Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Đẩy mạnh quản trị tri thức tại các Trường đại học – Nghiên cứu tình huống tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.52 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN TRỊ TRI THỨC TẠI TRƯỜNG 64
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CBNV : Cán bộ nhân viên
QTTT : Quản trị tri thức
ĐH KTQD : Đại học Kinh tế Quốc dân
NCKH : Nghiên cứu khoa học
KHSV : Khoa học sinh viên
Bộ GD&ĐT : Bộ Giáo dục và đào tạo
NCS : Nghiên cứu sinh
KH – CN : Khoa học Công nghệ
NH : Ngân hàng
CFE : CLB Doanh nhân tương lai
YEC : CLB Nhà kinh tế trẻ
CRM : Customer Relationship Management
*Số liệu của bài nghiên cứu được dựa trên kết quả khảo sát: “Khảo sát ý kiến
sinh viên về thực trạng quản trị tri thức đối với sinh viên Chính quy trường
Đại học Kinh tế Quốc dân”. (Bảng hỏi điều tra tại Phụ lục)
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ sinh viên tham gia NCKH tại trường Đại học
Kinh tế Quốc dân 43
Biểu đồ 2.3: Lý do sinh viên không tham gia nghiên cứu khoa học
44
Biểu đồ 2.5: Lý do sinh viên không tham gia các buổi hội thảo khoa
học 55
Biểu đồ 2.6: Khó khăn khi tham khảo tài liệu ở thư viện trường Đại
học Kinh tế Quốc dân 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ


QUẢN TRỊ TRI THỨC TẠI TRƯỜNG 64
Sơ đồ 3.1: Mô hình thí điểm triển khai thực hiện dự án QTTT tại trường Đại
học
… 70
Bảng 1.1: Các công cụ của Quản trị tri thức 19
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ sinh viên tham gia NCKH tại trường Đại học
Kinh tế Quốc dân 43
Biểu đồ 2.3: Lý do sinh viên không tham gia nghiên cứu khoa học
44
Biểu đồ 2.5: Lý do sinh viên không tham gia các buổi hội thảo khoa
học 55
Biểu đồ 2.6: Khó khăn khi tham khảo tài liệu ở thư viện trường Đại
học Kinh tế Quốc dân 60
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN TRỊ TRI THỨC TẠI TRƯỜNG 64

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, ở các nước phát triển, nền kinh tế bắt
đầu có sự chuyển dịch nhanh, từ nền kinh tế công – nông sang nền kinh tế tri
thức. Lý thuyết về quản trị con người cũng dần dần được thay thế bằng lý
thuyết quản trị tri thức. Tuy mới ra đời chỉ hơn 10 năm nhưng Quản trị tri
thức đang trở thành xu hướng toàn cầu. Vị trí của ngành quản trị non trẻ này
đã và đang được khẳng định bởi sự thành công của nhiều Tập đoàn hàng đầu
thế giới trong việc ứng dụng. Dựa trên nền tảng triết lý quản trị tri thức,
những giá trị vật chất và tinh thần, chỉ số lợi nhuận và thị phần của những
công ty áp dụng đã khiến thế giới doanh nghiệp ngưỡng mộ. Tiêu biểu cho
những bước tiến thần kỳ đó là các tổ chức hàng đầu như: IBM, Coca – Cola,
Microsoft, Google hay Yahoo. Ở Châu Á, chúng ta cũng được chứng kiến
những bước nhạy vọt đầy mạnh mẽ với một phương thức quản trị tương tự

trên phạm vi quốc gia như Singapor, Hàn Quốc, Nhật Bản hay Malaysia.
