Bác sĩ
MAI TRUNG DŨNG
CƠ SỞ SINH HỌC & BỆNH HỌC
Hà nội - 2006
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
Chương 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐAU 4
CƠ CHẾ ĐAU 4
PHẢN ỨNG VIÊM 20
LƯỢNG GIÁ VÀ ĐIỀU TRỊ ĐAU 23
Chương 2. CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ ĐAU [27] 34
THUỐC GIẢM ĐAU GÂY NGHIỆN (OPIAT) 35
GLUCO-CORTICOID 44
THUỐC CHỐNG VIÊM NON-STEROID 53
Thuốc chữa Goutte 68
Thuốc phong bế dẫn truyền 70
Chương 3. Điều trị đau bằng phong bế và tiêm tại chỗ
[12]
90
Phong bế thần kinh 90
Tiêm gân và nội khớp 116
Kỹ thuật tiêm điểm đau kích thích ở cơ 139
Chương 4. Điều trị đau bằng các phương pháp vật lý 147
ĐIỀU TRỊ ĐAU BẰNG NHIỆT 148
I. NHIỆT LẠNH. 148
II. NHIỆT NÓNG. 148
1. Nhiệt dẫn truyền - Paraffin. 149
2. Nhiệt bức xạ - hồng ngoại. 151
3. Nội nhiệt - sóng ngắn và vi sóng. 151
4. Nhiệt cơ học - siêu âm. 156
ĐIỀU TRỊ ĐAU BẰNG DÒNG ĐIỆN 161
I. DÒNG ĐIỆN MỘT CHIỀU ĐỀU. 161
II. DÒNG ĐIỆN XUNG. 164
Điều trị đau bằng các phương pháp cơ học 172
I. Xoa bóp và vận động. 172
II. Kéo giãn cột sống (Spinal traction). 177
III. Tác động cột sống (Manipulation). 186
Điều trị đau bằng ánh sáng 189
I. Tử ngoại. 189
II. LASER công suất thấp 192
Điều trị đau bằng một số phương pháp vật lý khác 196
I. Ion khí. 196
II. Tĩnh điện trường 196
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
2
III. Điện trường cao áp. 197
IV. Ion tĩnh điện. 198
V. Từ trường. 199
Chương 5. Điều trị đau bằng y học cổ truyền. 201
Điều trị đau theo biện chứng luận trị 201
Điều trị đau bằng châm cứu 208
Chương 6. Bệnh học đau 221
Thoái hóa khớp 221
Đau thắt lưng hông 227
I. Đại cương đau thắt lưng hông. 227
II. Thoái hóa cột sống thắt lưng. 240
III. Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. 243
ĐAU CỔ VAI 257
I. HỘI CHỨNG CỔ VAI CÁNH TAY. 257
II. HỘI CHỨNG GIAO CẢM CỔ SAU (Barre-Lieow). 266
III. HỘI CHỨNG VAI – BÀN TAY – NGÓN TAY. 267
IV. Hội chứng cơ bậc thang trước. 270
V. Hội chứng sườn đòn. 271
VI. Hội chứng cơ ngực bé. 271
VII. Chứng vẹo cổ. 272
Bệnh viêm cột sống dính khớp (Bechterew) 274
MỘT SỐ BỆNH XƯƠNG KHỚP TUỔI THIẾU NIÊN 282
CÁC BỆNH MẤT VÔI XƯƠNG 287
I. BỆNH LOÃNG XƯƠNG 287
II. Bệnh nhuyễn xương. 296
BỆNH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP 298
BỆNH GOUTTE 313
TỔN THƯƠNG PHẦN MỀM QUANH KHỚP 321
I. Viêm gân. 321
II. Viêm quanh khớp vai. 323
III. Hội chứng đau xơ cơ. 330
IV. Tổn thương dây chằng do chấn thương (bong gân).
[14]
332
Đau đầu 341
Đau do căn nguyên thần kinh 353
ĐAU DO BỆNH LÝ MẠCH MÁU NGOẠI BIÊN 362
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 377
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
3
LỜI NÓI ĐẦU
Đau là một hội chứng gặp trong rất nhiều bệnh lý khác nhau và là nguyên nhân
chủ yếu làm cho người bệnh phải đi khám và điều trị. Các hội chứng đau được nghiên
cứu và điều trị trong nhiều chuyên khoa như: Thần kinh, Cơ xương khớp, Vật lý trị
liệu – Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền dân tộc… Hội chứng đau ở các cơ quan
bộ phận tuy có những biểu hiện triệu chứng khác nhau nhưng việc điều trị đều có
những điểm tương đồng.
Điều trị đau bằng thuốc giảm đau chống viêm là phương pháp được sử dụng
rộng rãi, có thể cho kết quả giảm đau nhanh chóng. Tuy nhiên việc dùng thuốc lâu dài
có thể gây ra nhiều biến chứng ở hệ tiêu hóa, huyết học và nội tiết. Do đó điều trị đau
bằng các phương pháp không dùng thuốc đang ngày càng được lựa chọn nhiều hơn
với các phương pháp hiệu quả và an toàn. Bởi vậy, cả thầy thuốc nội khoa lẫn thầy
thuốc tại các khoa VLTL-PHCN đều cần có những kiến thức tổng hợp về điều trị đau
bằng cả các phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc để có thể áp dụng hoặc tư
vấn cho bệnh nhân khi cần thiết. Trước yêu cầu tự nâng cao trình độ chuyên môn,
chúng tôi đã siêu tầm và biên soạn tài liệu “Điều trị đau” này bao gồm nhiều lĩnh vực
liên quan đến đau như sinh lý thường, sinh lý bệnh cho đến dược lý lâm sàng và bệnh
học đau; từ y học cổ truyền, vật lý trị liệu đến các thủ thuật nội khoa. Mong rằng cuốn
sách nhỏ này có thể giúp cho các thầy thuốc có một cái nhìn toàn diện hơn về điều trị
đau, và có thể áp dụng có hiệu quả trong thực hành điều trị. Do trình độ cũng như
kinh nghiệm còn có hạn nên trong sách không thể tránh được những sai sót, rất mong
các bạn đồng nghiệp góp ý.
Trong sách chúng tôi cũng có sử dụng một số tài liệu, bài viết của các tác giả
trong và ngoài nước và đã được chú thích đầy đủ, kính mong được sự thông cảm và
cho phép của các tác giả để tài liệu này ngày càng hoàn thiện và có thể đóng góp ít
nhiều cho việc trau dồi chuyên môn của các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân
thành cám ơn!
Mọi ý kiến đóng góp xin liên hệ:
Bác sĩ Mai Trung Dũng
Khoa Phục hồi chức năng - Bệnh viện 354
120 - Đốc Ngữ - Ba Đình - Hà Nội
ĐT: 098.334.1506
mailto:
Website: www.dieutridau.com
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
4
Chương 1. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐAU
CƠ CHẾ ĐAU
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐAU.
1. Định nghĩa:
Hiệp hội nghiên cứu đau quốc tế (International Association for the Study of
Pain - IASP) đã định nghĩa: Đau là cảm giác khó chịu và là trải nghiệm cảm xúc
xuất hiện cùng với tổn thương mô thực sự hay tiềm tàng, hoặc được mô tả giống
như có tổn thương.
Như vậy đau vừa có tính thực thể, là một cảm giác báo hiệu một tổn thương
thực thể tại chỗ, lại vừa mang tính chủ quan tâm lý, bao gồm cả những chứng đau
tưởng tượng, đau không có căn nguyên hay gặp trên lâm sàng.
2. Các cơ sở của cảm giác đau:
Charpentier (Pháp - 1972) đưa ra công thức đau: P = Che + Veg + Mot + Psy
P: pain - đau, Che: chemic - yếu tố hóa học, Veg: vegetable - phản xạ thực vật,
Mot: motion - hành vi, Psy: psychology - yếu tố tâm lý.
