ở đây chính là Luật Doanh nghiệp và các văn bản dƣới Luật có liên quan khác.
2.Đặc điểm của công ty bảo hiểm


2
PGS.TS Hoàng Văn Châu, PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến, TS Vũ Sĩ Tuấn (2002), Bảo hiểm trong kinh doanh.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
5
Công ty bảo hiểm là một loại doanh nghiệp đặc biệt. Ngoài những đặc
điểm của một doanh nghiệp kinh doanh thông thƣờng, công ty bảo hiểm mang
những đặc điểm riêng biệt do tính đặc thù của sản phẩm bảo hiểm.

2.1.Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp chuyên ngành.
Công ty bảo hiểm là doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng nhƣ các doanh
nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, công ty bảo hiểm
mang đặc trƣng của một doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh
doanh của mình trong khuôn khổ pháp lý nhất định. Kinh doanh bảo hiểm là
một ngành đặc thù, ngoài quy định của Luật Doanh nghiệp và hành lang pháp
lý chung, công ty bảo hiểm còn hoạt động dƣới sự điều chỉnh của Luật Kinh
doanh bảo hiểm và những văn bản dƣới luật hƣớng dẫn thi hành luật này.
Công ty bảo hiểm còn chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nƣớc
về kinh doanh bảo hiểm. Cụ thể ở Việt Nam là Vụ Bảo hiểm thuộc Bộ tài chính.
2.2. Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính.
Trên thị trƣờng tài chính, các dòng vốn chuyển từ ngƣời cho vay sang
ngƣời đi vay theo hai kênh:
- Kênh tài chính trực tiếp: các chủ thể dƣ thừa vốn trực tiếp
chuyển vốn cho các chủ thể thiếu vốn bằng cách mua các tài sản tài chính trực
tiếp do các chủ thể thiếu vốn phát hành thông qua thị trƣờng tài chính.
- Kênh tài chính gián tiếp: các chủ thể thừa vốn không trực tiếp
cung ứng vốn cho ngƣời thiếu vốn mà gián tiếp thông qua các trung gian tài
chính nhƣ các ngân hàng thƣơng mại, các công ty bảo hiểm hay các tổ chức
tài chính tín dụng khác.
Hoạt động của công ty bảo hiểm mang đầy đủ những đặc trƣng cơ bản
của một trung gian tài chính. Những nét đó biểu hiện cụ thể nhƣ sau:
- Thứ nhất, bản chất hoạt động kinh doanh bảo hiểm thể hiện vai trò
trung gian tài chính của công ty bảo hiểm. Phí bảo hiểm không trở thành tài
sản mà chính là khoản nợ của công ty đối với khách hàng nhằm đảm bảo
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
6
những cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm mà công ty bảo hiểm
thu đƣợc từ khách hàng sẽ đƣợc phân thành nhiều phần:

+ Một phần giữ lại công ty bảo hiểm, căn cứ vào mức giữ lại đối với từng
hợp đồng bảo hiểm.
+ Một phần đƣợc chuyển tái bảo hiểm theo những hợp đồng tái bảo hiểm
cố định hoặc tạm thời. Một công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm hàng ngàn dịch
vụ khác nhau, mỗi dịch vụ chỉ đƣợc giữ một tỷ lệ phí ở mức giữ lại thích hợp
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Phần còn lại đƣợc chuyển tái bảo hiểm
cho các công ty bảo hiểm khác nhằm chia sẻ rủi ro và đảm bảo an toàn tài
chính. Khi chuyển tái bảo hiểm, các công ty bảo hiểm gốc sẽ nhận đƣợc hoa
hồng nhƣợng tái bảo hiểm.
+ Một phần đƣợc dùng để thanh toán hoa hồng cho môi giới bảo hiểm hoặc
chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất.
+ Một phần đƣợc sử dụng để thanh toán những chi phí hoạt động kinh
doanh của công ty bảo hiểm.
Sau khi trừ đi tất cả những khoản chi phí, các khoản còn lại đƣợc trích lập
những quỹ dự phòng nghiệp vụ. Những quỹ này đƣợc sử dụng để thực hiện
trách nhiệm thanh toán cho khách hàng. Phí bảo hiểm là một khoản phải trả
cho khách hàng.
- Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm chỉ là cách thức huy động
nguồn vốn đầu tƣ cho công ty bảo hiểm còn hoạt động then chốt, mang ý
nghĩa sống còn đối với công ty bảo hiểm chính là hoạt động đầu tƣ.
Theo các cam kết của hợp đồng bảo hiểm, công ty bảo hiểm phải thực hiện
các nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng. Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ,
tổng số phí bảo hiểm đóng trong thời hạn bảo hiểm bao giờ cũng nhỏ hơn số
tiền bảo hiểm. Vì thế công ty bảo hiểm phải tiến hành các hoạt động đầu tƣ thì
mới có thể thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng và duy trì hoạt
động của mình.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
7
- Thứ ba, công ty bảo hiểm thực hiện những hoạt động đặc trƣng của

