Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quản trị toàn cầu và hệ thống quản trị toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.6 KB, 19 trang )

Quản trị toàn cầu
Bài học kinh nghiệm
Những ảnh hưởng êu cực của toàn cầu hóa tới sự phát triển bền
vững của Việt Nam.
ngày nay, cụm từ toàn cầu hóa không còn xa lạ với chúng ta. Nó đã trở
nên quen thuộc thông qua nhiều bài báo, tạp chí, sách nghiên cứu, các
cuộc hội thảo khoa học. Người ta coi thế giới giờ gần như đã bị làm
phẳng, theo xu thế đó, các quốc gia kém phát triển sẽ có những cơ hội
phát triển tốt hơn, sẽ bắt kịp với tốc độ phát triển các quốc gia khác.
Nhưng sự thực có phải mọi quốc gia mở cửa mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng,
gắn kết chặt chẽ, đều sẽ hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa? Toàn cầu hóa
liệu có là phép mầu để biến một quốc gia từ đang phát triển trở thành một
con rồng vươn mình bay lên?
Mới đây khi tổng kết về kinh nghiệm ở 13 quốc gia được coi là tăng trưởng
bền vững trong thời gian qua (7% trong vòng 25 năm kể từ năm 1950), Uỷ
ban Phát triển và Tăng trưởng của Ngân hàng Thế giới có đưa ra 5 nguyên
nhân chung các quốc gia này có được: Bộ máy hành chính tận tụy, hội nhập
kinh tế thế giới, đầu tư và tiết kiệm cao, môi trường và sử dụng năng lượng,
mối liên hệ nông thôn và thành thị. Như vậy, dường như hội nhập kinh tế thế
giới, tham gia quá trình toàn cầu hóa là tất yếu để phát triển bền vững.
Chúng ta hãy thử suy nghĩ theo một chiều hướng khác.
1. Thương mại toàn cầu
Trong các lý thuyết thương mại quốc tế, các nhà kinh tế cho rằng các quốc gia
có lợi thế riêng của mình, nếu tập trung phát huy lợi thế đó và trao đổi lấy
những mặt hàng bất lợi thế của mình với các quốc gia khác sẽ mang lại lợi
ích cao hơn cho các bên tham gia. Vì vậy, cần mở cửa rộng rãi, để đón nhận
luồng hàng hóa từ các quốc gia khác. Thực sự, nếu hai bên tham gia với một
vị thế bình đẳng thì có thể lý thuyết này thật hoàn hảo. Nhưng trên thực tế,
các nước giàu, phát triển luôn luôn rêu rao thương mại bình đẳng, tự do hóa
thương mại, nhưng chính các quốc gia này đang duy trì sự bất bình đẳng đó.
Trong hội nghị chính sách đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tổ chức tại Hà


Nội năm 2004, Alan Deardorff, Giáo sư kinh tế quốc tế, Đại học Michigan –
Mỹ, phát biểu: “Hiệp định thương mại song phương thường đưa đến những
thỏa thuận rất không tương xứng giữa các nước nhỏ với Mỹ hoặc châu Âu.
Trong loại hiệp định này, các nước lớn hay các khối thương mại như EU có xu
hướng giành lợi thế về mình chứ không phải lúc nào cũng vì lợi ích của các
nước đối tác. Các hiệp định song phương không phải là thương mại tự do xét
trên khía cạnh như là thành quả truyền thống của thương mại. Chúng là
những thỏa thuận phân biệt đối xử hoặc ưu đãi giữa một số nước với các
nước khác trên thế giới.” [1, 91]
VN hiện nay vẫn hơn 70% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn mà lĩnh vực
sản xuất chính là nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu, những mặt hàng chủ
yếu của chúng ta chiếm tỷ trọng không nhỏ vẫn là những mặt hàng nông
phẩm (Thủy sản, Gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả…). Các sản phẩm này
khi xuất khẩu hầu hết dưới dạng thô và sơ chế, giá trị thu được rất thấp. Bên
cạnh đó, những mặt hàng này vấp phải những hàng rào hàng bảo hộ gay gắt
từ nước ngoài. Khi chúng ta gia nhập WTO, một sân chơi được cho là bình
đẳng, tự do, các hàng hóa là lợi thế các quốc gia sẽ được trao đổi, mua bán
thuận lợi. Lật lại lịch sử khi ra đời 1995, WTO đã phớt lờ những vấn đề các
nước đang phát triển bức xúc nhất là nông nghiệp. Mỹ và Liên minh châu Âu
vẫn duy trì một chế độ bảo hộ dưới dạng trợ cấp nông nghiệp ở mức cao
(khoảng 300 tỷ USD/năm) khiến cho giá trị nông sản xuất khẩu của họ thấp
hơn mức giá sản xuất ở các quốc gia đang phát triển.
Hội nghị Seattle năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên, các nước
đang phát triển đã đương đầu với các nước phát triển và bác bỏ đề xuất của
họ mở ra một v.ng đàm phán mới về tự do hoá thương mại (mang tên vòng
Thiên niên kỷ). Trong khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân
sự thế giới xuống đường biểu tình ồ ạt, phản kháng WTO. Thông qua tại hội
nghị Doha năm 2001, tuyên bố khai mạc của vòng đàm phán “về phát triển”
xác định “đặt nhu cầu và lợi ích của các nước đang phát triển vào trung tâm
chương tr.nh làm việc”, và “thương mại quốc tế có thể giữ vai trò to lớn trong

việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và giảm bớt đói nghèo”. Dù đặt chữ ký dưới
bản tuyên bố này, nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi lời hứa của phía Bắc,
và họ đã có lý. Một lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam kết của họ,
trước tiên trong hồ sơ nông nghiệp. Năm 2002, Mỹ ra đạo luật tăng trợ cấp
cho nông nghiệp lên gấp đôi. Đưa ra ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách
nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu hoá ra chỉ là thay đổi hình thái,
màu mè của những trợ cấp trước đây (chuyển trợ cấp nông sản thành trợ cấp
nông dân).
Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ ngay
mọi trợ cấp trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên khác đến năm
2013 mới cắt giảm); từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp
(các nước thành viên khác vẫn giữ quyền đó).
Các quốc gia phát triển luôn đưa ra “củ cà rốt” mở cửa thị trường, đẩy mạnh
đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn
sàng đập “cây gậy” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu
chuẩn kỹ thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi
phạm (Điển hình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của VN). Điều trớ
trêu là những đối tượng trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những
người nông dân nghèo, những người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều
khó khăn.
Bên cạnh tác động tiêu cực về cạnh tranh bất bình đẳng, thương mại quốc tế
còn đem lại cho các quốc gia đang phát triển “nguồn tài nguyên dồi dào” –
rác thải. Những thứ mà các quốc gia phát triển thải ra: rác thải công nghiệp,
y tế, sinh hoạt… việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, có
xu thế xuất khẩu những thứ này sang các quốc gia đang phát triển trong đó
có VN, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng
lồ. Chúng ta cảm tưởng những chiếc ô tô, ti vi, hay các máy móc được bán
sang VN với giá rẻ đó là một sự “cảm thông” của các quốc gia phát triển với
những nước nghèo. Sự thực là các quốc gia đang phát triển khó có thể nào
chống lại các luồng hàng hóa như vậy. Trong các hiệp định về tự do hóa

thương mại, việc sử dụng hàng rào bảo hộ kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, còn
áp dụng hàng rào kỹ thuật các quốc gia đang phát triển lại không có lợi thế
do trình độ công nghệ thấp ở các quốc gia này.
2. Đầu tư quốc tế
Ngày nay, các luồng tiền đầu tư không còn giới hạn số lượng, biên giới, thời
gian, vấn đề chỉ là suất sinh lời trên vốn cao. Và hàng ngày, các nước phát
triển vẫn luôn rao giảng mở cửa, mở cửa hơn nữa, chúng tôi đem tiền cho các
anh tại sao lại đóng. Cái chúng tôi đem lại là vốn, công ăn việc làm, giải quyết
những vấn đề xã hội, và bao nhiêu điều tốt đẹp, vì thế đừng giới hạn đầu tư.
Ở đây, không thể phủ nhận những mặt tích cực mà đầu tư nước ngoài mang
lại cho một quốc gia –điều này đã được nhiều công trình nghiên cứu nêu ra.
Nhưng xét một khía cạnh khác, đặc biệt nhìn dưới góc độ tính bền vững trong
phát triển kinh tế, đầu tư quốc tế có những điểm cần quan tâm.
Thứ nhất, Luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những tập
đoàn tư bản lớn mà vốn, công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với
những điều kiện đó, khi các tập đoàn này vào, họ có thể sử dụng nhiều biện
pháp thậm chí mang tính “thanh toán”. Gần như các doanh nghiệp trong
nước rất khó khăn trong việc cạnh tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công
ty con cho những tập đoàn này. Một dẫn chứng kinh điển là trường hợp một
tập đoàn nước ngọt hàng đầu thế giới đã chịu lỗ nhiều năm liền để có thể
thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị phần ở VN – đây là một bài học mà cho
tới này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thử suy nghĩ, nếu thị trường
trong nước chịu sự kiểm soát phần lớn từ các tập đoàn đầu tư nước ngoài,
khi có một trục trặc xảy ra (ví dụ như: khủng hoảng, suy thoái, hay động cơ
chính trị…), các tập đoàn này đồng loạt rút chân, một lượng lớn lao động thất
nghiệp, các ngành sản xuất ngưng trệ, hàng hóa không thể tự túc được, nền
kinh tế sẽ càng rơi xuống đáy tiêu điều.
Thứ hai, nhiều lĩnh vực được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển sang các
nước đang phát triển, đang dần hủy hoại môi trường ở những quốc gia này
và tất nhiên trong đó có VN. Với những hàng rào về môi trường nghiêm ngặt