2.1. Cơ sở sinh học:
Cơ sở sinh học của cảm giác đau bao gồm cơ sở giải phẫu, sinh lý, sinh hóa, nó
cho phép giải mã được tính chất, thời gian, cường độ và vị trí của cảm giác đau. Cảm
giác đau xuất hiện tại vị trí tổn thương là một phản xạ tích cực để cơ thể phản xạ đáp
ứng lại nhằm loại trừ tác nhân gây đau. Người ta ví cảm giác đau có ý nghĩa như
“tiếng khóc của một đứa trẻ khi bị đói sữa” hay “tiếng kêu cứu, tín hiệu cấp cứu của
một cơ quan bị tổn thương”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp đau chỉ xuất hiện ở
giai đoạn tiến triển như trong ung thư. Hay trong một số trường hợp đau sâu, đặc biệt
là ở nội tạng, đau thường chiếu lên một vị trí nào đó trên da, ví dụ đau tim thường
xuất chiếu lên mặt trong cánh tay trái
2.2. Cơ sở tâm lý:
- Yếu tố cảm xúc: Cảm xúc có tác dụng trực tiếp lên cảm giác đau làm đau có
thể tăng lên hay giảm đi. Nếu cảm xúc vui vẻ, thoải mái có thể làm đau giảm đi,
ngược lại nếu cảm xúc khó chịu, bực dọc, buồn chán có thể làm đau tăng thêm.
Thậm chí trong một số trường hợp, yếu tố cảm xúc còn được xác định là một nguyên
nhân gây đau, ví dụ ở người bị bệnh mạch vành nếu bị cảm xúc mạnh có thể dẫn đến
bị lên cơn đau thắt ngực cấp tính. Ngược lại, đau lại có tác động trở lại cảm xúc, nó
gây nên trạng thái lo lắng, hoảng hốt, cáu gắt
- Yếu tố nhận thức: Nhận thức đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng lên quá trình
tiếp nhận cảm giác nói chung và cảm giác đau nói riêng. Từ những quan sát cổ điển của
Beecher, người ta biết ảnh hưởng của sự biểu hiện mức độ đau không tương ứng với
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
5
bệnh lý: Nghiên cứu so sánh hai nhóm người bị thương là nhóm quân nhân và nhóm
dân sự, với những tổn thương giống nhau, Beecher quan sát thấy nhóm quân nhân ít
kêu đau hơn và đòi hỏi ít thuốc giảm đau hơn. Giải thích sự khác nhau này giữa hai
nhóm là do chấn thương đã mang lại những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: biểu hiện tích
cực ở nhóm quân nhân (được cứu sống, kết thúc việc chiến đấu, được xã hội quý
trọng ), còn ở nhóm dân sự thì có biểu hiện tiêu cực (mất việc làm, mất thu nhập, mất
đi sự hòa nhập với xã hội ).
- Yếu tố hành vi thái độ: Bao gồm toàn bộ những biểu hiện bằng lời nói và
không bằng lời nói có thể quan sát được ở bệnh nhân đau như than phiền, điệu bộ, tư
thế giảm đau, mất khả năng duy trì hành vi bình thường. Những biểu hiện này có thể
xuất hiện như phản ứng với tình trạng đau cảm nhận được, chúng tạo nên những dấu
hiệu phản ánh tầm quan trọng của vấn đề đau, và cũng đảm bảo chức năng giao tiếp với
những người xung quanh. Những biểu hiện này phụ thuộc vào môi trường gia đình và
văn hóa dân tộc, chuẩn mực xã hội, tuổi và giới của cá thể. Những phản ứng của người
xung quanh có thể ảnh hưởng đến nhân cách ứng xử của bệnh nhân đau và góp phần vào
tình trạng duy trì đau của họ.
II. CƠ SỞ GIẢI PHẪU, SINH LÝ THẦN KINH.
1. Sự nhận cảm đau.
1.1. Các thụ cảm thể nhận cảm đau:
- Sự nhận cảm đau bắt đầu từ các thụ cảm thể phân bố khắp nơi trong cơ thể, có
nhiều giả thuyết về vai trò và chức năng của các thụ cảm thể này, trong đó đáng chú ý
nhất là hai thuyết:
+ Thuyết về cường độ (hay thuyết không đặc hiệu): Do Gold Scheider đề xuất
năm 1894. Theo thuyết này thì các kích thích đau không có tính đặc hiệu mà có liên
quan đến cường độ kích thích: cùng một kích thích ở cường độ thấp thì không gây đau
nhưng với cường độ cao thì lại gây đau.
+ Thuyết đặc hiệu: Do Muller đề xuất vào gần cuối thế kỷ 19, theo ông mỗi một
trong 5 giác quan (vị giác, khứu giác, thính giác, thị giác, xúc giác) được nhận cảm và dẫn
truyền theo một đường riêng và có một vùng đặc hiệu trên não nhận cảm và phân tích.
Thuyết này được Frey phát triển, ông đã chứng minh bằng thực nghiệm các cảm giác xúc
giác, nhiệt nóng, nhiệt lạnh và đau có các receptor nhận cảm khác nhau.
Theo thuyết đặc hiệu, thông tin về nhận cảm đau do tổn thương bắt đầu từ các
thụ cảm thể (receptor) nhận cảm đau chuyên biệt, đó là các tận cùng thần kinh tự do,
phân bố ở khắp các tổ chức cơ thể, chủ yếu ở mô da, mô cơ, khớp và thành các tạng.
Các thụ cảm thể này trong điều kiện bình thường thì “im lặng” không hoạt động, chỉ bị
kích thích khi mô bị tổn thương. Bao gồm các loại thụ cảm thể nhận cảm đau sau:
• Các thụ cảm thể nhận kích thích cơ học.
• Các thụ cảm thể nhận kích thích hóa học.
• Các thụ cảm thể nhận kích thích nhiệt.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
6
• Các thụ cảm thể nhận kích thích áp lực.
- Các thụ cảm thể nhận cảm đau có tính không thích nghi: với đa số các loại thụ
cảm thể, khi bị kích thích tác động liên tục thì có hiện tượng thích nghi với kích thích
đó, khi đó những kích thích sau phải có cường độ lớn hơn thì mới có đáp ứng bằng
với kích thích trước đó. Ngược lại, khi kích thích đau tác động liên tục thì các thụ cảm
thể nhận cảm đau ngày càng bị hoạt hóa. Do đó ngưỡng đau ngày càng giảm và làm
tăng cảm giác đau. Tính không thích nghi của các thụ cảm thể nhận cảm đau có ý
nghĩa quan trọng ở chỗ nó kiên trì thông báo cho trung tâm biết những tổn thương gây
đau đang tồn tại.
- Ngưỡng đau là cường độ kích thích nhỏ nhất có thể gây ra được cảm giác đau.
Một cường độ kích thích mạnh sẽ gây ra cảm giác đau sau một thời gian ngắn (1
giây), nhưng cường độ kích thích nhẹ đòi hỏi thời gian dài hơn (vài giây) mới gây
được cảm giác đau.
1.2. Các chất trung gian hóa học:
- Cơ chế nhận cảm đau của các thụ cảm thể chưa được biết rõ ràng. Có thể các
tác nhân gây đau đã kích thích các tế bào tại chỗ giải phóng ra các chất trung gian hóa
học như các kinin (bradykinin, serotonin, histamin), một số prostaglandin, chất P Các
chất trung gian này sẽ tác động lên thụ cảm thể nhận cảm đau làm khử cực các thụ cảm
thể này và gây ra cảm giác đau.
- Bradykinin: là một trong các kinin huyết tương, có vai trò quan trọng trong
phản ứng viêm (gây giãn mạch, tăng tính thấm mao mạch, và gây đau); cùng với
histamin, leucotrien, prostaglandin, các kinin cũng là chất trung gian hóa học của quá
trình viêm. Trong cơ thể kalikreinogen (của huyết tương, tụy tạng) được hoạt hóa
thành kalikrein là một enzym, nó sẽ chuyển kininogen thành các kinin (bradykinin,
kalidin). Kalikreinogen có thể được hoạt hóa bởi yếu tố Hageman (yếu tố XII), phản
ứng kháng nguyên - kháng thể, viêm, chấn thương, trypsin, plasmin, nọc rắn, môi
trường acid và nhiệt độ. Những tác nhân đó cũng hoạt hóa và làm giải phóng kalikrein
từ tổ chức (Hình 1. 1).
Kalikreinogen
Yếu tố XII
Chấn thương Kininogen Kalikrein
Hóa chất
P.ư KN-KT
Nhiệt độ Lysin bradykinin
Kalikrein
Bradykinin Aminopeptidase
Hình 1.1. Sơ đồ sinh tổng hợp Bradykinin
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
7
- Prostaglandin (PG): Năm 1935 Von Euler (Thụy Điển) lần đầu tiên phân lập
được một hoạt chất từ tinh dịch và đặt tên là prostaglandin vì cho rằng chất này xuất
phát từ tiền liệt tuyến (prostate: tiền liệt, glande: tuyến).