trung gian tài chính. Thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các công ty
bảo hiểm tập trung nguồn vốn từ quy mô nhỏ, phân tán thành nguồn vốn quy
mô lớn, tập trung. Từ nguồn phí bảo hiểm thu định kỳ trong những thời hạn
khác nhau, công ty bảo hiểm có thể chuyển thành những nguồn vốn lớn đƣợc
đầu tƣ theo thời hạn cụ thể thông qua hoạt động đầu tƣ. Tài sản bằng tiền từ
những quỹ dự phòng nghiệp vụ sẽ đƣợc chuyển thành những tài sản tài chính
(nếu đầu tƣ tài chính) và tài sản thực (nếu góp vốn liên doanh sản xuất). Vậy
nên công ty bảo hiểm là trung gian về quy mô nguồn vốn, về thời gian và tài
sản.
- Thứ tư, tài sản chủ yếu của công ty bảo hiểm là tài sản tài chính bao
gồm : các loại giấy tờ có giá nhƣ cổ phiếu, trái phiếu, hợp đồng quyền chọn,
các khoản vay có thể chuyển đổi …
- Thứ năm, công ty bảo hiểm có khả năng tích tụ và tập trung vốn cao.
Xét về độ lớn của nguồn vốn đầu tƣ thì công ty bảo hiểm chỉ đứng sau ngân
hàng thƣơng mại. Hơn nữa, quy mô vốn của công ty bảo hiểm không ngừng
tăng lên; vì thế mà công ty bảo hiểm cần quản lý và đầu tƣ có hiệu quả để bảo
toàn và phát triển vốn.
2.3.Công ty bảo hiểm thường không vay vốn phục vụ kinh doanh bảo hiểm.
Khi thành lập, công ty bảo hiểm có mức vốn điều lệ nhất định. Thông
thƣờng công ty bảo hiểm sẽ ký quỹ một phần để đảm bảo khả năng thanh toán.
Khi bắt đầu hoạt động, công ty bảo hiểm đã có những khoản thu từ phí bảo
hiểm. Trừ những trƣờng hợp đặc biệt, khi có những tổn thất xảy ra trên diện
rộng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà toàn bộ quỹ của công ty bảo hiểm
không gánh vác nổi chi phí bồi thƣờng thì công ty bảo hiểm mới phải vay vốn
để bù đắp nhằm đảm bảo cam kết với khách hàng. Tuy nhiên điều này chƣa
từng xảy ra trong lịch sử ngành bảo hiểm thế giới cũng nhƣ ngành bảo hiểm Việt Nam.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
8
2.4.Hoạt động của công ty bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong nền kinh

tế và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Công ty bảo hiểm chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia. Ngƣời ta có thể nói rằng : “ Tỷ lệ bảo hiểm trong nền kinh tế là
thƣớc đo mức độ phát triển của nền kinh tế đó”. Trên khía cạnh kinh tế, các
công ty bảo hiểm có vai trò đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tƣ. Có thể nói
không có các công ty bảo hiểm thì không thể có những tòa nhà cao tầng,
những dàn khoan hàng tỷ đôla ngoài biển khơi vì không nhà đầu tƣ nào dám
đầu tƣ những khoản tiền khổng lồ nhƣ thế nếu không có sự đảm bảo của các
công ty bảo hiểm. Trên khía cạnh xã hội, các công ty bảo hiểm đảm tạo công
ăn việc làm cho một lực lƣợng lớn ngƣời lao động; bảo đảm sự an toàn về thu
nhập và gia sản cho các cá nhân, gia đình, doanh nghiệp góp phần ổn định
xã hội.
2.5.Hoạt động của công ty bảo hiểm được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
Hoạt động của công ty bảo hiểm có ảnh hƣởng lớn tới sự hoạt động và
phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì thế, Nhà nƣớc phải kiểm soát chặt chẽ
nhằm 3 mục tiêu:
Thứ nhất là để bảo vệ quyền lợi của ngƣời tham gia bảo hiểm. Sự
quản lý của nhà nƣớc đảm bảo cho công ty bảo hiểm bảo toàn đƣợc nguồn
vốn đầu tƣ, tránh thất thoát vốn, đảm bảo cho các công ty bảo hiểm có thể
thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngƣời tham gia bảo hiểm, mục đích
cuối cùng cũng là để bảo vệ quyền lợi của ngƣời đƣợc bảo hiểm.
Thứ hai, Nhà nƣớc quản lý hoạt động của các công ty bảo hiểm là để
định hƣớng sự lƣu chuyển của các quỹ đầu tƣ. Quỹ đầu tƣ của các công ty bảo
hiểm rất lớn và luân chuyển theo nguyên tắc từ lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận
đầu tƣ thấp sang lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận đầu tƣ cao. Việc luân chuyển
này có thể ảnh hƣởng tới cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Nhà nƣớc cần can
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
9
thiệp để điều chỉnh hoạt động của các quỹ đầu tƣ này, đảm bảo cân đối đầu tƣ

cho nền kinh tế.
Thứ ba, Nhà nƣớc kiểm soát hoạt động của công ty bảo hiểm nhằm
giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính. Các quỹ đầu tƣ của
công ty bảo hiểm chỉ đứng sau các ngân hàng thƣơng mại cho nên Nhà nƣớc
cần kiểm soát sự đa dạng hóa của danh mục đầu tƣ nhằm ngăn chặn sự kiểm
soát và khống chế của công ty bảo hiểm đối với những tổ chức tài chính khác
hoặc với một ngành kinh tế cụ thể, chống tình trạng độc quyền.
3. Phân loại công ty bảo hiểm.
3.1.Theo tính chất sở hữu.
Đây là cách phân loại theo Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ban
hành ngày 9/12/2000. Cụ thể các loại hình công ty bảo hiểm theo tiêu thức
phân loại này bao gồm:
- Công ty bảo hiểm Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nƣớc thành
lập, đầu tƣ vốn và quản lý với tƣ cách là chủ sở hữu. Doanh nghiệp bảo hiểm
Nhà nƣớc là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng
trƣớc pháp luật với các loại hình doanh nghiệp khác. Ở Việt Nam hiện nay có
4 doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nƣớc là Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam -
Bảo Việt, Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, Công ty bảo hiểm thành
phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm Dầu khí.
- Công ty cổ phần bảo hiểm là loại hình doanh nghiệp do các cổ đông
tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ
tƣơng ứng với số vốn góp.
- Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tƣ cách pháp nhân đƣợc
thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tƣơng trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
10
thành viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tƣơng hỗ vừa là chủ sở hữu, vừa là
bên mua bảo hiểm.