ở quốc gia mình, nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển khó có thể sản
xuất, kinh doanh với công nghệ hiện có, và họ nghĩ ra nơi đầu tư lý tưởng đó
là các nước đang phát triển – nơi mà đang chú trọng thu hút nguồn vốn đầu
tư nên vấn đề môi trường không kiểm soát chặt chẽ.
Một cách khôn ngoan, họ – các nước phát triển cho rằng thật là tốt biết bao
khi một nước đang phát triển vươn lên thành “cường quốc” trong ngành
công nghiệp nào đó. Thông qua đầu tư, hợp tác quốc tế, điều tuyệt vời này có
thể trở thành sự thật.
Cuối năm 2007, VN được xếp hạng 6 thế giới về đóng tàu thủy, đây quả thực
là một kết quả đáng tự hào. Nhưng tại sao các quốc gia đóng tàu nổi tiếng
thế giới trong lịch sử điển hình như Anh lại không tập trung phát triển ngành
này nữa?
Thật ra, chúng ta vẫn chỉ được coi như “làm thuê” khi tỷ lệ nội địa hóa
khoảng 30% và đó hầu hết là những chi tiết, công đoạn có mức độ ô nhiễm
môi trường rất lớn.
Thứ ba, một khía cạnh không thể không nhắc tới về ảnh hưởng của đầu tư
quốc tế là đầu tư tài chính. Với xu thế toàn cầu hóa, một nhà đầu tư không
cần phải cất công lặn lội đường xá xa xôi để đem nguồn tiền đi sinh lời. Họ có
thể ngồi tại New York, Paris, Tokyo hay London để chi phối hoạt động tài
chính ở cách đó nửa vòng trái đất. Các luồng vốn tài chính đổ vào các quốc
gia dưới dạng đầu tư chứng khoán, bất động sản trong một thời điểm nó có
thể đẩy các thị trường này phát triển rất nhanh. Nhưng khi thấy đã “đút túi”
được một khoản lớn, các nhà đầu tư nước ngoài lại có động thái rút vốn
khiến thị trường rơi vào tình trạng suy thoái, nhiều doanh nghiệp phá sản,
đời sống nhiều người dân rơi vào tình trạng khó khăn. Đây là bài học lớn rút
ra từ cuộc khủng hoảng tài chính lớn ở Đông Nam Á năm 1997. Dường như
điều này vẫn liên tục lặp lại ở các thị trường mới nổi khi các nhà đầu tư nước
ngoài vẫn luôn ra sức kêu gọi mở thị trường để rộng đường họ chi phối. Cuối
năm 2006, đầu năm 2007, thị trường chứng khoán VN thực sự sôi động khi
giá cổ phiếu được đẩy lên cao hàng ngày, thu hút nhiều nhà đầu tư lên sàn.

Từ những người am hiểu kinh tế, tài chính đến người không biết gì nhiều, trí
thức, công nhân, sinh viên và cả những bác nông dân bán đất để lên sàn,
thậm chí họ mua mà còn không biết rõ mã cổ phiếu mình mua của công ty
nào. Tất nhiên, điều này làm cho thị trường phát triển quá mức và quả bong
bóng tài chính có thể nổ bất cứ lúc nào. Khi chính phủ thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ để đẩy lùi nguy cơ lạm phát, các nhà đầu tư nước ngoài rút
tiền hàng loạt và thị trường chứng khoán đi xuống một cách nhanh chóng.
Nhiều nhà đầu tư từ chỗ tỉ phú, triệu phú lâm vào cảnh trắng tay thậm chí
trở thành con nợ.
Thứ tư, việc thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra sự cạnh
tranh giữa các địa phương trong việc xây dựng các khu công nghiệp. Quỹ đất
để xây những khu công nghiệp này lẽ dĩ nhiên là lấy từ nông nghiệp. Khi
không có quy hoạch hợp lý và tính toán dài hạn, hàng loạt người nông dân
mất đất, trong tay không có nghề nghiệp, nhiều người tuổi tác không phù hợp
để chuyển đổi công việc, cuộc sống họ vốn đã khó khăn, bấp bênh nay càng
khó khăn hơn. Nhiều người cầm một đống tiền đền bù nhưng không biết phải
làm gì, và những vấn đề xã hội cũng kéo theo đó gia tăng: thất nghiệp, cờ bạc,
nghiện hút…
Khái niệm phát triển bền vững được đề cập và phổ biến rộng rãi từ năm 1987
từ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Tương lai chung của chúng ta)
của Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) nay là Uỷ ban
Brundtland. Báo cáo ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai…", hay nói cách khác,
phát triển bền vững phải bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công
bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các
thành phần kinh tế – xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội… phải bắt tay
nhau thực hiện nhằm mục đích dung hoà ba lĩnh vực chính: kinh tế, xã hội,
môi trường.
Xét trên những tiêu chí trên, có thể thấy xu thế toàn cầu hóa có những tác

động tiêu cực không nhỏ tới sự phát triển bền vững ở quốc gia đang phát
triển như VN trên cả bình diện kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, VN trong
quá trình hội nhập với khu vực và thế giới cần chú ý tới những tác động này.
Thực chất đây là “mặt đối lập” của những thuận lợi mà toàn cầu hóa mang
lại cho các quốc gia. Chúng ta không thể tách mình khỏi xu thế này nhưng
chúng ta cần một chiến lược hội nhập bền vững, phát triển kinh tế nhưng
phải đánh giá và có những giải pháp phù hợp cho vấn đề môi trường và xã
hội
Việt Nam tham gia ASAEN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập từ tháng 8 năm
1967, đã trải qua 48 năm phát triển . Năm 2009, Hiến chương ASEAN có hiệu
lực đã đánh dấu cột mốc quan trọng, xác lập tính pháp lý quốc tế của ASEAN,
đồng thời khẳng định mục tiêu thiết lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015
dựa trên ba trụ cột chính là an ninh - chính trị, văn hoá - xã hội và kinh tế.
Việt Nam gia nhập ASEAN từ tháng 7/1995. Trải qua 20 năm tham gia
ASEAN (tính đến 2015), chúng ta đã tận dụng được nhiều cơ hội và kinh qua
không ít thách thức để phát triển, từng bước khẳng định vị thế ngày một cao
trong khu vực. Trong đó,lĩnh vực thương mại chịu tác động mạnh nhất và thu
được nhiều thành quả quan trọng nhất trong hội nhập ASEAN. Với mục tiêu
chiến lược biến ASEAN thành một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống
nhất, khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, khu
vực thương mại tự do ASEAN (AFTA - ASEAN Free Trade Area) đã chính thức
được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV vào năm 1992, là
một bước đi quan trọng để hoàn thiện cơ chế tự do hoá thương mại nội khối
nhằm tăng cường lợi thế cạnh tranh của khu vực ASEAN. Trong đó, cơ chế
chính để hình thành AFTA là Hiệp định về Chương trình ưu đãi Thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT - Common Effective Preferential Taiff).
Đánh giá tác động của việc gia nhập ASEAN đối với thương mại
Việt Nam
Căn cứ vào việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định CEPT/AFTA