PG được sinh tổng hợp ngay tại màng tế bào từ phospholipid (Hình 1.2), và
không phải là một chất đơn, mà ngày nay đã biết đến hơn 20 loại PG. Đó là những
nhóm các acid béo không bão hoà, dẫn chất của acid prostanoic, gồm 20 nguyên tử
cacbon có cấu trúc tương tự nhau nhưng có hoạt tính sinh học khác nhau, chúng có tên
gọi như sau:
• Các PG cổ điển: gồm các loại A, B, C, D, E, F. PGG và PGH khác với các
loại trên vì có Oxy ở C
15
.
• Các prostacyclin: PGI, còn gọi là PGX.
• Các thromboxan: TXA, TXB.
Chữ số ả rập đi theo chữ cái A, B (như PGA
1
, PGB
2
) là chỉ số đường nối kép
của chuỗi nhánh:
Loại 1: có 1 đường nối kép ở C
13-14
.
Loại 2: có 2 đường nối kép ở C
13-14
và C
5-6
.
Loại 3: có 3 đường nối kép ở C
13-14
, C
5-6
, và C
17-18
.
Chữ α (PGF
2
α) có nghĩa là hai nhóm OH ở vị trí 9 và 11 đều ở dưới mặt phẳng
của phân tử, còn chữ β chỉ nhóm OH ở C
9
nằm trên mặt phẳng.
Hormon
Phospholipid màng
Globulin MD
P.ư KN-KT Phospholipase
Thực bào
Chấn thương (-)
Chống viêm Non-steroid
Thrombin
Corticoid
A.arachidonic 5 lypoxygenase
(-)
12 lypoxygenase Cyclo-oxygenase (COX)
PG endoperoxid 5 hydroxy eicosatetraenoic acid
12 hydroxy eicosatetraenoic acid
Peroxydase Dehydrase
PGH
2
Leucotrien A
4
PGE
2
Leucotrien C
4
Leucotrien B
4
PGF
2
α Protacyclin (PGI
2
) Thromboxan A
2
Hình 1.2. Sơ đồ sinh tổng hợp các prostaglandin và leucotrien.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
8
Các PG được tổng hợp để dùng ngay tại mô, nồng độ rất thấp chỉ khoảng vài
nanogam/gam mô. Chúng có mặt ở khắp nơi trong cơ thể, phạm vi tác dụng sinh lý rất
rộng lớn nên còn được gọi là hormon tổ chức:
+ Một số PG có tác dụng gây viêm và gây đau, đặc biệt là PGE
2
được giải
phóng do kích thích cơ học, hóa học, nhiệt, vi khuẩn có tác dụng làm giãn mạch, tăng
tính thấm thành mạch gây viêm và đau. PGF
1
gây đau xuất hiện chậm nhưng kéo dài.
PGI
1
gây đau xuất hiện nhanh nhưng nhanh hết. PG còn làm tăng cảm thụ của thụ cảm
thể với các chất gây đau như bradykinin.
+ Trên tiêu hóa: PGE
1
làm giảm tiết dịch vị gây ra do histamin hoặc
pentagastrin, làm tăng nhu động ruột gây ỉa lỏng. Misoprostol (Bd Cytotec, Gastec) là
thuốc có tác dụng giống PGE
1
được dùng trong lâm sàng điể điều trị bệnh lý dạ dày hành
tá tràng. PGE
2
gây nôn và rối loạn tiêu hoá.
+ Trên thành mạch: PGE và A gây giãn mạch nhỏ, làm đỏ mặt, nhức đầu, hạ
huyết áp. PGE
1
còn làm tăng tính thấm thành mạch.
+ Trên hô hấp: có sự cân bằng sinh lý giữa PGE
1
và F
2
α. Loại F làm co phế
quản, còn loại E
1
làm giãn, nhất là trên người bệnh hen.
+ Trên tử cung: PGF làm tăng co bóp tử cung nhịp nhàng nên có tác dụng thúc
đẻ. PGE mạnh hơn F 10 lần. PGE
2
và F
2
α được dùng trong lâm sàng để gây sẩy thai
và thúc đẻ.
+ PGE
1
tác dụng ở vùng đồi thị như một chất trung gian gây sốt; Prostacyclin,
Thomboxan A
2
điều hòa sự kết tập tiểu cầu; tăng độ lọc cầu thận
Các thuốc NSAID ức chế cyclo-oxygenase (COX), các thuốc corticoid ức chế
phospholipase làm giảm tổng hợp PG nên có tác dụng chống viêm giảm đau; các chất
acid antrinilic, mefenamic, flunamic đối kháng với tác dụng của PG.
- Chất P (pain): là một peptid có 11 acid amin được tiết ra ở tủy sống khi có
xung động từ sợi Aδ và C, từ lâu được xem như chất trung gian thần kinh về đau.
Tuy nhiên, vấn đề còn phức tạp hơn vì ngay một sợi thần kinh cũng có thể có nhiều
peptid khác nhau (somatostatin, CGRP ) với chức năng còn chưa được biết rõ.
Hơn nữa những sợi hướng tâm đường kính nhỏ cũng chứa những acid amin kích
thích mạnh như Glutamate, cũng giống như chất P, nó có thể kích thích những
neurone ở sừng sau tủy sống. Người ta cũng đã chứng minh được rằng, các kích
thích nhận cảm đau tổn thương có thể gây giải phóng cùng một lúc glutamate và
chất P.
2. Sự dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại vi vào tủy sống.
Sự dẫn truyền cảm giác từ ngoại vi vào tủy sống do thân tế bào neuron
thứ nhất nằm ở hạch gai rễ sau đảm nhiệm. Các sợi thần kinh dẫn truyền cảm
giác (hướng tâm) gồm các loại có kích thước và tốc độ dẫn truyền khác nhau
như sau:
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
9
Loại Sợi thần
kinh
Týp Đường kính
(µm)
Tốc độ dẫn truyền
(m/s)
To
A
α
Aβ
Aγ
I
II
II
12 - 20
6 - 12
5 - 12
70 - 120
30 - 70
30 - 50
Nhỏ
A
δ
B
C
III
-
IV
1 - 6
1 - 3
0,4 - 1,2
6 - 30
3 - 14
0,5 - 2
- Các sợi Aα và Aβ (týp I và II) là những sợi to, có bao myelin, tốc độ dẫn
truyền nhanh, chủ yếu dẫn truyền cảm giác bản thể (cảm giác sâu, xúc giác tinh). Các
sợi Aδ (týp III) và C là những sợi nhỏ và chủ yếu dẫn truyền cảm giác đau, nhiệt và xúc
giác thô. Sợi Aδ có bao myelin mỏng nên dẫn truyền cảm giác đau nhanh hơn sợi C
không có bao myelin. Vì vậy người ta gọi sợi Aδ là sợi dẫn truyền cảm giác đau nhanh,
còn sợi C là sợi dẫn truyền cảm giác đau chậm.
- Vì sợi thần kinh dẫn truyền cảm giác đau có hai loại như vậy, nên khi có một
kích thích với cường độ mạnh sẽ cho ta cảm giác đau đúp: ngay sau khi có kích thích
sẽ có cảm giác đau nhói sau đó có cảm giác đau rát. Cảm giác đau nhói đến nhanh (do
được dẫn truyền theo sợi Aδ) để báo cho ta biết đang có một kích thích nào đó có tác
hại cho cơ thể và cần phải đáp ứng để có thể thoát khỏi kích thích có hại đó. Cảm giác
đau rát đến chậm (do được dẫn truyền theo sợi C), nhưng có xu hướng ngày càng mạnh
gây cho người ta một cảm giác đau đớn không chịu nổi để thôi thúc người ta sớm loại
bỏ kích thích có hại đó.
3. Đường dẫn truyền cảm giác đau từ tủy sống lên não.
- Đường dẫn truyền cảm giác đau, nhiệt và xúc giác thô (sợi Aδ và C) đi từ rễ
sau vào sừng sau tủy sống, ở đó các axon của neurone thứ nhất hay neurone ngoại vi
kết thúc và tiếp xúc với neurone thứ hai trong sừng sau tủy sống theo các lớp khác
nhau (lớp Rexed). Các sợi Aδ tiếp nối synapse đầu tiên trong lớp I (viền Waldeyer) và
lớp V, trong khi sợi C tiếp nối synapse đầu tiên trong lớp II (còn gọi là chất keo
Rolando) (Hình 1.3).