Ngày nay, Quản trị tri thức đã trở thành một xu hướng tất yếu và phổ biến ở
các nước phát triển trong các loại hình kinh doanh của xã hội từ kinh tế, chính
trị, giáo dục, quốc phòng,… Các doanh nghiệp nếu muốn phát triển nhanh và
bền vững có thể lấy quản trị tri thức làm chiến lược lâu dài. Quản trị tri thức
được thực hiện sẽ giúp cho các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, có tính kế thừa và có thể truyền dạy trong tất cả các lĩnh vực: quản trị
kinh doanh, quản trị hệ thống thông tin, khoa học thông tin và thư viện…v.v
Việt Nam – một đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ cũng đã nhận thức
được tầm quan trọng và chiến lược của quản trị tri thức. Các đề tài về Quản trị
tri thức cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, các đề tài này lại
chủ yếu xoay quanh Quản trị tri thức trong doanh nghiệp mà chưa đề cập tới
quản trị tri thức trong các trường Đại học. Dựa trên những kiến thức đã được
học trên ghế nhà trường và thực tế nhận thức được, nhóm sinh viên nghiên
cứu khoa học chúng em quyết định chọn đề tài "Đẩy mạnh quản trị tri thức
1
tại các Trường đại học – Nghiên cứu tình huống tại Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân" làm đề tài cho nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về quản trị tri thức
và quản trị tri thức tại các trường Đại học.
- Mục tiêu cụ thể:
• Nghiên cứu thực trạng quản trị tri thức tại Trường đại học Kinh tế
Quốc dân
• Một số đề xuất nhằm đẩy mạnh quản trị tri thức tại Trường đại học
Kinh tế Quốc dân
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản trị tri thức bao gồm các hoạt
động chính: Nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên, truyền thụ và
tiếp thu kiến thức. Bên cạnh đó có các hoạt động khác.

- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng quản trị tri thức tại Trường Đại học
Kinh tế quốc dân giai đoạn 2009 – 2012 và đề xuất giải pháp đến năm 2015
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu:
• Dữ liệu sơ cấp: Nghiên cứu thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua xây
dựng bảng hỏi và tiến hành khảo sát.
 Đối tượng điều tra: sinh viên hiện đang theo học tại Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân.
 Đơn vị điều tra: Sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
 Mẫu: 200 sinh viên ở tất cả các khoa, chuyên ngành trong Trường.
+ Số phiếu điều tra phát ra : 200 phiếu
+ Số phiếu điều tra thu về : 175 phiếu
+ Số phiếu không đạt yêu cầu : 10 phiếu
 Nội dung nghiên cứu: Khảo sát ý kiến sinh viên về thực trạng quản
trị tri thức tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
 Khoảng thời gian điều tra: từ 10/1/2013 đến 10/3/2013.
 Phạm vi điều tra: trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
2
• Dữ liệu thứ cấp: Nghiên cứu sử dụng các dữ liệu thứ cấp được thu
thập từ giáo trình, sách tham khảo, một số website về quản trị tri thức.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích, so sánh; sử dụng phần mềm văn phòng (offices) để xử lý dữ
liệu thu thập được.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Quản trị tri thức ngày nay đã trở thành chiến lược phát triển bền vững và
lâu dài của bất kỳ một tổ chức hay doanh nghiệp nào. Chính vì vậy, các công
trình nghiên cứu về đề tài này cũng khá nhiều. Có thể kể đến như:
- “Quản trị tri thức trong các thư viện trường Đại học, hỗ trợ cho quá
trình phát triển giáo dục ở Việt Nam” – Tác giả Ths. Hoàng Thị Thu Hương,
Trường Đại học FPT (Nguồn trích: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 4,

T7/2012, tr33-34). Bài viết đã nêu được vai trò của tri thức và quản tri tri
thức, đặc biệt là quản trị tri thức trong địa điểm cụ thể đó là thư viện các
trường Đại học.
- “Quản trị tri thức ở Việt Nam” – Tâm Việt Group. Đây là dự án đầu
tiên của Tâm Việt Group về nghiên cứu và triển khai quản trị tri thức ở các
Công ty Việt Nam vào tháng 12/2007. Dự án khẳng định một cách khách
quan và rõ ràng nhất về vai trò của quản trị tri thức tại một tổ chức trong nền
kinh tế thị trường.