3

- Công ty bảo hiểm liên doanh đƣợc thành lập trên cơ sở góp vốn của
các doanh nghiệp (trong nƣớc và nƣớc ngoài). Vị trí của các bên phụ thuộc
mức vốn góp. Các thành viên trong doanh nghiệp hƣởng lợi nhuận cũng nhƣ
chịu thua lỗ trên cơ sở tƣơng ứng mức vốn góp.
- Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài do nƣớc ngoài đầu tƣ, hoạt
động tại nƣớc sở tại theo pháp luật của nƣớc sở tại, đồng thời chịu sự chỉ đạo
của công ty mẹ ở chính quốc.
3.2.Theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Đây là tiêu thức phân loại chủ yếu đối với các công ty bảo hiểm hiện nay.
Các công ty bảo hiểm ở Việt Nam đƣợc đề cập đến trong khóa luận cũng đã
đƣợc phân loại theo tiêu chí này. Cụ thể có 3 loại hình là:
- Công ty bảo hiểm gốc.
Các công ty bảo hiểm gốc là công ty bảo hiểm cung cấp những dịch vụ bảo
hiểm trực tiếp cho khách hàng. Công ty bảo hiểm gốc gồm công ty bảo hiểm
nhân thọ và phi nhân thọ.
+ Công ty bảo hiểm nhân thọ thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ. Đặc trƣng của bảo hiểm nhân thọ là ngoài đặc tính của bảo hiểm sinh
mạng còn mang tính chất tiết kiệm.
Các nghiệp vụ cơ bản của công ty bảo hiểm nhân thọ là: bảo hiểm trọn đời,
bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định
kỳ.
+ Công ty bảo hiểm phi nhân thọ thực hiện những nghiệp vụ bảo
hiểm liên quan đến tài sản, trách nhiệm và tính mạng của ngƣời tham gia bảo
hiểm. Bảo hiểm phi nhân thọ không mang tính tiết kiệm. Ngƣời tham gia bảo
hiểm khi hết hạn hợp đồng bảo hiểm sẽ không đƣợc hoàn trả lại số phí bảo


3

Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành ngày 9/12/2000, Điều 70.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
11
hiểm dã đóng dù tổn thất có hay không xảy ra đối với đối tƣợng đƣợc bảo
hiểm.
Các nghiệp vụ cơ bản của công ty bảo hiểm phi nhân thọ là: bảo hiểm
sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con ngƣời; bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt
hại; bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đƣờng biển, đƣờng bộ, đƣờng sông,
đƣờng hàng không; bảo hiểm hàng không; bảo hiểm xe cơ giới; bảo hiểm thân
tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu; bảo hiểm trách nhiệm chung; bảo hiểm tín
dụng và rủi ro tài chính; bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; bảo hiểm nông nghiệp.
- Công ty tái bảo hiểm.
Công ty tái bảo hiểm thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm, tức là hoạt động
của công ty bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó công ty bảo hiểm nhận
một khoản phí bảo hiểm của công ty bảo hiểm khác để cam kết bồi thƣờng
cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm.
4

Công ty tái bảo hiểm không cung cấp dịch vụ bảo hiểm trực tiếp mà chỉ
nhận tái bảo hiểm từ công ty bảo hiểm gốc, đƣợc hiểu nhƣ bảo hiểm của bảo
hiểm.
- Công ty môi giới bảo hiểm.
Công ty môi giới bảo hiểm thực hiện nghiệp vụ môi giới bảo hiểm. Cụ
thể là cung cấp thông tin, tƣ vấn cho bên mua bảo hiểm thông tin về sản phẩm
bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và
các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
5


Công ty môi giới bảo hiểm đóng vai trò trung gian đại diện cho khách
hàng tham gia bảo hiểm. Thu nhập chính là phí môi giới bảo hiểm, đƣợc tính
theo tỷ lệ % trên tổng số phí bảo hiểm.
4.Các hoạt động của công ty bảo hiểm.


4
Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành 9/12/2000, Điều 3, Khoản 2.
5
Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành 9/12/2000, Điều 3, Khoản 4.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
12
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam thì các công ty bảo hiểm ở
Việt Nam đƣợc phép hoạt động trong khuôn khổ các nội dung sau:
- Kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
- Đề phòng, hạn chế rủi ro tổn thất.
- Giám định tổn thất.
- Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thƣờng, yêu cầu ngƣời thứ ba bồi
hoàn.
- Quản lý quỹ và đầu tƣ vốn.
- Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
II.Hoạt động đầu tƣ tài chính của công ty bảo hiểm.
1.Khái niệm.
Đầu tư và đầu tư tài chính.
Đầu tư theo nghĩa tổng quát là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến
hành những hoạt động nhằm mang lại những kết quả trong tương lai lớn hơn
nguồn lực đã bỏ ra.
Nguồn lực đã bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,
trí tuệ … Những kết quả đạt đƣợc có thể là sự gia tăng thêm các tài sản tài