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
IX
Hình 1.3. Các lớp Rexed trong tủy sống
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
10
Có hai nhóm tế bào chính được hoạt hóa bởi việc kích thích các sợi nhỏ, mảnh:
+ Nhóm các neurone nhận cảm đau tổn thương không chuyên biệt: các neurone
này đáp ứng cùng một lúc vừa với các kích thích cơ học nhẹ và vừa với những kích
thích nhận cảm đau tổn thương cơ học, nhiệt và đôi khi hóa học, các neurone này có
đặc tính làm tăng kiểu đau như luồng điện giật tùy theo cường độ kích thích.
+ Nhóm neurone nhận cảm đau tổn thương chuyên biệt: các neurone này chỉ bị
hoạt hóa khi có các kích thích cơ học và kích thích nhiệt dữ dội, nghĩa là chỉ bị hoạt
hóa bởi kích thích đau tổn thương.
- Các sợi trục của neurone thứ hai này chạy qua mép xám trước và bắt chéo
sang cột bên phía đối diện rồi đi lên đồi thị tạo thành bó gai thị. Các sợi bắt chéo đi
Thể lưới
Bó tân gai thị
Bó cựu gai thị
Bó gai lưới thị
(đa synapse)
Sợi C
Sợi A
δ
Đáp ứng Hoạt hóa
Định vị
Cảm giác
Vùng dưới đồi
Hệ limbic
Nhân đồi thị sau
Nhân đồi thị trong lớp
Nhân đồi thị sau bên
Hình 1. 4. Sơ đồ dẫn truyền đau nhiệt và xúc giác thô
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
11
sang phía đối diện không phải nằm trên một mặt phẳng nằm ngang ngay ở mức
khoanh tủy đó mà đi chếch nghiêng lên trên khoảng 2-3 khoanh. Vì vậy khi tổn
thương cột bên ở một mức nào đó thì giới hạn trên của rối loạn cảm giác đau, nhiệt
theo kiểu đường dẫn truyền ở bên đối diện bao giờ cũng thấp hơn mức tổn thương
thực sự. Bó gai thị chia thành 3 bó nhỏ (Hình 1.4):
+ Bó tân gai thị: dẫn truyền lên các nhân đặc hiệu nằm ở phía sau đồi thị, cho
cảm giác và vị trí.
+ Bó cựu gai thị: dẫn truyền lên các nhân không đặc hiệu và lên vỏ não một cách
phân tán.
+ Bó gai lưới thị: bó này có các nhánh qua thể lưới rồi từ thể lưới lên các nhân
không đặc hiệu ở đồi thị có vai trò hoạt hóa vỏ não.
- Khác với đường dẫn truyền cảm giác đau và nhiệt, đường dẫn truyền cảm giác
cơ khớp, rung và xúc giác tinh (sợi Aα và Aβ) không đi vào chất xám tủy sống (trừ
các sợi tạo thành các cung phản xạ khoanh) mà vào thẳng cột sau cùng bên đi lên họp
thành bó Goll và Burdach, lên hành não rồi tiếp xúc với neurone thứ hai ở trong các
nhân Goll và Burdach. Từ các nhân này cho các sợi bắt chéo qua đường giữa tạo
thành bắt chéo cảm giác hay dải Reil trong, rồi lên đồi thị và vỏ não (Hình 1.5).
Bó gai thị
Bó Goll và Burdach
Hạch gai (neurone I)
Sợi A
α
và A
β
Sợi A
δ
và C
Neurone II
V
ỏ n
ão
Đồi thị (Neurone III)
Nhân Goll và Burdach
(Neurone II)
R
Dải Reil trong
H×nh 1. 5. S¬ ®å c¸c neurone dÉn truyÒn c¶m gi¸c
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
12
4. Trung tâm nhận cảm đau.
Đồi thị (thalamus) là trung tâm nhận cảm đau trung ương, có các tế bào thuộc
neurone cảm giác thứ ba. Khi có tổn thương đồi thị, xuất hiện cảm giác đau đồi thị
rất đặc biệt ở nửa người bên đối diện (hội chứng thalamic): cảm giác lạnh hoặc nóng
bỏng rất khó chịu hành hạ mà bệnh nhân khó có thể mô tả và khu trú được; đau
thường lan tỏa và lan xiên; không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường; đôi
khi lúc ngủ lại đau nhiều hơn, vận động thì giảm. Khám cảm giác nửa người bên đối
diện với tổn thương thấy hiện tượng loạn cảm đau (hyperpathic).
Từ neurone thứ ba ở đồi thị cho các sợi họp thành bó thị vỏ đi qua 1/3 sau của
đùi sau bao trong, qua vành tia tới vỏ não hồi sau trung tâm (hồi đỉnh lên vùng SI và
SII) và thùy đỉnh để phân tích và ra quyết định đáp ứng:
- Vùng SI phân tích đau ở mức độ tinh vi.
- Vùng SII phân biệt về vị trí, cường độ, tần số kích thích (gây hiệu ứng vỏ
não).
5. Đường dẫn truyền xuống chống đau.
Thông tin đau được hình thành ở chất keo Rolando do đường dẫn truyền xuống
từ thân não, cầu não và não giữa kiểm soát. Các neurone ở thân não sẽ tiết ra
serotonin gây ức chế các neurone dẫn truyền đau của tủy làm giảm hoặc mất đau.
Mặt khác nếu tiêm một lượng nhỏ morphin vào nhân của đường đan Magnus
hoặc các cấu trúc nằm kề chất xám quanh tủy sống cũng sẽ làm giảm đau, như vậy
morphin có thể hoạt hoá chính hệ thống dẫn truyền xuống này để ức chế đau. Tuy
nhiên không phải chỉ có mọt hệ thống dẫn truyền xuống duy nhất mà còn có nhiều hệ
thống khác cũng làm ức chế đau mà cachs tác dụng không giống morphin. Những
nghiên cứu gần đây đã nói đến các chất trung gian hóa học không phải opi như
noradrenalin hoặc dopamin do não chi phối cũng làm giảm các chứng đau.
6. Đặc điểm đau nội tạng.
Khác với cảm giác đau da có vị trí khu trú rõ ràng, còn triệu chứng đau nội tạng
thì mơ hồ và âm ỉ, đôi khi thành cơn do bản chất là đau co thắt. Những kích thích gây
đau ở thân thể như cắt, nghiền, bóp nếu tác động vào nội tạng sẽ không gây đau,
nhưng những yếu tố căng trướng, thiếu máu và viêm lại gây đau. Đau từ nội tạng bị
chi phối bởi các sợi A delta và C. Những sợi này cùng các sợi thần kinh thực vật
hướng tâm đi vào tủy ở các đoạn lồng ngực, lưng và cùng rồi tách ra các sợi đi lên
trên và dưới tủy, tiến sâu vào các lớp I và V rồi đi lên não cùng trong các bó thần kinh
dẫn truyền các thông tin đau của thân thể. Do đó đau nội tạng thường biểu hiện bằng
đau xuất chiếu và kết hợp với các rối loạn của hệ thần kinh thực vật.
7. Vai trò của hệ thần kinh giao cảm.
Ngoài các chứng đau nội tạng, một số chứng đau như đau do chấn thương ở chi
thể cũng có sự tham gia các các yếu tố giao cảm, gây nên các hiện tượng rối loạn điều
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
13
hòa vận mạch, ra mồ hôi, thay đổi nhiệt độ da, rối loạn dinh dưỡng da, giảm vận
động… làm cho đau càng trầm trọng hơn.
Các neurone giao cảm giải phóng adrenalin có thể ảnh hưởng tới các sợi thần
kinh dẫn truyền đau do tác động của noradrenalin đến ngọn thần kinh, dọc theo sợi
trục hoặc rễ sau. Một trong những đáp ứng thần kinh với chấn thương là sự tăng
cường hoạt động của các thụ thể giải phóng adrenalin alpha (tức thụ thể alpha) tại các
neurone dẫn truyền đau.