- “Thiết kế dự án hiệu quả: Sử dụng kiến thức” – Đây là bài viết tổng
quan về quản trị tri thức của tập đoàn Intel, là tổng hợp của tất cả các kiến
thức liên quan tới quan trị tri thức trong các tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp,
từ việc tiếp cận nguồn thông tin, tận dụng nó, vào giải quyết các vấn đề.
Các công trình nghiên cứu về quản trị tri thức có thể thấy được là số
lượng khá nhiều, tuy nhiên đa số lại tập trung vào phạm vi các doanh nghiệp.
Hiện nay chưa có một công trình nào tập trung nghiên cứu cụ thể về áp dụng
quản trị tri thức trong các trường Đại học. Chính vì vậy, công trình nghiên
cứu khoa học “Đẩy mạnh quản trị tri thức trong các trường Đại học – Nghiên
cứu tình huống tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân” của nhóm hy vọng sẽ
3
đóng góp được phần nào vào quá trình hoàn thiện việc nghiên cứu Quản trị tri
thức tại Việt Nam.
6. Kết cấu của công trình nghiên cứu khoa học
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, mục lục, danh mục từ viết tắt,
danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của
nghiên cứu khoa học gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về tri thức và quản trị tri thức
Chương 2: Thực trạng các hoạt động Quản trị tri thức tại trường Đại học
Kinh tế Quốc dân
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nâng cao hiệu quả quản trị tri
thức tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân

7. Một số hạn chế trong quá trình nghiên cứu
Trong quá trình xây dựng và hoàn thành công trình, nhóm nhận thấy
không ít hạn chế đến từ cả chủ quan và khách quan:
– Khách quan:
• Các số liệu về quản trị tri thức, cụ thể là thông tin về nghiên cứu
khoa học không đầy đủ và không được tổng hợp trọn vẹn qua các năm.
• Quá trình điều tra bảng hỏi đôi lúc không nhận được sự hỗ trợ, quan
tâm của đối tượng điều tra.
– Chủ quan: Nhóm chỉ có 2 thành viên, vì vậy việc thu thập và tổng hợp
số liệu và kết quả điều tra gặp nhiều khó khăn.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC VÀ QUẢN
TRỊ TRI THỨC
1.1. Tri thức và tầm quan trọng của tri thức
1.1.1. Khái niệm tri thức
Từ vài thập niên gần đây, với những tác động mạnh mẽ của các tiến bộ
khoa học và công nghệ, đặc biệt của công nghệ thông tin và truyền thông, thế
giới đang biến chuyển tới một nền kinh tế và xã hội mới mà thông tin và tri
thức được xem là nguồn lực chủ yếu. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay,
điều đó cũng tác động mạnh mẽ đến các nước đang phát triển, như ta thường
nói, nó mang đến cho ta cả những cơ hội, cả những thách thức. Ngày nay, tri
thức được coi vừa là nguồn lực con người vừa là nguồn động lực kinh tế chủ
yếu. Vậy tri thức là gì?
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về tri thức.
Đối với hầu hết các triết gia như Plato, Aristotle, Descartes, Dewey, và
Polanyi, tri thức được định nghĩa là "justified true belief" (có nghĩa là: “lòng
tin có lý do chính đáng về sự thật”) theo đó Plato vạch ra chuẩn mực của tri
thức là niềm tin, đúng đắn và hợp lý. Định nghĩa này vẫn còn rất phổ biến
ngày nay. Ví dụ Nonaka (1994) định nghĩa tri thức là “một quá trình năng
động của con người để tìm lý do chính đáng cho những lòng tin cá nhân trong

khát vọng tìm hiểu sự thật”. Còn Protagoras thì cho rằng tri thức chính là
logic, ngữ pháp và hùng biện, với mục đích là làm cho người có tri thức hiểu
được những gì cần nói và làm thế nào để nói ra những điều đó cho mọi người
biết. Francis Bacon cho rằng: “Tri thức là sức mạnh, mà thiếu nó, con người
không thể chiếm lĩnh được của cải của tự nhiên”. Các quan niệm trên đây mặc
dù vẫn còn chung chung và hạn chế mang tính lịch sử, song đã xác lập nên
những nền tảng quan trọng và mở ra xu hướng tiếp cận đa chiều về tri thức.