chính, tài sản vật chất hay nguồn nhân lực có trình độ cao trong nền sản xuất
xã hội.
Hoạt động đầu tƣ bao gồm hai loại là đầu tƣ trực tiếp và đầu tƣ tài chính.
Đầu tƣ trực tiếp là hình thức bỏ vốn mở doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh.
Còn đầu tƣ tài chính, theo PGS.TS Nguyễn Năng Phúc trong cuốn “Phân tích
hoạt động đầu tƣ tài chính của doanh nghiệp” thì hoạt động đầu tƣ tài chính
của doanh nghiệp là “các hoạt động đầu tư vốn vào các lĩnh vực kinh doanh
khác, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích
mở rộng cơ hội thu lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro trong họat động tài chính
của doanh nghiệp”.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
13
Thực chất hoạt động đầu tƣ tài chính của doanh nghiệp là dùng vốn để
mua chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phƣơng, trái
phiếu công ty, tín phiếu kho bạc và các công cụ khác của thị trƣờng tiền tệ
nhằm mục đích sinh lời. Đầu tƣ tài chính làm tăng giá trị tài sản tài chính của
nhà đầu tƣ. Đầu tƣ tài chính sẽ thực sự phát huy hết sức mạnh của nó khi thị
trƣờng tài chính với những cơ chế hoàn chỉnh đƣợc xác lập mà nền tảng là thị
trƣờng chứng khoán. Đầu tƣ tài chính sẽ khơi dòng một nguồn vốn lƣu
chuyển lớn, mở rộng các đối tƣợng tham gia và xã hội hóa hoạt động đầu tƣ.
Đầu tư tài chính trong các công ty bảo hiểm.
Đối với công ty bảo hiểm, hoạt động đầu tƣ là việc sử dụng quỹ đầu tƣ
thực hiện các hoạt động đầu tƣ nhằm thu lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo nguyên
tắc an toàn, hiệu quả và đáp ứng đƣợc các yêu cầu chi trả thƣờng xuyên theo
các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư tài chính của công ty bảo hiểm là dạng đầu tư tiền để
cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi
ngân hàng, mua trái phiếu) hoặc lãi suất tùy thuộc vào kết quả hoạt động
kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty) hoặc để

hưởng chênh lệch giá trong quá trình mua bán những tài sản tài chính trên
thị trường chứng khoán.
6

Trên thực tế, các công ty bảo hiểm sử dụng quỹ đầu tƣ để đầu tƣ vào
nhiều lĩnh vực nhƣ gửi tiền vào các tổ chức tín dụng, cho vay, đầu tƣ chứng
khoán, đầu tƣ bất động sản, góp vốn liên doanh. Nhƣng theo quan điểm về
đầu tƣ tài chính đã trình bày ở trên thì hoạt động góp vốn liên doanh không
đƣợc xếp trong nhóm các hoạt động đầu tƣ tài chính. Dƣới đây chỉ đi sâu
phân tích 4 hoạt động đầu tƣ tài chính nêu trên.
2.Vai trò của hoạt động đầu tƣ tài chính trong các công ty bảo hiểm.


6
Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân (2004), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
14
2.1.Đối với bản thân công ty bảo hiểm.
Đầu tƣ có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động kinh doanh của bất
kỳ công ty bảo hiểm nào. Công ty bảo hiểm không chỉ có nhiệm vụ quản lý
thu chi quỹ tài chính bảo hiểm mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Hoạt
động đầu tƣ có hiệu quả chính là phát triển quỹ tài chính của công ty bảo
hiểm. Nhìn chung hoạt động đầu tƣ của công ty bảo hiểm có những vai trò cơ
bản sau:
- Hoạt động đầu tƣ ảnh hƣởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của
công ty bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tƣ cao sẽ giúp công ty bảo hiểm có
điều kiện giảm phí bảo hiểm, giành khách hàng từ đối thủ cạnh tranh. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trƣờng bảo
hiểm hiện nay. Cạnh tranh thông qua phí bảo hiểm vẫn đƣợc coi là nhân tố

quan trọng hàng đầu đối với các tầng lớp dân cƣ có mức thu nhập từ bậc trung
trở xuống. Đây cũng là biện pháp cạnh tranh chủ yếu của các công ty bảo
hiểm ở Việt Nam hiện nay. Việc tạo ra sản phẩm bảo hiểm với mức phí linh
hoạt, nhạy cảm với biến động lãi suất đã làm nảy sinh mối quan hệ qua lại
giữa hoạt động đầu tƣ và hoạt động bảo hiểm, quyết định khả năng cạnh tranh
của các sản phẩm bảo hiểm trên thị trƣờng hiện nay.
- Hoạt động đầu tƣ chi phối chiến lƣợc thiết kế và bán sản phẩm của
công ty bảo hiểm thông qua việc định giá các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng
phạm vi trách nhiệm hay tăng quyền lợi cho khách hàng. Nhƣ đã trình bày ở
trên, nếu hoạt động đầu tƣ có hiệu quả, công ty bảo hiểm có thể thiết kế các
sản phẩm bảo hiểm có mức phí linh hoạt, phù hợp với nhiều đối tƣợng khách
hàng, có những phạm vi trách nhiệm hay quyền lợi của khách hàng mang tính
cạnh tranh so với các công ty bảo hiểm khác. Bởi lẽ tiềm lực tài chính của
công ty bảo hiểm là yếu tố quan trọng trong việc thiết kế và bán sản phẩm bảo
hiểm. Với hiệu quả cao trong hoạt động đầu tƣ, các công ty bảo hiểm có thể
từng bƣớc thiết lập một nền tảng tài chính vững chắc, phát triển đƣợc những
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
15
sản phẩm bảo hiểm mới, đi tiên phong và thắng lợi trong chiến lƣợc cạnh
tranh bằng sản phẩm.
- Hoạt động đầu tƣ giúp các công ty bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với ngƣời tham gia
bảo hiểm. Vì bảo hiểm nhân thọ không chỉ có tính rủi ro mà còn có tính tiết
kiệm. Do đó việc đầu tƣ có hiệu quả tiền phí bảo hiểm không đơn thuần là
phát triển quỹ tài chính mà là trách nhiệm của công ty bảo hiểm để đảm bảo
trả tiền lãi cho khách hàng nhƣ đã cam kết.
- Hoạt động đầu tƣ giúp các công ty bảo hiểm bù đắp sự mất giá của
đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính trƣớc rủi ro lạm phát.
- Hoạt động đầu tƣ đóng góp vào sự tăng trƣởng thu nhập và lợi nhuận