II. CÁC CƠ CHẾ KIỂM SOÁT ĐAU.
1. Kiểm soát đau ở tủy sống và thuyết cổng kiểm soát:
Thuyết cổng kiểm soát (gate control theory) do Melzack và Wall (1965) đưa ra dựa
trên sự dẫn truyền và cấu trúc giải phẫu của các sợi thần kinh ở mức tủy sống (Hình 1.6),
thuyết này cho rằng:
- Khi có kích thích đau, các thụ cảm thể nhận cảm đau tổn thương sẽ mã hóa về
số lượng, tần số, không gian, thời gian rồi truyền vào theo các sợi thần kinh dẫn
truyền cảm giác đau hướng tâm (sợi Aδ và C) qua hạch gai vào sừng sau tủy sống và
tiếp xúc với tế bào neurone thứ hai hay tế bào T (transmission cell - tế bào dẫn truyền)
từ đó dẫn truyền lên trung ương. Trước khi tiếp xúc với tế bào T, các sợi này cho ra
một nhánh tiếp xúc với neurone liên hợp. Neurone liên hợp đóng vai trò như một kẻ
gác cổng, khi hưng phấn thì gây ra ức chế dẫn truyền trước sinap của sợi Aδ và C
(đóng cổng). Nhưng lúc này xung động từ sợi Aδ và sợi C gây ức chế neurone liên
hợp nên không gây ra ức chế dẫn truyền trước sinap sợi Aδ và C (cổng mở), do đó
xung động được dẫn truyền lên đồi thị và vỏ não cho ta cảm giác đau.
- Các sợi to (Aα và Aβ) chủ yếu dẫn truyền cảm giác bản thể. Các sợi này cũng
cho một nhánh tiếp xúc với neurone liên hợp trước khi đi lên trên. Các xung động từ
sợi to gây hưng phấn neurone liên hợp, do đó gây ức chế dẫn truyền trước sinap của
T
ế b
ào T
Neurone liên hợp
Sợi to A
α
và A
β
Sợi nhỏ A
δ
và C
Hình 1.6. Sơ đồ thuyết cổng kiểm soát.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
14
cả sợi to và sợi nhỏ (đóng cổng), khi đó xung động đau bị chặn lại trước khi tiếp xúc
với tế bào T làm mất cảm giác đau.
2. Kiểm soát đau trên tủy và thuyết giảm đau nội sinh.
Sự kiểm soát trên tủy chủ yếu tại một số vùng từ thân não trở lên, các neurone
thuộc các vùng này phát xuất ra các đường ức chế đi xuống. Một số thí nghiệm trên
chuột cho thấy, nếu kích thích vùng chất xám quanh rãnh sylvius sẽ tạo ra tác dụng
giảm đau mạnh. Người ta đã xác định rằng tác dụng giảm đau này chủ yếu là xuất
phát từ vùng bụng của chất xám quanh rãnh sylvius, vùng này tương ứng với nhân
lưng của đường đan chứa nhiều thân tế bào serotoninergic.
Việc kích thích chất xám quanh rãnh sylvius ức chế một số phản xạ nhận cảm
đau tổn thương chứng tỏ tác dụng giảm đau một phần do đường ức chế đi xuống, điều
này phù hợp với chứng minh rằng, với sự kích thích như trên sẽ làm giảm một cách rõ
rệt các đáp ứng của các neurone ở sừng sau đối với những kích thích nhận cảm đau
tổn thương. Hơn nữa người ta đã chứng minh việc sử dụng naloxone (đối vận của
opiat) sẽ làm mất tác dụng giảm đau có được do kích thích vùng chất xám quanh rãnh
sylvius hay kích thích nhân đan lớn, điều này chứng tỏ các kích thích trung ương gây
nên sự phóng thích morphine nội sinh.
Từ các dữ kiện trên, nhiều tác giả khác nhau đã cho rằng có sự hiện diện của một
hệ thống giảm đau nội sinh tác động vào các cấu trúc khác nhau ở trung não, cầu não và
thân não. Hệ thống này tham gia vào vòng tác động ức chế ngược chiều được tạo ra từ
các kích thích dữ dội dẫn đến sự ức chế trở về việc dẫn truyền các thông tin nhận cảm
đau tổn thương ở vùng tủy.
Thuyết giảm đau nội sinh:
- Khi có kích thích đau được dẫn truyền về, hệ thống thần kinh trung ương sẽ
tiết ra các chất enkephalin có tác dụng làm giảm đau giống như morphine, gọi là các
endorphine (endo = endogenous - nội sinh, orphin = morphine, tức là morphine nội
sinh). Các endorphine gắn vào các receptor morphinic cũng gây giảm đau và sảng
khoái, nhưng tác dụng này hết nhanh do các endorphine nhanh chóng bị hóa giáng nên
không gây nghiện (xem thêm bài Thuốc giảm đau gây nghiện).
- Các trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, sung sướng, hạnh phúc, lạc quan có
tác dụng kích thích giải phóng endorphine rất mạnh, tạo cho cơ thể cảm giác khoái
cảm lâng lâng. Một số bài tập thể dục, xoa bóp, các tác nhân kích thích điện cũng có
tác dụng kích thích giải phóng endorphine gây giảm đau.
- Về mặt sinh hóa, endorphine là các peptid, lúc đầu người ta tìm thấy hai loại
pentapeptid ở tuyến yên bò và não lợn là:
+ Methionin - enkephalin (Met-enkaphalin) gồm Tyr
1
-Gly
2
-Gly
3
-Phe
4
-Met
5
.
+ Leucin - enkephalin (Leu-enkephalin) gồm Tyr
1
-Gly
2
-Gly
3
-Phe
4
-Leu
5
.
Đến nay đã tìm thêm nhiều loại peptid đặc hiệu khác. Tất cả các peptid này (trừ
leu- enkephalin) đều có thứ tự sắp xếp các acid amin như ở một hormon tuyến yên là
β - lipotropin (β-LPH). β-LPH gồm 91 acid amin, đóng vai trò là một phân tử tích lũy,
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
15
khi được enzym tương ứng xúc tác sẽ cắt khúc để giải phóng ra α, β và γ -
endorphine. Những endorphine này đều chứa met-enkephalin trong đuôi peptid của
chúng. α, β và γ - endorphine (rõ nhất là γ) có ái lực với receptor morphinic còn mạnh
hơn cả morphine, có tác dụng morphinic rõ và bền hơn cả chính morphine. Tuyến yên
còn tiết ra một peptid nữa là anodynin, đi vào máu và tác động lên các receptor ngoại
biên của morphine, nhưng cũng có thể theo máu để gắn vào receptor ở não.
IV. Phân loại đau.
1. Phân loại theo cơ chế gây đau.
Gồm: - Đau do cảm thụ thần kinh (nociceptive pain).
- Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain).
- Đau do căn nguyên tâm lý (psychogenic pain).
1.1. Đau do cảm thụ thần kinh (nociceptive pain).
- Đau do cảm thụ thần kinh là đau do thái quá về sự kích thích nhận cảm đau tổn
thương mà bắt đầu từ các thụ cảm thể nhận cảm đau tổn thương rồi dẫn truyền hướng
tâm về thần kinh trung ương; là cơ chế thường gặp nhất trong phần lớn các chứng đau
cấp tính (chấn thương, nhiễm trùng, thoái hóa ). ở giai đoạn mạn tính, người ta nhận
thấy cơ chế này có trong những bệnh lý tổn thương dai dẳng, ví dụ như trong các bệnh
lý khớp mạn, hay trong ung thư.
- Khi thăm khám lâm sàng thường có thể tìm thấy nguyên nhân gây đau, động
tác gây đau, đau có biểu hiện theo nhịp sinh học (đau tăng khi hoạt động thể lực), hay
theo nhịp độ viêm (ban đêm đau tăng, đau cứng khớp buổi sáng).
- Đau do cảm thụ thần kinh thường nhạy cảm với các thuốc giảm đau ngoại vi
hay trung ương và các phương pháp phong bế vô cảm.
1.2. Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain).
- Một số trường hợp đau thần kinh do bị chèn ép thân, rễ hay đám rối thần kinh
(như đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm, hội chứng ống, u bướu ). Các trường hợp
này thực chất là đau có nguyên nhân thực thể (đau tổn thương).