và ATIGA của Việt nam và các nước trong ASEAN, Đề tài đã phân chia thời
gian 15 năm gia nhập ASEAN của Việt Nam (từ 1995 - 2010) thành 2 giai
đoạn: Giai đoạn 1: từ năm 1995-2002; giai đoạn 2: từ năm 2003-2010.
Qua việc nghiên cứu tác động của việc gia nhập ASEAN đối với thương
mại Việt Nam đến chính sách thương mại; tác động tới xuất nhập khẩu (qui
mô, tốc độ tăng trưởng; cơ cấu, chủng loại hàng hóa; thị trường xuất nhập
khẩu trong và ngoài ASEAN); tác động đến thị trường, kinh tế trong nước
(tác động thu ngân sách; tác động đến Công nghiệp; tác động đến doanh
nghiệp; tác động đến đầu tư). Đề tài đã đưa ra nhưng nhận định như sau:
a) Những tác động tích cực có lợi cho Việt Nam:
Thứ nhất, Từ khi Việt Nam tham gia CEPT/AFTA đã mở được thị
trường tiêu thụ, ASEAN đã trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam bên cạnh EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ngày
càng có nhiều cơ hội mở rộng hoạt động xuất khẩu sang các nước ASEAN.
Thứ hai, hội nhập ASEAN đã tạo nên sự chuyển biến sâu sắc về nhận
thức trong công tác điều hành và quản lý kinh tế trong những năm qua.
Hướng đến mục tiêu xây dựng AEC, nước ta đã củng cố cơ chế quản lý thương
mại mang tính hài hoà, tiên tiến và minh bạch. Đối với cộng đồng doanh
nghiệp, hội nhập ASEAN đang tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi và
tin cậy. Với các cơ quan quản lý, việc thực thi cam kết hội nhập ASEAN đã
giúp tăng cường hiệu quả thực thi chính sách thương mại nhờ giảm thiểu
nhập lậu từ các nước lân cận như Thái Lan, Cam-pu-chia, Trung Quốc. Hàng
nhập khẩu có khuynh hướng chuyển dịch tích cực từ kênh phi chính thức
sang kênh chính thức.
Thứ ba, tác động rõ rệt của tham gia và thực hiện AFTA đối với FDI vào
Việt Nam là tạo niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và của
ASEAN nói riêng vào cam kết mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế của nước
ta.
Ngoài ra, thực hiện AFTA đã góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách và
cơ cấu lại nền kinh tế, giúp Việt Nam định hình con đường để tham gia tích

cực vào việc phân công lao động quốc tế
b) Những hạn chế và tác động bất lợi cho Việt Nam:
- Từ năm 1995 đến nay, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu với tỷ lệ khá
cao. Điều này cũng phản ánh mức độ phát triển kinh tế và sức cạnh tranh của
ta còn thấp so với các nước ASEAN6; Việt Nam vẫn còn quá phụ thuộc vào
xuất khẩu sản phẩm thô (dầu mỏ, nông sản) và hàng công nghiệp chế biến với
công nghệ trung bình và GTTT thấp. Xuất khẩu các nông sản đã qua chế biến
còn hạn chế. Hơn nữa, gia công xuất khẩu vẫn là hình thức chủ yếu nên GTTT
bị giảm đáng kể. Trong ngành công nghiệp chế biến, Việt Nam vẫn chưa khai
thác được tiềm năng xuất khẩu của các ngành tăng trưởng năng động ở các
nước ASEAN khác.Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam có điểm tương đồng khá rõ nét với các nước thành viên cũ của
ASEAN như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines. Việt
Nam có lợi thế xuất khẩu các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số
sản phẩm công nghiệp nhẹ thì các nước ASEAN cũng có lợi thế này. Với cơ cấu
các mặt hàng xuất khẩu hiện nay của Việt Nam, lợi ích mà Việt Nam trước
mắt thu được từ AFTA không đáng kể. Nếu như cơ cấu các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam chuyển dịch theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công
nghiệp chế biến, những hàng hoá chủ yếu nằm trong Danh mục IL thì sự cắt
giảm về thuế mới có thể trở thành tác nhân kích thích đối với doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
- Việc nghiên cứu tác động của các thiết chế thương mại khu vực và
quốc tế đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh của Việt Nam là rất quan
trọng, nhưng hiện còn bị xem nhẹ; cách thức tổ chức đàm phán cũng bộc lộ
nhiều hạn chế do mối quan hệ giữa việc thực hiện đàm phán thương mại
quốc tế với mục tiêu của chính sách thương mại chưa được làm rõ.
- Các dịch vụ thương mại đi kèm và kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông
vận tải yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương
thức; Khả năng phát triển của các doanh nghiệp cần nhiều vốn và có trình độ
công nghệ cao của Việt Nam chưa lớn.