Một số tác giả có đưa ra vài định nghĩa khác, bao gồm “ Tri thức là thông
tin, công nghệ, bí quyết, và kỹ năng” (Grant & Baden-Fuller, 1995) ; “Tri
thức là những cảm nhận, hiểu biết và bí quyết thực tế mà chúng ta có-là
nguồn lực cơ bản cho phép chúng ta hành động một cách thông minh.” (theo
5
Wiig, 1996); “Tri thức là thông tin có giá trị trong hành động” (Grayson &
Dell, 1998); “Tri thức, bao gồm cả tri thức về phát triển là hàng hóa công
cộng toàn cầu” (J.Stiglitz - nhà kinh tế học nổi tiếng đã từng nhận giải Nobel).
Trong từ điển tiếng Anh Oxford, Tri thức
(Knowledge) được giải thích là : "Tri thức là những gì mà bạn đã học. Tri
thức tổng quát (General Knowledge) là hiểu biết về nhiều thứ khác nhau".
Gần đây, Davenport và Prusak (1998) đưa ra một định nghĩa khá toàn
diện về tri thức như sau: “Tri thức là một tập hợp bao gồm kinh nghiệm, giá
trị, thông tin, và sự hiểu biết thông thái mà có thể giúp đánh giá và thu nạp
thêm những kinh nghiệm và thông tin mới. Tri thức được tạo ra và ứng dụng
trong đầu óc của những người có nó. Trong một tổ chức, tri thức không chỉ
được hàm chứa trong các văn bản và tài liệu, mà còn nằm trong thủ tục, quy
trình, thông lệ, và nguyên tắc của tổ chức đó”
Tuyên bố chung tại Hội nghị toàn cầu về khoa học cho thế kỷ XXI
(Budapest, 1999) khẳng định: Tri thức là tài sản chung của nhân loại, việc bảo
hộ quyền sỏ hữu trí tuệ phải đi đôi với mở rộng quyền truy cập thông tin của
mọi người. Điều này cũng được Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của
Liên hợp quốc (UNESCO) nhiều lần cảnh báo và nhắc nhở phải đảm bảo hài

hòa giữa một đằng là quyền sở hữu trí tuệ và một đằng khác là quyền được
chia sẻ thông tin.
Nói tóm lại, tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về tri thức nhưng nhìn
chung có thể tổng kết lại như sau: Tri thức là kiến thức mà con người hiểu và
biết. Những gì mà con người cảm nhận qua thực tế khách quan là những dữ
liệu dạng thô. Qua xử lý, dữ liệu này chuyển thành thông tin. Tuy nhiên,
thông tin vẫn tồn tại độc lập với tư duy của con người. Phải sau khi con người
tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, nắm bắt và nghiên cứu thì thông tin mới
trở thành tri thức của riêng mình. Điều đó lý giải vì sao cùng một lượng thông
tin những mỗi cá nhân lại có những tri thức khác nhau. Dựa vào tri thức, vận
dụng tri thức mà tính sáng tạo mới nảy sinh mang lại những kết quả cụ thể
phục vụ cuộc sống con người.