- Một số trường hợp khác đau không do chèn ép kéo dài mà xảy ra trong bệnh
cảnh di chứng tổn thương hay cắt đoạn thần kinh ngoại vi (như trong hiện tượng chi
ma, zona, đau dây V, cắt đoạn thần kinh, liệt hai chân ). Hiện tượng này được giải
thích bằng cơ chế lạc đường dẫn truyền vào như sau:
Sau tổn thương hay cắt đoạn các đường hướng tâm ngoại vi, các neurone ở sừng sau
tủy sống hay trên tủy có thể trở nên tăng nhạy cảm do những cơ chế còn chưa biết rõ. Có
thể là: do suy giảm sự ức chế, do bộc lộ các đường kích thích, tăng nhạy cảm của những
đầu thần kinh bị cắt đoạn, sự dẫn truyền qua lại giữa các sợi kề nhau từ sợi này qua sợi
khác, mọc chồi thần kinh giao cảm… Tính chất đặc biệt của các hiện tượng đau là do yếu
tố giao cảm bị lôi cuốn vào quá trình bệnh lý (đau giao cảm). Theo M.I Axtvatxaturop, đau
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
16
cháy là kết quả của kích thích quá mức đồi thị. Đây là một điển hình về cơ chế đau trung
ương, đối lập với đau do thái quá nhận cảm đau tổn thương do kích thích ngoại vi.
Tuy nhiên thực tế tính phức tạp của cơ chế là vừa trung ương, vừa ngoại vi, nên
người ta thường dùng thuật ngữ đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic) hay đau
do bệnh lý thần kinh mà không nghiêng về phần ngoại vi hay trung ương của chứng đau.
Ngoài ra, trong lâm sàng còn thường gặp chứng đau hỗn hợp (mixed pain) bao
gồm cả cơ chế đau nhận cảm và đau thần kinh.
1.3. Đau do căn nguyên tâm lý (psychogenic pain).
- Đau do căn nguyên tâm lý có đặc điểm: là những cảm giác bản thể hay nội
tạng, ám ảnh nhiều hơn là đau thực thụ, với sự mô tả phong phú, không rõ ràng hoặc
luôn thay đổi và thường lan tỏa, triệu chứng học không điển hình. Đau chỉ mất khi
người bệnh tập trung chú ý một vấn đề gì đó, thuốc chống đau không có tác dụng với
loại đau này. Thường gặp trong các trường hợp như: bệnh hysteri, bệnh rối loạn cảm
xúc (trầm cảm), tự kỷ ám thị về bệnh tật, bệnh tâm thần phân liệt Khi phát hiện ra
những trường hợp đau do căn nguyên tâm lý, cần gửi bệnh nhân đến với các thầy
thuốc chuyên khoa tâm lý hay tâm thần để điều trị.
- Đau trong bệnh trầm cảm (depression) là hội chứng rất hay gặp. Nhiều trường
hợp trầm cảm là hậu quả của một bệnh đau thực thể có trước, sau đó chính trầm cảm
quay trở lại làm bệnh lý đau ngày càng tồi tệ hơn, tạo nên một vòng xoắn bệnh lý.
Bệnh nhân có thể có triệu chứng đau rất đa dạng, không phù hợp với tổn thương thực
thể sẵn có, kèm theo mệt mỏi, lo bệnh, mất ngủ, giảm khả năng làm việc, điều trị
nhiều nơi không có kết quả. Điều trị các kiểu đau này cần dùng thuốc chống trầm cảm
kết hợp với tâm lý liệu pháp.
2. Phân loại theo thời gian và tính chất đau.
2.1. Đau cấp tính:
- Đau cấp tính (acute pain) là đau mới xuất hiện, có cường độ mạnh mẽ, có thể
được coi là một dấu hiệu báo động hữu ích. Đau cấp giúp việc chẩn đoán cần thiết
nhằm xác định chứng đau có nguồn gốc thực thể hay không.
- Đau cấp tính bao gồm:
• Đau sau phẫu thuật (post operative pain).
• Đau sau chấn thương (pain following trauma).
• Đau sau bỏng (pain following burn).
• Đau sản khoa (obstetric pain).
2.2. Đau mạn tính.
- Ngược lại đau mạn tính (chronic pain) là chứng đau dai dẳng tái đi tái lại
nhiều lần. Nó làm cho cơ thể bị phá hủy về thể lực và cả về tâm lý và xã hội. Bệnh
nhân đau mạn tính thường đi điều trị nhiều nơi, với nhiều thầy thuốc và các phương
pháp điều trị khác nhau nhưng cuối cùng chứng đau vẫn không khỏi hoặc không
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
17
thuyên giảm. Điều đó làm cho bệnh nhân lo lắng và mất niềm tin và làm cho bệnh tình
ngày càng trầm trọng hơn.
- Đau mạn tính bao gồm:
• Đau lưng và cổ (back and neck pain).
• Đau cơ (muscular pain).
• Đau sẹo (scar pain).
• Đau mặt (facial pain).
• Đau khung chậu mạn tính (chronic pelvic pain).
• Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain)…
Theo quy ước cổ điển, người ta ấn định giới hạn phân cách đau cấp và mạn tính
là giữa 3 và 6 tháng. Có thể so sánh đau cấp và đau mạn như sau:
Đau cấp Đau mạn
Mục đích sinh học Có ích - Bảo vệ Vô ích - Phá hoại
Cơ chế gây đau Đơn yếu tố Đa yếu tố
Phản ứng của cơ thể Phản ứng lại Thích nghi dần
Yếu tố cảm xúc Lo lắng Trầm cảm
Hành vi thái độ Phản ứng Tìm hiểu
Kiểu mẫu Y học kinh điển
Đa chiều thực thể - tâm lý -
xã hội
Mục đích điều trị Chữa khỏi Tái thích ứng
2.3. Đau ung thư và HIV.
- Đau ung thư:
+ Có thể là đau mạn tính hoặc cấp tính do sự xâm lấn và đè ép của tế bào ung
thư vào mô lành gây tổn thương mô và kích thích thụ cảm thể thân thể và nội tạng.
Đau có tính chất đau nhức, đập nẩy, dao đâm, chật chội, day dứt…
+ Có thể như chứng đau thần kinh (trung ương hoặc ngoại vi): đau bỏng rát, ù
tai hoặc tê liệt, đau xé, đau điện giật…
- Đau do bệnh HIV:
+ Hệ tiêu hóa: đau miệng, họng, nấm miệng, loét miệng, đau và khó nuốt, đi
lỏng…
+ Hệ thần kinh: đau đầu, đau thần kinh ngoại vi không đối xứng, đau đa dây
thần kinh.
+ Hệ cơ xương: viêm khớp, đau khớp và cơ do nhiều nguyên nhân khác…
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
18
3. Phân loại đau theo khu trú.
3.1. Đau cục bộ (local pain).
Là khi khu trú đau cảm thấy trùng với khu trú quá trình bệnh lý. Chẳng hạn,
trong viêm dây thần kinh, đau cảm thấy suốt dọc dây thần kinh, tương ứng đúng với
vị trí giải phẫu của dây thần kinh đó.
3.2. Đau xuất chiếu (referred pain).
Là khu trú đau không trùng với khu trú của kích thích tại chỗ trong hệ cảm
giác. Ví dụ, trong chấn thương hoặc u ở vùng đầu gần trung tâm của thân thần kinh,
cảm giác đau lại xuất hiện ở vùng phân bố của đầu ngoại vi xa trung tâm của dây thần
kinh đó.
Như trong chấn thương thần kinh trụ ở vùng khớp khuỷu lại thấy đau ở ngón
tay IV và V; kích thích các rễ sau cảm giác của tủy sống gây đau xuất chiếu (đau bắn
tia) ở các chi hoặc vành đai quanh thân mà rễ thần kinh đó chi phối.
Một ví dụ nữa về đau kiểu này là hiện tượng đau “chi ma” ở người bị cắt cụt
chi thể, sự kích thích những dây thần kinh bị cắt đứt ở mỏm cụt gây một cảm giác ảo,
đau ở bộ phận ngoại vi của chi mà thực tế không còn nữa.
3.3. Đau lan xiên.
Là cảm giác đau gây ra do sự lan tỏa từ một nhánh dây thần kinh này sang một
nhánh thần kinh khác. Ví dụ khi kích thích đau ở một trong ba nhánh của dây thần
kinh sinh ba (dây V) có thể đau lan sang vùng phân bố của hai nhánh kia; một trong
những triệu chứng ung thư thanh quản có thể là đau tai, do kích thích dây thần kinh
thanh quản trên (là một nhánh của dây X cảm giác của thanh quản), đau lan sang vùng
nhánh tai cũng của dây X phân bố cho phần sau của ống tai ngoài.