Trên cơ sở đánh giá những tác động thúc đẩy và những tác động hạn
chế sự phát triển của thương mại Việt Nam, Đề tài đã chỉ ra những nguyên
nhân của những mặt hạn chế bắt nguồn từ: phía Hiệp hội các nước ASEAN;
phía Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam; nguyên nhân từ các yếu tố bên
ngoài…
Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thương mại
Việt Nam trong ASEAN đến năm 2015, tầm nhìn 2020.
Trên cơ sở dự báo triển vọng phát triển thương mại việt nam trong
ASEAN, xem xét cơ hội và thách thức cũng như triển vọng phát triển quan hệ
thương mại Việt Nam - ASEAN trong bối cảnh thiết lập Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) vào năm 2015. Đề tài đã đưa ra quan điểm, định hướng và giải
pháp chủ yếu phát triển thương mại của Việt Nam trong ASEAN như sau:
a) Những quan điểm cơ bản: (1) Phải xác định rất rõ ràng trước mắt
cũng như lâu dài thị trường ASEAN là một trong 3 thị trường lớn nhất và
quan trọng nhất của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. (2) Việt Nam phải nhanh chóng, tích cực nắm bắt và tận dụng mọi cơ
hội và lợi thế nội tại từ hội nhập ASEAN mang lại để tăng cường hơn nữa
hoạt động giao thương giữa Việt Nam với các thành viên ASEAN nhằm nâng
cao kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cũng như tỷ lệ thương mại giữa Việt
Nam - ASEAN trong tổng giá trị thương mại của Việt Nam với thế giới; thông
qua hoạt động giao thương với ASEAN để doanh nghiệp Việt Nam cũng như
hàng hóa Việt Nam vươn ra thị trường ngoài ASEAN vững trãi hơn, mạnh mẽ
hơn và hiệu quả hơn. (3)Tạo mọi điều kiện và động viên mọi thành phần kinh
tế, mọi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang thị trường các nước thành
viên của ASEAN trên tinh thần lượng ngày càng nhiều, chất ngày càng cao.
b) Những định hướng chiến lược: (1) Cùng với việc đẩy mạnh hơn hoạt
động thương mại với các thị trường khác, nhất là Mỹ, EU, Nhật Bản thì phải
quyết liệt bám sát thị trường ASEAN để mở rộng thị trường, nâng cao thị
phần và đặc biệt phải coi trọng tính bền vững và hiệu quả. (2) Nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động thương mại ở thị

trường ASEAN để tham gia sâu và hiệu quả hơn vào các khâu có giá trị gia tăng
cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển mạnh các hệ thống phân phối hàng
Việt Nam ở trong nước và từng bước mở rộng ra nước ngoài để nâng cao tính
chủ động và hiệu quả xuất khẩu. (3) Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một
cách hợp lý theo hướng hiện đại, nâng nhanh tỉ trọng các sản phẩm xuất khẩu có
giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các sản phẩm có hàm lượng công
nghệ cao, các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Hạn chế tối đa
xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến sâu, giảm nhanh tỉ trọng sản phẩm thô
và sơ chế trong cơ cấu hàng xuất khẩu; xác định được những mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của những thị trường “ngách” trong
từng thị trường thành viên ASEAN. (4) Định hướng phát triển thị trường
xuất khẩu, theo ba nhóm thị trường: nhóm thị trường trung chuyển hàng
xuất khẩu của Việt Nam (đại diện là thị trường Singapore); nhóm thị trường
cần sự bù đắp bởi hàng xuất khẩu của Việt Nam ở cả khía cạnh số lượng,
chủng loại, mẫu mã, tính độc đáo và tính thời vụ và nhóm thị trường gần gũi
về mặt địa lý và mới nổi (như Lào, Campuchia). Doanh nghiệp căn cứ điều
kiện sản xuất và sản phẩm của mình xác định rõ ràng thị trường mục tiêu của
mình trong từng thời kỳ khác nhau. (5) Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ
thị trường ASEAN được quản lý theo hướng bảo đảm tính bền vững và hiệu
quả .
c) Các giải pháp chủ yếu phát triển thương mại Việt Nam trong ASEAN
đến năm 2015 tầm nhìn 2020.
- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô trong quá trình hội nhập ASEAN ngày
càng sâu rộng hơn
- Hoàn thiện cơ chế đàm phán thương mại quốc tế đẩy mạnh công tác
nghiên cứu cơ bản phục vụ xây dựng phương án đàm phán thương mại quốc
tế nâng cao hiệu quả đàm phán thương mại quốc tế.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
giảm thiểu tác động bất lợi của hội nhập;