của công ty bảo hiểm, tăng cổ tức cho cổ đông, tăng quỹ khen thƣởng phúc
lợi và thu nhập cho ngƣời lao động.
- Ngoài ra hoạt động đầu tƣ còn có một số ý nghĩa khác đối với công
ty bảo hiểm. Thông qua các hoạt động đầu tƣ, công ty bảo hiểm có thể khuếch
trƣơng quảng cáo, tạo thêm khách hàng cho công ty.
2.2.Đối với xă hội.
Vai trò của hoạt động đầu tƣ của công ty bảo hiểm đƣợc thể hiện rõ nét
nhất thông qua việc huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm thực
chất là hoạt động dịch vụ tài chính và các công ty bảo hiểm thực chất là các tổ
chức trung gian tài chính. Cùng với hoạt động của các trung gian tài chính
khác nhƣ ngân hàng thƣơng mại, công ty chứng khoán,… các công ty bảo
hiểm đƣợc coi là một kênh cung cấp vốn quan trọng và có một số ƣu điểm so
với các trung gian tài chính khác nhƣ huy động đƣợc những khoản tiền nhỏ từ
dân chúng dƣới hình thức phí bảo hiểm. Là một trung gian tài chính, công ty
bảo hiểm thu hút, cung ứng vốn, góp phần đáp ứng những nhu cầu về vốn,
thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Ngoài ra hoạt động đầu tƣ của công ty bảo hiểm còn có tác động không nhỏ
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
16
đến sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, tạo việc làm
cho ngƣời lao động, góp phần ổn định xã hội, tăng thu cho ngân sách nhà
nƣớc, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân.
3.Nguồn vốn đầu tƣ của các công ty bảo hiểm.
Điều 11 Nghị định 43/2001/NĐ-CP ban hành ngày 1/8/2001 quy định
các nguồn vốn đầu tƣ của công ty bảo hiểm bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ
bắt buộc và tự nguyện, các khoản lãi của những năm trƣớc chƣa sử dụng và
các quỹ đƣợc sử dụng để đầu tƣ hình thành từ lợi tức để lại của doanh nghiệp,
nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Cụ thể nhƣ sau:
3.1.Nguồn vốn chủ sở hữu.

Trên thực tế, để đảm bảo quyền lợi cho ngƣời tham gia bảo hiểm, pháp
luật các nƣớc thƣờng quy định vốn pháp định của các công ty bảo hiểm là
tƣơng đối lớn. Ở Việt Nam, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định vốn pháp
định của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ là 70 tỷ đồng hoặc 5 triệu đô la
Mỹ. Với công ty bảo hiểm nhân thọ là 140 tỷ đồng hoặc 10 triệu đôla Mỹ.
Mức vốn pháp định của công ty môi giới bảo hiểm là 4 tỷ đồng hoặc 300 ngàn
đô la Mỹ.
Doanh nghiệp thƣờng phải ký quỹ một phần vốn điều lệ của doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ ký quỹ là 5%
vốn pháp định.
Trong công ty bảo hiểm, nguồn vốn đầu tƣ từ vốn chủ sở hữu không
chiếm tỷ lệ lớn nhất nhƣng khá quan trọng. Nó là vốn tự có của công ty nên
không chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật, tạo điều kiện cho công ty bảo
hiểm đầu tƣ vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao.
3.2.Quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện.
Công ty bảo hiểm cũng nhƣ các trung gian tài chính khác có chức năng
quan trọng lƣu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc thu phí
bảo hiểm của ngƣời tham gia bảo hiểm và đầu tƣ nguồn phí đó một cách có
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
17
hiệu quả. Nhƣng trong quá trình hoạt động kinh doanh, bản thân công ty bảo
hiểm cũng có thể gặp phải những rủi ro, ảnh hƣởng đến khả năng thanh toán
của công ty và suy cho cùng là ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời tham gia
bảo hiểm. Chính vì vậy để quản lý công ty bảo hiểm và đảm bảo khả năng
thanh toán cho công ty bảo hiểm, Nhà nƣớc yêu cầu công ty bảo hiểm phải
trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc. Ở Việt Nam quy định các công ty bảo hiểm
phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức
tối đa của quỹ dự trữ bắt buộc là 10% vốn điều lệ của công ty bảo hiểm.
Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc, công ty bảo hiểm còn có thể tự lập quỹ dự trữ tự

nguyện nhằm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Quỹ này đƣợc lấy
từ lợi nhuận sau thuế chƣa phân phối và phải đƣợc ghi trong điều lệ hoạt động
của công ty.
3.3.Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng.
Cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của công ty bảo hiểm đƣợc
phân phối cho các cổ đông dƣới hình thức cổ tức, trích lập các quỹ đầu tƣ
phát triển, quỹ khen thƣởng, quỹ phúc lợi. Phần còn lại chƣa sử dụng sẽ bổ
sung vào nguồn vốn đầu tƣ của công ty. Ngoài ra trong kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ, công ty bảo hiểm còn có quỹ đầu tƣ hình thành từ lợi tức để lại, đảm
bảo cho những hợp đồng cam kết chia lãi.
3.4.Nguốn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích
lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã đƣợc xác
định trƣớc và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
7