3.4. Đau phản chiếu (reflected pain).
Cũng là một kiểu đau lan xiên, nhưng ở đây kích thích đau xuất phát từ nội tạng
được lan xiên đến một vùng da nào đó. Hiện tượng này được giải thích bằng thuyết
phản chiếu (còn gọi là cơ chế phản xạ đốt đoạn): Tại lớp V sừng sau tủy sống, có
những neurone đau không đặc hiệu gọi là neurone hội tụ, tại đây sẽ hội tụ những đường
cảm giác đau hướng tâm xuất phát từ da, cơ xương và vùng nội tạng, làm cho não khi
tiếp nhận thông tin từ dưới lên sẽ không phân biệt được đau có nguồn gốc ở đâu, và
thường được hiểu nhầm là đau xuất phát từ vùng da tương ứng. Kiểu đau này mang tên
hiện tượng cảm giác - nội tạng, còn khu vực da xuất hiện đau gọi là vùng Zakharin
Head (Hình 1.7).
Ngoài cảm giác đau, ở đây còn có thể thấy cả tăng cảm giác. Ví dụ: đau thắt ngực
biểu hiện bằng đau mặt trong cánh tay trái, đau quặn gan biểu hiện bằng đau ở vùng đỉnh
xương vai trái
Bảng sau đây chỉ rõ những khoanh đoạn tương ứng với cơ quan nội tạng trong
cơ thể:
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
19
Cơ quan nội tạng
Khoanh tủy có
thể đau và tăng
cảm
Cơ quan nội tạng
Khoanh đoạn có
thể đau và tăng
cảm
Tim D1 – D3 Bàng quang:
Dạ dày D6 – D9
+ Kích thích niêm mạc
cổ bàng quang
S2 – S4
Ruột D4 – D12
+ Căng thành bàng
quang khi quá đầy
D9 – L1
Gan và túi mật D7 – D10 Tinh hoàn, buồng
trứng
D10
Thận và niệu
quản
D11 – L1
Tử cung:
+ Thân
+ Cổ
D10 – L1
S1 – S4
Tim
Dạ dày
Bàng quang
Phổi
Gan (bao)
Gan mật
Thận
Tiểu trường
Niệu quản
Ruột
Phổi
Phế quản
Tiết niệu
Sinh dục
Tử cung
Hình 1.7. Các vùng tăng cảm trong bệnh nội tạng.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
20
PHẢN ỨNG VIÊM
I. ĐẠI CƯƠNG.
Viêm là nguyên nhân gây ra đau hay gặp nhất trong lâm sàng. Trong đa số
trường hợp, viêm và đau liên hệ chặt chẽ với nhau như hình với bóng. Một số thuốc
giảm đau đồng thời cũng có tác dụng chống viêm, ngược lại các thuốc chống viêm
cũng sẽ có tác dụng giảm đau. Bởi vậy có những hiểu biết sâu về phản ứng viêm sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc điều trị đau.
1. Khái niệm về viêm.
Viêm là kết quả có tính qui luật của các tác nhân gây viêm xuất hiện trong cơ
thể, là quá trình phức hợp giữa điều hòa và phản ứng. Quá trình này xảy ra ở bộ máy
liên kết và vi mạch, gây ra những rối loạn chủ yếu về hóa tổ chức và tính thấm thành
mạch, dẫn đến các hiện tượng thoát huyết tương, xuyên bạch cầu, tăng sinh tế bào tại
ổ viêm và hiện tượng thực bào, gây ra 4 triệu chứng điển hình là sưng, nóng, đỏ và
đau với các đặc điểm sau:
- Phản ứng viêm chỉ xảy ra ở các động vật có hệ thần kinh phát triển.
- Biểu hiện viêm thường chỉ thấy ở tại chỗ nơi tác nhân gây viêm xâm nhập,
nhưng đó là một phản ứng toàn thân bao gồm 2 mặt đối lập: quá trình bệnh lý phá hủy
và quá trình bảo vệ phát triển.
- Mặc dù nguyên nhân gây viêm rất khác nhau, nhưng tổn thương viêm lại gây ra
cùng một kiểu phản ứng và có thể bị ức chế bởi cùng những tác nhân dược lý.
- Những thay đổi về hình thái và sinh hóa gặp trong quá trình viêm diễn biến
theo quy luật. Mặc dù mức độ và thời gian của các giai đoạn viêm có thể thay đổi,
nhưng quá trình viêm thường diễn biến qua 3 giai đoạn: giai đoạn tổn thương tổ chức,
giai đoạn rối loạn vận mạch và thoát dịch rỉ viêm, giai đoạn tăng sinh tổ chức để hàn
gắn tổn thương.
2. Nguyên nhân gây viêm.
2.1. Nguyên nhân ngoại sinh.
- Do vi sinh vật: vi khuẩn, virus, một số loại nấm, các vi sinh vật đơn bào, kí
sinh trùng và côn trùng.
- Các yếu tố hóa học: do hóa chất (acid, baze ), do thuốc
- Các yếu tố cơ học: chấn thương, áp lực, ma sát, dị vật
- Các yếu tố vật lý: nhiệt (nóng, lạnh), tia phóng xạ, bức xạ
2.2. Nguyên nhân nội sinh.
- Sản phẩm chuyển hóa: như ure máu tăng gây viêm màng phổi, màng tim; acid
uric máu tăng gây viêm khớp trong bệnh Goutte.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
21
- Hoại tử kín gây viêm vô trùng, như hoại tử chỏm xương đùi.
- Phản ứng tự miễn: như bệnh thấp khớp, viêm cầu thận.
- Viêm xung quanh tổ chức ung thư
II. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH VIÊM.
1. Giai đoạn rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức.
- Các tác nhân gây viêm tác động lên cơ quan và mô gây ra 2 hậu quả chủ yếu
là:
+ Gây tổn thương tế bào mô làm giải phóng ra các chất trung gian hóa học như
histamin, PG gọi là các mediator viêm.
+ Gây rối loạn tuần hoàn và chuyển hóa tại ra các sản phẩm chuyển hóa trung
gian, chính các sản phẩm này cũng đóng vai trò như các mediator viêm.
- Các mediator bao gồm:
+ Các acid amin: như histamin, serotonin gây ra phản ứng dị ứng.
+ Các dẫn xuất của acid béo: gồm các prostagladin (PG) là các mediator quan
trọng nhất gây ra phản ứng viêm, cơ chế sinh tổng hợp như sau (xem thêm bài Cơ sở
sinh học của cảm giác đau):
+ Các men lysosom: collagenase, elastase, hyaluronidase, chymotrysinase
+ Các lymphokin: yếu tố ức chế di tản đại thực bào (MIF), yếu tố hóa ứng
động
+ Các kinin: bradykinin, kalidin có nguồn gốc từ các protit huyết tương.
2. Giai đoạn rối loạn tuần hoàn và thoát dịch rỉ viêm.
- Sau khi được sinh ra, chính các mediator này lại đóng vai trò như những tác
nhân gây viêm mới, gây ra những tổn thương tổ chức, rối loạn tuần hoàn và chuyển
hóa tiếp theo. Do các mediator viêm có các tác dụng sau:
+ Gây giãn mạch tại chỗ, làm tăng cường tuần hoàn đến chỗ viêm tạo thuận lợi
cho bạch cầu xuyên mạch và tăng thoát dịch từ lòng mạch vào tổ chức kẽ để hòa
loãng các tác nhân gây viêm. Hiện tượng giãn mạch làm vùng viêm đỏ, thoát dịch
viêm gây phù nề sưng tấy tại chỗ.
+ Thu hút các bạch cầu đến chỗ viêm gọi là tác dụng hóa ứng động bạch cầu,
đây là tác dụng có lợi để tăng cường quá trình chống viêm, loại trừ các tác nhân gây
viêm và hồi phục tổn thương viêm. Các mediator còn có tác dụng kích thích bạch cầu
thực bào và kích thích quá trình di chuyển, xâm nhập của bạch cầu vào tổ chức viêm.