6
1.1.2. Phân loại tri thức
Có khá nhiều cách phân loại tri thức, tuy nhiên có những cách phân loại
phổ biến sau:
Theo Polanyi và Saint-Onge, có hai loại tri thức:
• Tri thức hiện: có thể hiểu là phần “tri thức cứng”, được hiện hữu thông
qua các con số, văn bản được chia sẻ một cách chính thống và hệ thống hóa
theo định dạng dữ liệu, các chỉ số kỹ thuật, hướng dẫn…v.v. Tri thức hiện là
một phần của đời sống hàng ngày, được hiện hữu thông qua các trang sách,
hướng dẫn, kỷ yếu, bài báo…v.v, do đó loại tri thức này có thể dễ dàng nắm
bắt và chia sẻ thông qua các khóa học hoặc tự đọc tài liệu.
• Tri thức ẩn: hay còn được gọi là “tri thức mềm” như hệ tư tưởng, quan
điểm và cảm nhận, tri thức ẩn rất khó diễn đạt và chính thức hóa, do vậy nó
cũng khó chia sẻ. Tri thức ẩn cũng bao gồm các kỹ năng và “bí kíp” (know-
how) trong mỗi cá nhân và khó có thể chia sẻ một cách dễ dàng. Loại tri thức
này thường được cóp nhặt sau một vài năm. Tri thức ẩn cũng là một kiểu nắm
giữ được. Nó bao gồm một số như lược đồ, mô hình tư duy, niềm tin và nhận
nhận thức trong bộ não con người, khó chia sẻ nhưng có thể nắm bắt nếu

được đưa ra (Nonaka et al).
Theo Machlup, có 5 loại tri thức:
• Tri thức thực tế, nó hữu ích cho công việc của cá nhân, cho việc ra
quyết định và hành động.
• Tri thức trí tuệ, đáp ứng những tìm tòi trí tuệ
• Bài phát biểu và những kinh nghiệm đã qua, đáp ứng những tìm hiểu
không phải trí tuệ hoặc những mong muốn để giải trí
• Trí tuệ tâm linh, liên quan đến tôn giáo, những kinh nghiệm huyền bí
• Tri thức không mong muốn, là những tri thức ngoài sự quan tâm của
cá nhân và thường được thu nhận một cách ngẫu nhiên
Có một quan điểm khác của Smith, gợi ý 3 loại tri thức:
7
• Tri thức công là loại tri thức hiện, có thể được dạy và chia sẻ hàng ngày
• Kinh nghiệm chia sẻ là những kinh nghiệm được chia sẻ giữa những
người chuyên gia trong công việc của họ
• Tri thức cá nhân, là loại tri thức ẩn trong não của con người.
Qua phân tích, chúng ta thấy rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau về
các loại tri thức, do đó cách quản trị những loại tri thức này là một bài toán
phức tạp cho mỗi một mô hình giáo dục, hay kinh doanh khác nhau.
1.1.3. Vai trò của tri thức
Chúng ta đều biết rằng tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo
nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại.
Mặc dù những câu hỏi có tính triết học về bản chất của tri thức, về quá trình
hình thành tri thức, về quan hệ giữa vật chất và trí tuệ vẫn không ngừng
được tranh luận và chưa có được câu trả lời thoả đáng, nhưng trong mọi lĩnh
vực hoạt động khoa học, kinh tế, văn hoá, tri thức vẫn luôn được tìm kiếm,
phát hiện, và tác động ngày càng lớn đến sự phát triển xã hội loài người. Tri
thức thể hiện ở các ý tưởng, sáng chế, phát minh quy trình,…trong sản xuất
và đời sống. Trên phương diện hành vi có thể quan sát được thì tri thức là khả
năng của một cá nhân hay một nhóm người trong việc hướng dẫn, thuyết phục

những người khác thực hiện một quy trình tạo ra sự chuyển hoá. Trên phương
diện kinh tế, tri thức là tư liệu sản xuất. Nó được sinh ra, trao đổi và sử dụng
sản xuất để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Càng ngày vai trò của tri thức lại trở
nên quan trọng, cụ thể là:
• Đối với nền kinh tế tri thức: tri thức thực sự trở thành nguồn động lực
cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế. Nước Mỹ nhiều năm qua tăng trưởng
ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên
tri thức như: công nghệ thông tin, viễn thông, đầu tư, ngân hàng tài chính,
chứng khoán bảo hiểm, vũ trụ. Chúng ta đều biết vào những năm 50 của thế
kỷ trước, thu nhập bình quân/đầu người của Hàn Quốc và Ghana là tương
đương, nhưng đến những năm 90, Hàn Quốc đã phát triển vượt gấp 6 lần, hay
như Nhật Bản, họ đã có sự vượt lên kỳ diệu từ hoang tàn đổ nát sau Đại chiến
8
thế giới thứ hai. Cả hai đều có chung một nguyên nhân đó là do họ đã chú
trọng đầu tư nâng cao dân trí, nâng cao năng suất và chất lượng lao động bằng
tri thức, sử dụng tri thức, chất xám vào từng công việc, hoạt động. Không chỉ
vậy, tri thức còn đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách giữa các
nước phát triển và đang phát triển. Các quốc gia kém và đang phát triển phải
nhanh chóng tiếp cận với nền kinh tế tri thức, thông qua tri thức hóa các
ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đặc biệt sớm hính thành các ngành
công nghệ cao để nhanh chóng bắt kịp với các nước phát triển.