- Các giải pháp đối với doanh nghiệp;
- Các giải pháp điều tiết hoạt động nhập khẩu của Việt Nam trong
ASEAN.
d) Một số kiến nghị.
Để thương mại Việt Nam tiếp tục phát triển trong mối liên kết của
ASEAN, Đề tài đã đưa ra một số kiến nghị: chủ động xử lý vấn đề nhập siêu;
khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia chuỗi cung ứng
khu vựcnâng cao nhận thức của xã hội, giới doanh nghiệp và người dân về
những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập
Việt Nam tham gia WTO
8 năm trước, ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức được công nhận là
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh
dấu một bước quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Sau
8 năm, Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện mở cửa thị trường, cắt
giảm thuế và xóa bỏ bảo hộ theo đúng lộ trình cam kết với WTO. Dù
phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, việc gia nhập
WTO đã có những tác động quan trọng đến kinh tế Việt Nam, đồng thời
cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Chính phủ và các doanh nghiệp.
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ WTO có ý nghĩa quan trọng trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra rất sâu rộng hiện nay.
Năm 2008, chỉ một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thu hút đầu tư nước
ngoài đã đạt số vốn đăng ký kỉ lục, gần 72 tỷ USD
Vào các năm sau đó, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thu hút
FDI đã giảm xuống, và bắt đầu phục hồi từ năm 2013 đến nay.
Trong 8 năm, Việt Nam đã thu hút khoảng 200 tỉ USD vốn đăng kí đầu tư
nước ngoài, trong đó vốn thực hiện chiếm gần 50%. Khu vực FDI với hơn
17.000 dự án đã trở thành động lực quan trọng cho quá trình phát triển kinh
tế của Việt Nam.
Theo các chuyên gia, việc Việt Nam tham gia WTO là một cú hích quan trọng
đối với quá trình cải cách thể chế và chính sách. Hơn 30 luật đã được sửa đổi

và ban hành mới nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam,
tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế.
Ông Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp FDI cho biết: Có thể nói
chưa bao giờ có cách tiếp cận thể chế tốt như Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu tư, và cùng với đó Chính phủ thông qua và sửa đổi một loạt thuế thu
nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân theo hướng thuận lợi hơn cho người
dân, doanh nghiệp và cả nhà đầu tư.
Xuất khẩu cũng là một điểm sáng của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Sau 8 năm, xuất khẩu Việt Nam đã tăng 13 bậc trong xếp hạng của Tổ chức
Thương mại thế giới. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt
con số kỉ lục 150 tỉ USD, gấp gần 3 lần so với năm 2007.
Tuy nhiên, tại thị trường trong nước, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn thụ động trước những thách thức đặt ra như cắt
giảm thuế quan, mở cửa thị trường.
Ông Trần Việt Thái, Giám đốc Trung tâm khu vực và chính sách đối ngoại
nói: Chúng ta mở thị trường thì nhiều doanh nghiệp bên ngoài tràn vào, các
sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn. Một số mặt hàng giá thành và chi phí
sẽ hạ. Điều đó sẽ đặt ra những thách thức cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp Việt Nam.
Ông Nguyễn Minh Phong, Chuyên gia kinh tế nhận định: Chúng ta còn coi nhẹ
những hàng rào kĩ thuật trong quá trình sử dụng các biện pháp tự vệ để bảo
vệ thị trường trong nước.
Có thể nói, gia nhập WTO đã đánh dấu bước khởi đầu của quá trình hội nhập
kinh quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã kí kết
và hoàn tất đàm phán 10 Hiệp định Thương mại tự do và đang nỗ lực đàm
phán 4 Hiệp định quan trọng khác, trong đó có Hiệp định Thương mại tự do -
FTA với Liên minh châu Âu, và Hiệp định kinh tế xuyên Thái Bình Dương -
TPP.
Ông Võ Trí Thành, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý kinh tế
Trung ương cho biết: Hội nhập là sự chuyển dịch các dòng vốn, sự kết nối

mạnh mẽ hơn của kinh tế Việt Nam với thế giới. Do vậy, quản trị kinh tế vĩ mô
là rất quan trọng. Đây chính là bài học của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Ông Lương Văn Tự, Nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, Nguyên Trưởng
đoàn đàm phán WTO của Việt Nam nói: Những quốc gia gia nhập WTO thành
công được thì điều rất quan trọng là người ta quyết tâm thay đổi bằng
những chính sách và nội lực ở trong nước, chứ còn việc mở cửa thị trường và
gia nhập chỉ là tạo một môi trường tốt hơn cho việc phát triển đó.
Những thành tựu đạt được trong 8 năm qua cho thấy, việc Việt Nam tham gia
vào WTO là phù hợp với thực tế khách quan và xu thế hợp tác, hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay. Những thành công và hạn chế đặt ra sau khi gia nhập
WTO đã giúp Việt Nam rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài
học về ổn định kinh tế vĩ mô và phát huy nội lực trong quá trình hội nhập.
Thuận lợi và thách thức của Việt Nam khi tham gia TPP
Dự kiến sẽ ký kết trong năm 2015, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đang trong tiến trình đàm phán khấn trương và toàn diện. TPP được
kỳ vọng đem lại nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam, tuy nhiên cũng sẽ mang đến
không ít thách thức đối với nền kinh tế.
Đứng trước nhiều cơ hội…
Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (CL&CSTC) thuộc Bộ Tài chính,
bình đẳng trong cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp sẽ được thiết lập
khi Việt Nam tham gia TPP. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sẽ không
còn được hưởng các ưu đãi về điều kiện tiếp cận vốn hay được bảo hộ. Điều
này sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển và cạnh tranh bình
đẳng, đồng thời tạo sức ép thúc đẩy các DNNN chủ động nâng cao năng lực
cạnh tranh. Tuy nhiên, Viện CL&CSTC cho rằng, phạm vi áp dụng các quy tắc
của TPP đối với DNNN chỉ ở lĩnh vực hàng hóa, mà không áp dụng đối với
lĩnh vực dịch vụ. Điều này có nghĩa là Chính phủ các nước thành viên TPP sẽ
không bị hạn chế trong việc hỗ trợ các DNNN cung ứng dịch vụ tại thị trường
nội địa.
Cùng với việc tạo ra bình đẳng trong cạnh tranh giữa các loại hình doanh