Các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đƣợc trích lập trên cơ sở phí bảo
hiểm thu đƣợc. Quỹ này đƣợc dùng để thanh toán cho những tổn thất đã xảy
ra và những tổn thất có thể sẽ xảy ra trong tƣơng lai. Ngoài những tổn thất có
thể tính toán đƣợc, công ty bảo hiểm phải tính đến những khoản chi trả lớn


7
Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành 9/12/2000, Điều 96.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
18
ngoài dự kiến không thể lƣờng trƣớc đƣợc. Công ty bảo hiểm phải trích lập
các quỹ dự phòng nghiệp vụ cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phần trách
nhiệm còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Cách thức trích lập quỹ bảo hiểm phụ

thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của công ty bảo hiểm.
Theo điều 8 Nghị định 43/2001/ NĐ- CP, công ty bảo hiểm phi nhân thọ
phải trích lập dự phòng nghiệp vụ từ phí bảo hiểm của từng nghiệp vụ bảo
hiểm đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Dự phòng phí chƣa đƣợc hƣởng, đƣợc dùng để bồi thƣờng cho trách
nhiệm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong
năm tiếp theo.
- Dự phòng bồi thƣờng cho khiếu nại chƣa giải quyết, đƣợc dùng để
bồi thƣờng cho các tổn thất đã phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm chƣa
khiếu nại hoặc đã khiếu nại nhƣng đến cuối năm tài chính chƣa đƣợc giải
quyết.
- Dự phòng bồi thƣờng cho các dao động lớn về tổn thất, đƣợc dùng
để bồi thƣờng khi có dao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà
tổng phí bảo hiểm giữ lại trong năm tài chính sau khi đã trích lập dự phòng
phí chƣa đƣợc hƣởng và dự phòng bồi thƣờng cho khiếu nại chƣa giải quyết
không đủ để chi trả tiền bồi thƣờng đối với phần trách nhiệm giữ lại của công
ty bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm nhân thọ phải trích lập các quỹ dự phòng sau:
- Quỹ dự phòng toán học. Là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của
số tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu đƣợc trong tƣơng
lai, đƣợc sử dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Quỹ dự phòng chƣa đƣợc hƣởng áp dụng đối với các hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ có thời hạn dƣới 1 năm, đƣợc dùng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát
sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
19
- Quỹ dự phòng bồi thƣờng, đƣợc dùng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm nhƣng đến cuối năm tài chính chƣa đƣợc giải quyết.

- Quỹ dự phòng chia lãi, đƣợc dùng để trả lãi mà công ty bảo hiểm đã
thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
- Quỹ dự phòng đảm bảo cân đối, đƣợc dùng để trả tiền bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của một công ty
bảo hiểm là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà công ty
bảo hiểm dùng để bồi thƣờng bảo hiểm thƣờng xuyên trong kỳ đối với bảo
hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thƣờng xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm
nhân thọ.
Cũng theo quy định của Nghị định 43/2001/NĐ- CP, khoản tiền dùng để
bồi thƣờng bảo hiểm thƣờng xuyên trong kỳ của công ty bảo hiểm phi nhân
thọ không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm, còn khoản tiền
dùng để trả tiền bảo hiểm thƣờng xuyên của công ty bảo hiểm nhân thọ không
thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Nhƣ thế có nghĩa là nguồn
vốn nhàn rỗi có thể đem đầu tƣ của công ty bảo hiểm phi nhân thọ có thể lên
đến 75% quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và con số này ở công ty bảo hiểm
nhân thọ là 95%.
4.Các hình thức đầu tƣ tài chính của các công ty bảo hiểm.
4.1.Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Đây là hình thức đầu tƣ ngắn hạn và đơn giản nhất. Công ty bảo hiểm
thực hiện việc ký thác nguồn ngân quỹ của mình vào các tổ chức tín dụng và
hƣởng lãi suất. Hình thức đầu tƣ tiền gửi này có một số đặc trƣng sau:
- Kỹ thuật tính toán rất đơn giản, công ty bảo hiểm có thể tính toán
tƣơng đối chính xác các khoản thu nhập trong tƣơng lai.
- Mức độ an toàn vốn cao. Nếu công ty bảo hiểm lựa chọn các ngân
hàng thƣơng mại có tiềm lực tài chính mạnh, uy tín thì tỷ lệ rủi ro là rất thấp.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
20
Tất nhiên công ty bảo hiểm cũng không thể tránh khỏi những rủi ro có tính hệ