• Đối với xã hội, con người: Tri thức đem lại cho con người sự hiểu
biết, khả năng tư duy và lý luận nhanh nhạy, khả năng phân tích tiếp cận vấn
đề một cách sát thực, đúng đắn. Cùng với đó, tri thức giúp con người có được
khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, qua đó mà ý thức của con người
được nâng cao, có cơ sở và đủ khả năng để đưa ra những quyết định đúng
đắn, hiệu quả; thúc đây sự phát triển toàn diện của con người, nhân loại. Do
đó nền văn hóa ngày càng lành mạnh, đảm bảo sự vững mạnh của đất nước.
Drucker đã mô tả kiến thức (chứ không phải là vốn hay lao động) là nguồn
lực kinh tế chỉ có ý nghĩa quan trọng trong xã hội tri thức, và Senge đã cảnh

báo rằng nhiều tổ chức không thể hoạt động như các tổ chức dựa trên kiến
thức, bởi vì họ không thể học tập. Các tổ chức phải đổi mới hoặc chết, và khả
năng học hỏi, thích nghi và thay đổi trở thành một năng lực cốt lõi cho sự
sống còn. Các lực lượng của công cuộc toàn cầu hóa, trong đó có công nghệ
và tri thức của các nền kinh tế mới nổi đang tạo ra một cuộc cách mạng buộc
các tổ chức phải tìm kiếm những cách thức mới để tái tạo lại.
• Đối với các tổ chức kinh doanh, giáo dục: Tri thức là nguồn tạo ra lợi
thế cạnh tranh, là động lực của sự phát triển. Trong thời đại kinh tế tri thức
hiện nay, tổ chức, doanh nghiệp nào xây dựng được một nguồn lực tri thức có
giá trị, thì cơ hội thành công sẽ cao hơn rất nhiều đều tạo ra lợi thế cạnh tranh
bền vững. Tri thức là công cụ giúp tạo ra một môi trường làm việc chuyên
môn hơn, liên kết mọi người trong tổ chức với nhau bằng sự am hiểu và thông
thái, hiệu quả chất lượng thực hiện công việc cao hơn. Đặc biệt đối với các tổ
chức giáo dục như trường học thì tri thức đóng vai trò khai sáng, làm tăng sự
9
hiểu biết cho các học viên, là cầu nối cho các thế hệ đi trước và tiếp cận với
tinh hoa, tiến bộ của nhân loại, song song với sự tiếp nối là hoàn thiện, phát
triển những nguồn tri thức đó, và đây cũng là sứ mệnh cao cả của các tổ chức
giáo dục hiện nay. Đối với các trường đại học, hiện nay và trong tương lai gần
một yếu tố quan trọng nữa cũng cần phải được chú ý đến Quốc tế hóa. Nghĩa
là tri thức không tồn tại giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà phải hướng đến
một không gian toàn cầu, phi biên giới. Điều này là hiện thực gần khi hợp tác,
chuyên môn hóa và giao lưu kinh tế – xã hội đang diễn ra trên phạm vi toàn
cầu và ngày càng mãnh liệt. Nhu cầu phát triển đòi hỏi lực đẩy lớn từ hệ
thống giáo dục, tri thức. do đó vai trò của tri thức ngày càng quan trong hơn,
là công cụ để các giảng viên, sinh viên hoàn thiện mình, cống hiến cho xã hội
và giúp đất nước vươn tâm ra quốc tế, khẳng định vị thế trên hệ thống giáo
dục thế giới, văn hóa, bản săc truyền thống, sự văn minh của dân tộc.