Phospholipit màng
Tác nhân viêm
Phospholipit kém bền vững
Phospholipase
acid arachidonin
(lysosom) acid arachidonic
cyclo oxygenase
Prostaglandin.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
22
+ Làm tăng quá trình chuyển hóa tại chỗ, do đó làm tăng nhiệt độ tại ổ viêm
làm cho ổ viêm nóng hơn các vùng khác. Nhiệt độ tại ổ viêm tăng làm tăng hiện
tượng giãn mạch, tăng khả năng di chuyển và thực bào của bạch cầu. Các mediator là
các chí nhiệt tố, chúng vào máu và tác động lên trung khu điều nhiệt ở vùng dưới đồi
gây phản ứng sốt toàn thân.
+ Gây đau: do kích thích các tận cùng thần kinh như các PG, kinin. Ngoài ra
đau còn do dịch phù viêm gây sưng và chèn ép vào các tận cùng thần kinh. Đau có tác
dụng thông báo cho thần kinh trung ương biết đang có tổn thương tại chỗ viêm.
+ Gây tổn thương tổ chức tế bào, dẫn đến hoại tử tổ chức do tác dụng của các
mediator có tính chất men, làm ổ viêm lan rộng.
- Thành phần của dịch rỉ viêm bao gồm huyết tương và các tế bào viêm, các tế
bào hoại tử, và các tác nhân gây viêm. Dịch rỉ viêm còn có cả fibrinogen, khi ra khỏi
lòng mạch, fibrinogen sẽ chuyển thành fibrin và tạo thành một hàng rào bao quanh ổ
viêm có tác dụng ngăn cản sự phát triển của ổ viêm.
- Trong giai đoạn này xảy ra hiện tượng xuyên mạch và thực bào của bạch cầu:
các bạch cầu sẽ di chuyển theo kiểu amib chui qua thành mạch và tổ chức để đến ổ
viêm do ảnh hưởng của các chất hóa ứng động (như leucotaxin, necroxin). Các bạch
cầu xuyên mạch gồm:
+ Mastocyt (Mφ): thực bào các mảnh chết của tổ chức sau đó trở thành tế bào cố
định của tổ chức.
+ Neutrophil (N): thực bào các dị vật nhỏ như vi khuẩn, hồng cầu, khi ăn xong
thì chết giải phóng ra các mediator viêm và trở thành tế bào viêm.
+ Eozinophil (E): thực bào dị vật nhỏ, thường xuất hiện ở ổ viêm dị ứng.
+ Lymphocyt (L): thường ở các ổ viêm mạn tính, không làm nhiệm vụ thực bào
mà có chức năng tạo ra kháng thể và tạo ra một hàng rào bao quanh ổ viêm, ngăn chặn
sự lan tràn của ổ viêm.
3. Giai đoạn tăng sinh và liền sẹo.
Các tác nhân gây viêm và các mediator giảm, rối loạn tuần hoàn và chuyển hóa
giảm. Một số sản phẩm viêm có tác dụng kích thích phân bào làm tăng sinh tế bào ở
khu vực viêm, tăng sinh tổ chức liên kết, tăng sinh các mao mạch và tổ chức hạt. Tổ
chức hoại tử ở giai đoạn trước được thay thế bởi một tổ chức mới được hình thành.
Trên đây là 3 giai đoạn của một phản ứng viêm điển hình xảy ra tuần tự nhưng
đan xen vào nhau. Tuy vậy, thực tế từ loại phản ứng viêm mà có giai đoạn trội, có giai
đoạn biểu hiện rõ rệt:
- Viêm cấp tính: giai đoạn 1 và 2 phát triển mạnh, gây viêm xuất tiết.
- Viêm mạn tính: giai đoạn 3 phát triển mạnh, gây viêm phì đại.
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
23
LƯỢNG GIÁ VÀ ĐIỀU TRỊ ĐAU
I. LƯỢNG GIÁ ĐAU.
Đau là một hiện tượng chủ quan, phức tạp, đa yếu tố, đa chiều, mà không có
một phương pháp đo lường khách quan nào có thể thực sự định lượng được. Nhận biết
được sự hiện diện của chứng đau đã là rất quan trọng, nhưng lượng giá đau (evaluation)
lại còn là một bước chủ yếu và cần thiết cho việc điều trị hiệu quả đối với bệnh nhân. Vì
vậy, mỗi một bệnh nhân sẽ là một đối chứng riêng và đó là sự đánh giá so sánh hữu ích.
Đánh giá đau được thực hiện trong phạm vi rộng qua việc lượng giá toàn bộ triệu
chứng về tình trạng đau. Việc lượng giá này dựa trên một bảng thống kê đầy đủ chi tiết
gồm các bước chủ yếu sau:
- Hỏi bệnh nhân (và người nhà bệnh nhân).
- Khám lâm sàng và đặc biệt là khám thần kinh.
- Các xét nghiệm cận lâm sàng.
- Đánh giá về hành vi thái độ và sự tự chủ.
1. Nội dung lượng giá.
- Tuổi, giới.
- Vị trí đau và vị trí đặc biệt của đau, thời gian đau.
- Các nguyên nhân thúc đẩy đau hoặc có liên quan đến đau.
- Lan tỏa đau: đau khu trú hay lan tỏa, lan tỏa đi đâu.
- Tính chất đau: đau âm ỉ, đau nhức, dao đâm, nẩy mạch, đau như xé, đau day
dứt…
- Kiểu đau và thời gian cơn đau: đau liên tục âm ỉ hay thành cơn, đau tăng khi
nào, nghỉ ngơi có hết đau không? Có rối loạn giấc ngủ không?
- Cường độ đau.
- Các triệu chứng kèm theo: tê bì, yếu, dị cảm.
- Tiến triển của đau: đau tăng, giảm, như cũ.
- Các điều trị đã qua: thuốc, vật lý trị liệu, phẫu thuật. Hiệu quả ra sao?
2. Lượng giá cường độ đau.
Để lượng giá cường độ đau, người ta dùng các thang lượng giá chủ quan, có thể là
thang đo lường chung (thang tự lượng giá), hoặc là đo lường đa chiều nhằm phân biệt các
mức độ đau khác nhau.
Một phương pháp lượng giá chuẩn mực phải đáp ứng những tiêu chuẩn sau
đây:
Điều trị đau - Bs. Mai Trung Dũng
24
- Phải đo lường tốt cái cần đo, phát hiện được những thay đổi về cường độ có
lợi trên lâm sàng.
- Phương pháp lượng giá trung thành khi các lần đo liên tiếp đều giống nhau,
trong những điều kiện lâm sàng có vẻ giống nhau.
- Thang lượng giá đau phải đơn giản, dễ thực hiện để giúp thực hiện lượng giá
hàng ngày hay thực hiện lượng giá trong nhiều ngày và giúp ích chủ yếu cho việc điều
trị và điều dưỡng bệnh nhân cũng như để lượng giá các tình huống đặc biệt (đau ở trẻ
em, đau sau mổ ).
3. Các phương pháp lượng giá đau chủ quan.
3.1. Các thang lượng giá một chiều.
Các thang lượng giá một chiều dùng để lượng giá một cách chung nhất cường
độ đau hay là mức độ giảm đau, bao gồm:
- Thang Likert 5 điểm (a five-point Likert scale): là thang thông dụng nhất,
được tạo nên bởi 5 loại từ mô tả cường độ đau được sắp xếp theo thứ tự:
- Thang số (NRS: Numerical Rating Scale) cho bệnh nhân một điểm từ 0 đến 10
(hay 100). Ví dụ điểm 0 nghĩa là không đau, và điểm cao nhất là đau dữ dội không thể chịu
nổi. Đối với sự giảm đau, người ta có thể yêu cầu bệnh nhân cho biết tỷ lệ phần trăm giảm
đau so với mức độ đau ban đầu:
THANG LIKERT 5 ĐIỂM LƯỢNG GIÁ
Lúc này bạn thấy đau ở mức độ nào ?
1: Đau rất ít
2: Đau ít
3: Đau vừa
4: Đau nặng
5: Đau d
ữ dội
B
ạn h
ãy t
ự cho điểm từ 0 đến 10 để xác định mức độ đau của bạn:
- Điểm 0 tương ứng với không đau.
- Điểm 10 tương ứng với đau dữ dội không thể chịu nổi.
Xác định một điểm duy nhất từ 0 đến 10
đối với chứng đau của bạn:
THANG NRS ĐƯỢC TRÌNH BÀY BẰNG CÁCH VIẾT SỐ
Hình 1.1. Thang Likert 5 điểm.
Hình 1.2. Thang NRS.