thống nhƣ rủi ro lạm phát, sự bất ổn định về lãi suất.
- Lãi suất không ổn định. Lãi suất tiền gửi thƣờng xuyên biến động
theo sự điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nƣớc.
- Thời hạn đầu tƣ ngắn. Do lãi suất trên thị trƣờng luôn biến động nên
các ngân hàng thƣơng mại chỉ thực hiện huy động các loại tiền gửi ngắn hạn
hoặc không kỳ hạn để kịp thời điều chỉnh lãi suất huy động cho phù hợp với
lãi suất của thị trƣờng. Nhƣ vậy các công ty bảo hiểm không nên đầu tƣ các
nguồn vốn dài hạn của mình vào loại đầu tƣ này.
Các nguồn vốn thƣờng đƣợc công ty bảo hiểm sử dụng đầu tƣ theo hình
thức này gồm:
- Nguồn vốn ký quỹ : khoản ký quỹ này phải nộp khi công ty bảo hiểm
đƣợc thành lập. Tùy theo quy định của từng nƣớc mà khoản này có đƣợc trả
lãi hay không. Theo luật Việt Nam, khoản ký quỹ này đƣợc hƣởng lãi suất tùy
theo thỏa thuận với ngân hàng nơi ký quỹ.
- Nguồn chi trả bảo hiểm thƣờng xuyên trong kỳ thƣờng đƣợc gửi
dƣới dạng không kỳ hạn hoặc ngắn hạn.
- Những khoản chi thƣờng xuyên cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm
gồm chi phí bộ máy quản lý, chi phí giao dịch, chi phí marketing, chi phí đề
phòng và hạn chế tổn thất, chi phí hoa hồng…
- Những nguồn vốn chƣa có nhu cầu sử dụng ngay sẽ đƣợc gửi tiết
kiệm kỳ hạn dƣới 1 năm.
- Những khoản ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu thanh toán tái bảo hiểm
trong niên khóa tài chính đƣợc gửi theo dạng tiết kiệm ngoại tệ có kỳ hạn.
Từ những đặc trƣng này có thể thấy đầu tƣ tiền gửi tại các tổ chức tín
dụng là loại đầu tƣ ngắn hạn, ít rủi ro, ít gây thiệt hại về vốn và chỉ thực sự
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
21
phù hợp với việc sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm

phi nhân thọ.
4.2.Cho vay có thế chấp
Hoạt động đầu tƣ thông qua cho vay có vai trò rất quan trọng đối với các
công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nhân thọ. Sở dĩ nhƣ vậy là
do các lý do sau :
- Cho vay có tài sản thế chấp tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính. Các
quỹ của công ty bảo hiểm chủ yếu đƣợc hình thành từ nguồn phí bảo hiểm của
ngƣời tham gia bảo hiểm. Vì vậy các khoản vay có đảm bảo là cách sử dụng
có hiệu quả nhất nguồn quỹ này vì nó đáp ứng đƣợc các yêu cầu cơ bản của
việc cho vay là tính an toàn, khả năng sinh lời và tính thanh khoản cao.
- Cho vay có tài sản thế chấp tạo thu nhập ổn định cho công ty bảo
hiểm, bởi vì lãi suất vay đã đƣợc thỏa thuận trƣớc. Ngƣời vay bắt buộc phải
trả lãi theo cam kết trong hợp đồng bất kể tình hình kinh doanh của họ tốt hay
xấu. Từ đó làm giảm rủi ro tín dụng cho công ty bảo hiểm.
- Cho vay có tài sản thế chấp tạo ra một kênh huy động vốn cho nền kinh
tế. Bằng hình thức đầu tƣ này, công ty bảo hiểm thực sự hoạt động nhƣ một
trung gian tài chính, đem đến cho công chúng một sự lựa chọn tài chính khác
bên cạnh các ngân hàng thƣơng mại và các trung gian tài chính khác.
- Cho vay có tài sản thế chấp góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các
sản phẩm bảo hiểm. Những khoản vay kết hợp với các sản phẩm bảo hiểm sẽ
mở rộng các dịch vụ có thể cung cấp cho khách hàng. Nhằm mục đích khuyến
mại, các khoản vay sẽ rất có ích đối với việc phát triển hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
Hiện nay các khoản cho vay có thế chấp của các công ty bảo hiểm
thƣờng đƣợc đảm bảo bằng bất động sản. Ngoài ra, các khoản vay theo đơn
bảo hiểm ngày càng có xu hƣớng gia tăng, đặc biệt là trong bảo hiểm nhân thọ.
Đây cũng là một cách thu hút thêm khách hàng cho công ty bảo hiểm. Ở Mỹ,
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
22

cho vay theo đơn bảo hiểm chiếm 4% giá trị tài sản của các công ty bảo hiểm
8
.
Ở Việt Nam hiện nay, việc cho vay theo hợp đồng bảo hiểm đang rất thịnh
hành và đƣợc các công ty bảo hiểm sử dụng nhƣ một hình thức cạnh tranh.
Với tính chất là một công cụ đầu tƣ, khi tiến hành hoạt động cho vay, các
công ty bảo hiểm cũng phải chịu một số hạn chế nhất định. Luật pháp các
nƣớc quy định các khoản vay phải đƣợc đảm bảo bằng bảo lãnh của ngân
hàng, bất động sản, chứng khoán hay hợp đồng bảo hiểm. Các nƣớc cũng quy
định giới hạn tổng số tiền cho vay. Ngoài ra một số nƣớc còn quy định những
hạn chế về đồng tiền cho vay.
4.3.Đầu tư chứng khoán.
Đầu tƣ chứng khoán là một công cụ đầu tƣ đƣợc các công ty bảo hiểm sử
dụng rộng rãi nhất. Tại Mỹ vào những năm 1990 giá trị đầu tƣ vào chứng
khoán chiếm khoảng 60% tổng giá trị đầu tƣ của các công ty bảo hiểm nhân
thọ
9
. Điều này có nghĩa là thu nhập mà các khoản đầu tƣ chứng khoán đem
lại cho công ty bảo hiểm rất lớn. Ngoài ra đầu tƣ vào chứng khoán có tính
thanh khoản cao, vì công ty bảo hiểm có thể nhanh chóng bán các loại chứng
khoán trên thị trƣờng để đáp ứng nhu cầu chi trả tiền mặt của công ty. Chứng
khoán mà công ty bảo hiểm đầu tƣ chủ yếu gồm có cổ phiếu và trái phiếu.
- Cổ phiếu.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán đƣợc phát hành dƣới dạng chứng chỉ hay
bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của ngƣời sở hữu
cổ phiếu đối với tài sản hay vốn của một công ty cổ phần.
10