1.1.4. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với việc sử dụng khai thác tri thức
Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hòa nhập với xu hướng

phát triển chung của thế giới, nước ta đã có những chuyển biến đáng kể trong
việc phát triển nâng cao tri thức cho đất nước. Cụ thể là nền giáo dục trở
thành trọng tâm phát triển của đát nước, việc tiếp cận tri thức nhân loại đã
thuận lợi hơn rất nhiều nhờ có sự phổ biến của internet, sự giao lưu hợp tác,
trao đổi kinh nghiệm kiến thức giữa các nước, có nhiều cơ hội điều kiện vật
chất để học tập, bồi dưỡng kiến thức Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam mặc
dù đã có nhiều ưu tiên cho phát triển giáo dục nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn
chế trong việc chính sách, cơ cấu đào tạo và sử dụng nhân lực, trí thức dẫn
đến những ảnh hưởng không tốt cho sự phát triển của tri thức trong đó đau
đầu nhất vẫn là nạn “chảy máu chất xám”. Đó là, đội ngũ trí thức Việt Nam
có nhược điểm là thiếu sự “nhìn xa thấy rộng”, chỉ nghĩ về những lợi ích kinh
tế trước mắt mà chưa nghĩ đến tương lai lâu dài; điều kiện làm việc còn thiếu
thốn, đời sống còn khó khăn nên chưa toàn tâm, toàn ý cho công việc nghiên
cứu. Vấn đề phối hợp, hợp tác trong đội ngũ trí thức còn yếu, chưa phát huy
và tạo được sức mạnh tổng hợp trong nghiên cứu. Một vấn đề quan trọng nữa
là sự đầu tư cho kinh tế tri thức hiện nay còn chưa đúng mức, đặc biệt là vấn
10
đề đãi ngộ và tạo môi trường làm việc cho các trí thức. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ đến tinh thần làm việc và điều kiện cống hiến của đội ngũ
trí thức. Với sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức, nạn chảy máu chất xám đã
làm cho các nước nghèo còn nghèo hơn. Trên thế giới khoảng 20% dân số
giàu ở các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong khi 20% dân số nghèo
nhất chỉ chiếm khoảng 1% GDP. Sự giãn rộng của khoảng cách giàu nghèo
đang là thách thức to lớn đặt ra với các nhà quản lý kinh tế xã hội. Thực tế
hiện nay ở các doanh nghiệp Việt Nam, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là rất
thấp. Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm
2012 mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy mô hoạt
động, Việt Nam vẫn thiếu trầm trọng nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao
động qua đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con số rất thấp so với
các nước trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp chế biến và gia công, với
ít hàm lượng tri thức. Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh
tương quan với các quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam
chỉ dành khoảng 0,3% GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó
con số này ở Malaysia là 1%, Singapore là 3%. Hệ quả là vị trí của Việt Nam
trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức
của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt Nam
hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi đó chỉ số KEI
của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07;
Thái Lan là 5,52.
Từ đây, vấn đề cơ bản đặt ra cho các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam là:
- Thứ nhất, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ
và tri thức. Giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được giáo dục
và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
- Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực.