nghiệp, khi tham gia TPP, chất lượng hoạt động đấu thầu của Việt Nam cũng
sẽ được nâng cao. Viện CL&CSTC phân tích, trong khuôn khổ TPP, việc tuân
thủ các điều khoản liên quan đến vấn đề mua sắm chính phủ là bắt buộc. Khi
đó, hoạt động đấu thầu sẽ trở nên phổ biến, thuận lợi và minh bạch hơn và là
yếu tố để nâng cao chất lượng các công trình, dịch vụ. Tuy nhiên, những quy
định về mua sắm chính phủ cũng đặt ra không ít thách thức, do mua sắm
chính phủ của các công ty trong nước không còn độc quyền, mà phải cạnh
tranh bình đẳng với các nhà thầu nước ngoài. Các nhà thầu trong nước phải
nâng cao năng lực để có thể cạnh tranh với nhà thầu của nước thành viên
khác trong TPP.
Tham gia TPP cũng sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam gia tăng sản xuất và mở
rộng thị trường nông sản ra nước ngoài. Theo CL&CSTC, khi tham gia TPP,
thuế suất giảm về 0% sẽ đem lại cơ hội cạnh tranh bình đẳng hơn cho các
doanh nghiệp Việt Nam, tác động tích cực đến thu nhập của người dân, cải
thiện sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Bên cạnh đó, gia nhập TPP sẽ mở ra cơ hội cho sản xuất của Việt
Nam, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với doanh nghiệp các nước
nhằm hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu
hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
…nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức
Cùng với những thuận lợi, Viện CL&CSTC nhận định, khi tham gia TPP, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc giảm thuế trong
TPP sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước
TPP vào Việt Nam với giá rẻ, chất lượng và mẫu mã đa dạng. Sản phẩm của
các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, yêu cầu đổi
mới là bắt buộc để gia tăng sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Dẫn chứng về tính cạnh tranh khốc liệt mà TPP sẽ tạo nên, Viện CL&CSTC đưa
ra ví dụ, đối với các sản phẩm nông nghiệp, các nước tham gia TPP có xu
hướng đàm phán hạn chế nhằm giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa. Khi đó,
hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến, nhưng yêu cầu về chất lượng sản

phẩm lại cao hơn, trong khi đây vẫn là điểm yếu của sản xuất nông nghiệp
Việt Nam. Hàng nhập khẩu tăng, xuất khẩu không tìm được đường vào thị
trường các nước sẽ khiến nông nghiệp có nguy cơ gia tăng áp lực cạnh tranh.
Một thách thức nữa đối với Việt Nam khi tham gia TPP là để bảo hộ hàng hóa
trong nước, Việt Nam tất yếu cũng sẽ áp dụng các hàng rào phi thuế quan.
Tuy nhiên, nếu rào cản kỹ thuật chưa có hoặc còn kém, các biện pháp vệ sinh
dịch tễ không hiệu quả sẽ khiến chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ các
sản phẩm chất lượng thấp, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng vừa
không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, theo Viện CL&CSTC, Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong TPP yêu
cầu các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên của TPP sang các thành viên
khác phải có xuất xứ “nội khối”, không sử dụng các nguyên liệu của nước thứ
ba ngoài thành viên TPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Đây là khó
khăn đối với doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam, đặc biệt là ngành xuất
khẩu hàng may mặc và da giầy. Hiện nay, do năng lực tự sản xuất và cung
ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, ngành xuất khẩu hàng may mặc và da giầy
Việt Nam đang lệ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ
Trung Quốc (nước không tham gia TPP).
Vốn đầu tư ODA
1: Tích cực:
Với những ưu điểm của mình, ODA đã có rất nhiều tác động tích cực đến kinh
tế, xã hội… ở Việt Nam như :
-Giúp tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
• Thông qua các dự án ODA, nước ta có thể nâng cao trình độ
KHCN và trình độ nhân lực của mình bằng những hoạt động
của các nhà tài trợ.
• Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo
người dân.
• Thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà

đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện
và bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, giúp nâng cao
trình độ bản thân nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói
chung.
- Thúc đẩy tăng trưởng , cải thiện đời sống, góp phần xóa đói giảm
nghèo
• Bằng những khoản cho vay hay đầu tư không hoàn lại của
mình, các nước đầu tư đã góp phần vào việc bổ sung ngân
sách nhà nước của nước ta. Tạo điều kiện cho việc đầu tư phát
triển kinh tế, xã hội….
• Nguồn vốn này đã đóng vai trò quan trọng trong chiến lược
tăng trưởng, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách
thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số
chương trình quốc gia có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình
dân số và phát triển, tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng trẻ
em
Ví dụ:
 ODA đầu tư các dự án về giáo dục như: dự án “Tăng cường khả năng
sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non”- Dự án ODA đầu tiên dành cho sự
phát triển mầm non…vv
 Việc đầu tư vào Công nghiệp hay dịch vụ sẽ sử dụng nhiều lao động
nước ta, từ đó giúp nguòn lao động dư thừa của nước ta có việc làm,
mang lại thu nhập ổn định, từ đó đời sống nhân dân được cải thiện,
tổng thu nhập quốc dân tăng
=>thúc đẩy tăng trưởng
- Góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
• Các dự án ODA mà các nhà tài trợ đầu tư vào Việt
Nam chủ yếu vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh tế
kỹ thuật, phát triển nhân lực tạo điều kiên cho việc

cân đối giữa các ngành trong cả nước .
Ví dụ:
 Rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng, giao thông lớn trên cả nước đều xây
dựng nhờ vào nguồn ODA như:
Cầu Bãi cháy ( Quảng Ninh)
Hầm Kim Liên (Hà Nội)
Cầu Thanh Trì
-Mở rộng đầu tư phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp FDI
• Để thu hút đầu tư của các nước phát triển, chắc chắn
nước ta phải xem xét về các mặt như sơ sở hạ tầng của
mình . Vấn đề là các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định
đầu tư vào một nước, thì việc đầu tiên họ quan tâm sẽ là
lợi nhuận. Vì vậy một nước có cơ sở hạ tầng, hệ thống giao
thông hay phương tiện liên lạc…vv… yếu kém sẽ khó có thể
thu hút đc ODA
=> Nhà nước sẽ phải mở rộng đầu tư phát triển để cải thiện
những vấn đề còn yếu kém.
• Khi vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm
phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng
vốn đầu tư trực tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu
tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư
của mình, kết quả tổng đầu tư trực tiếp xã hội sẽ tăng
lên.
-Thiết lập và cải thiện các mối quan hệ quốc tế ….vv….
• Hiện nay nước ta nhận được ngồn vốn ODA từ nhiều quố
gia khác nhau trên thế giới, việc đầu tư của các nước bạn
này đã giúp mối quan hệ ngoại giao của nước ta và nước
đầu tư trở nên thân mật, gắn bó hơn… từ đó, mở rộng mối
quan hệ quốc tế.

(Nhật Bản tiếp tục tài trợ 40,946 tỷ JPY vốn ODA cho Dự án của Việt Nam)
Tuy nhiên, có thể thấy tác động tích cực rõ rệt nhất chính là: ODA là nguồn
vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư và phát triển.
• Trong sự nghiệp công nghiện hóa - hiện đại hóa đất nước của các
nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phải đòi hỏi
một lượng vốn đầu tư vô cùng lớn, mà nếu chỉ huy động vốn trong
nước thì không thể đủ, vì thế việc nhận sự hỗ trợ từ ODA là vô cùng
cần thiết.
Ví dụ:
 Sau 20 năm. Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết hỗ trợ Việt
Nam khoản vốn ODA lên tới gần 80 tỉ USD. Khoản tiền này được ví như
“chất xúc tác” góp phần làm thay đổi bộ mặt đất nước .
Hoạt động sản xuất của công ty Mabuchi motor Việt Nam ( 100% vốn ODA
Nhật Bản)
Mô hình dự án xây dựng đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Bến Lức - Long
Thành (do Nhật Bản đầu tư vốn ODA)
Cầu Cần Thơ được xây dựng từ vốn ODA của Nhật Bản.
2:Tiêu cực
Các tác động tiêu cực của ODA đến Việt Nam: Tăng khoảng cách giàu nghèo,
tạo ra sự phụ thuộc của các nước đi vay vào các nước cho vay và đặc biệt
nhất là ODA đã làm trầm trọng cán cân thanh toán của nước ta .
-ODA đã làm gia tăng nợ quốc gia: Việc ODA không ngừng tăng cao giúp
cải thiện tình hình kinh tế , xã hội nhưng cũng góp phần làm tăng cao nguồn
nợ quốc gia:
Năm 2005: Việt Nam nợ 19 tỷ USD
Từ 2006-2010: khoản nợ tăng them 17 tỷ USD
Dự tính sau 5 năm: khoản nợ sẽ tăng them 32 tỷ USD (34 đến 50% GDP)
-ODA làm gia tăng lạm phát :
+ Nợ =>vay nợ mới => tăng nợ => tăng vay ….vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ
đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy lạm phát: Nợ => tăng nghĩa vụ nợ => thâm hụt

ngân sách => tăng lạm phát . Lúc này nợ sẽ ngốn hết các khoản chi ngân sách
cho phát triển và ổn định xã hội , làm căng thẳng them trạng thái khát vốn,
hỗn loạn xã hội
Chuyên gia của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đã dự báo lạm phát của Việt
Nam năm 2013 lã 8,2% vượt xa dự định của chính phủ ( 6-7%)
+Hơn nữa việc “thắt lưng buộc bụng” để trả nợ dẫn đến việc hạn chế
nhập, tăng xuất, trong đó có cả hàng tiêu dung mà trong nước còn
thiếu hụt  làm mất cân đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát

×