Khi đầu tƣ vào cổ phiếu, ngoài phần thu nhập từ cổ tức, công ty bảo hiểm còn
có thể thu đƣợc một khoản lãi do sự chênh lệch giữa giá thị trƣờng hiện tại và

giá mua vào của cổ phiếu. Tuy nhiên sự biến động về giá cổ phiếu là thất


8
Theo www.pvi.com.vn
9
Theo www.pvi.com.vn
10
Uỷ ban chứng khoán Nhà nƣớc - Trung tâm nghiên cứu và bồi dƣỡng nghiệp vụ chứng khoán - TS. Đào Lê Minh
chủ biên (2002), Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
23
thƣờng, không theo bất cứ quy luật nào khiến cho đầu tƣ vào lĩnh vực này là
một trong những hoạt động đầu tƣ mạo hiểm nhất. Do vậy, đầu tƣ vào cổ
phiếu không phải là sự lựa chọn tối ƣu đối với việc sử dụng nguồn vốn của
các công ty bảo hiểm nhân thọ - những tổ chức đầu tƣ cần một tỷ suất lợi
nhuận chắc chắn. Trên thực tế, việc đầu tƣ của các công ty bảo hiểm vào loại
tài sản này luôn bị pháp luật khống chế bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định
trong tổng vốn đầu tƣ.
- Trái phiếu.
Trái phiếu là một loại chứng khoán đƣợc phát hành dƣới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ, gồm vốn gốc và lãi của tổ
chức phát hành trái phiếu đối với ngƣời sở hữu trái phiếu. Trái phiếu là một
công cụ nợ do Chính phủ hoặc các doanh nghiệp có uy tín phát hành. Vì vậy
việc thanh toán trái tức và vốn khi đáo hạn có sự đảm bảo tƣơng đối chắc
chắn hơn so với các loại hình cho vay khác. Trái phiếu Chính phủ là loại
chứng khoán có rủi ro thanh toán bằng không vì nó có nguồn đảm bảo khả
năng thanh toán lớn nhất là thuế và quyền lực phát hành. Trái phiếu công ty

rủi ro hơn nhƣng đồng thời cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với trái phiếu
chính phủ. Đầu tƣ vào trái phiếu chủ yếu chịu tác động của rủi ro lãi suất do
tỷ lệ lãi vay đã đƣợc ấn định trƣớc, còn lãi suất lại thƣờng xuyên thay đổi cho
phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nƣớc trong từng thời kỳ.
Trong những năm gần đây, xu hƣớng của các công ty bảo hiểm trên thế
giới là đầu tƣ vào trái phiếu công ty, vì so với cổ phiếu thì trái phiếu công ty
an toàn hơn và so với trái phiếu chính phủ thì trái phiếu công ty có lãi suất
đầu tƣ cao hơn. Nói cách khác, đầu tƣ vào trái phiếu công ty có mức độ rủi ro
cũng nhƣ mức lãi suất có thể chấp nhận đƣợc.
Ngoài ra các công ty bảo hiểm còn đầu tƣ vào các công cụ khác của thị
trƣờng chứng khoán nhƣ các hợp đồng quyền chọn, các hợp đồng tƣơng lai….
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.
Phạm Thị Hạnh - Trung1 - K41E - KTNT
24
Do đầu tƣ vào chứng khoán có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn so với các hình thức
đầu tƣ khác, các công ty bảo hiểm thƣờng có xu hƣớng đầu tƣ giá trị lớn vào
danh mục này. Chính vì vậy để tránh rủi ro đầu tƣ lớn vào chứng khoán và
đảm bảo sự đa dạng của hoạt động đầu tƣ, pháp luật các nƣớc đều đặt ra giới
hạn tỷ lệ tối đa cho hoạt động đầu tƣ chứng khoán của công ty bảo hiểm. Hạn
chế này ảnh hƣởng đến lợi nhuận đầu tƣ của các công ty bảo hiểm nhƣng đảm
bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tƣ.
4.4.Đầu tư bất động sản.
Đầu tƣ vào bất động sản cũng là một lĩnh vực quan trọng trong danh mục
đầu tƣ của công ty bảo hiểm. Đầu tƣ vào bất động sản có những ƣu điểm lớn
nhƣ:
- Đầu tƣ vào bất động sản duy trì sự ổn định giá trị, việc đầu tƣ vào bất
động sản gần nhƣ không chịu sự tác động của yếu tố lạm phát.
- Đầu tƣ vào bất động sản đa dạng hóa đầu tƣ cho công ty bảo hiểm
thông qua việc đầu tƣ vào nhiều bất động sản khác nhau nhƣ văn phòng,
khách sạn, nhà ở, cửa hàng…

- Đầu tƣ vào bất động sản phát huy tác động khuếch trƣơng, quảng cáo,
nâng cao hình ảnh của công ty bằng việc sở hữu những tòa nhà đẹp, to lớn và
chất lƣợng.
- Đầu tƣ vào bất động sản cũng giúp công ty bảo hiểm cung cấp địa
điểm làm việc thuận lợi cho khách hàng, từ đó thắt chặt quan hệ với khách
hàng.
Tuy nhiên bất động sản là lĩnh vực đầu tƣ nhiều mạo hiểm. Sự lên xuống
giá cả của thị trƣờng bất động sản rất thất thƣờng, phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố nhƣ sự phát triển của nền kinh tế, lãi suất, dân số, tâm lý… Giá cả bất động
sản biến động không theo bất cứ quy luật nào cho nên việc đầu tƣ vào bất
động sản có rủi ro thị trƣờng cao và tính thanh khoản thấp, khó chuyển đổi
hoặc mất nhiều thời gian chuyển đổi khoản đầu tƣ ra tiền mặt. Do đó các công

×