Coi nghiên cứu khoa học là nền tảng, đóng vai trò quan trọng trong các quá
trình hình thành, phát triển nền tri thức quốc gia. Cần thiết một hệ thống cách
tân: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố
11
vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được
kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng
cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
- Thứ ba, nâng cao hạ tầng cơ sở thông tin: Một hạ tầng cơ sở thông
tin động, từ radio đến Internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ
biến, và xử lý thông tin.
- Thứ tư, Tạo ra được một môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận
lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức. Một thách thức là làm sao để nâng cao
được dân trí toàn xã hội. Khi dân trí được nâng cao, người dân sẽ có thêm
động lực và khả năng tìm kiếm dòng chảy tri thức, hoạt động sáng tạo cũng
như tăng xu hướng làm chủ tri thức nhân loại.

- Thứ năm, cần nhận định đúng đắn, phát triển và phổ hoạt động quản
trị tri thức vào trong từng tổ chức. Đảm bảo tri thức được sáng tạo, nâng cao ở
mọi nơi, mọi lúc.
1.2. Quản trị tri thức
1.2.1. Khái niệm quản trị tri thức
Quản trị tri thức là một khái niệm mới đang có nhiều tranh luận. Tuy
nhiên dù tranh luận thế nào thì bản chất quản trị tri thức vẫn là một. Sự khác
biệt đến từ cách tiếp cận và nhìn nhận vấn đề. Hiện nay chưa có một định
nghĩa hay cách tiếp cận thống nhất về quản trị tri thức, nhưng chúng ta có thể
khái quát hóa toàn bộ nội dung của quản trị tri thức, tiêu biểu là các định
nghĩa sau:
• Hiệp hội quản lý tri thức Nhật Bản (JKMA) định nghĩa: “ Quản trị tri
thức là việc kiểm soát và cấu trúc một cách có hệ thống và hiệu quả một cơ
chế cho phép sử dụng đúng người vào đúng công việc và đúng thời điểm, chia
sẻ và sử dụng thông tin một cách thông suốt, hướng tới việc đạt được mục
tiêu của tổ chức. Một cách có hệ thống ở đây có nghĩa là từng bước chọn lọc,
tìm hiểu, phân tích, chia sẻ và sử dụng thông tin để tạo ra giá trị”.
12
• Lotus (một trong những công ty của IBM) định nghĩa: “ Quản trị tri
thức là một động lực thúc đẩy việc sử dụng thông tin và kỹ năng nghề nghiệp
một cách có hệ thống nhằm nâng cao tính hiệu quả, năng lực, sự sáng tạo, đổi
mới và khả năng phản hồi nhanh chóng của tổ chức”.
• Trong cuốn sách “People - Focused Knowledge Management”, Karl
định nghĩa: “ Quản trị tri thức là quá trình sáng tạo, phát triển và ứng dụng trị
thức một cách có hệ thống và minh bạch nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động
liên quan đến tri thức và giá trị doanh nghiệp liên quan đến tri thức và tài sản
trí tuệ sẵn có”.
• Theo định nghĩa của Trung tâm năng suất và chất lượng Hoa Kỳ,
quản trị tri thức là quá trình có hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận và
chuyển tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng

tạo và hoàn thiện.
Tóm lại, quản trị tri thức là quá trình kiến tạo, chia sẻ, khai thác, sử dụng
và phát triển nguồn tài sản tri thức trong tổ chức một cách có hệ thống và biến
những tài sản vô hình đó thành những giá trị kinh tế hay vật chất của tổ chức.
Đó là một quá trình, một công cụ quản lý hiệu quả nhằm chia sẻ, thu nhận,
lưu giữ, lựa chọn, sáng tạo tri thức và cung cấp cho đúng người, đúng nơi,
đúng lúc nhằm nâng cao hiệu quả quyết định, hiệu quả thực thi và khả năng
thích ứng của tổ chức.
Nội dung cơ bản trong quản lý tri thức mà các chuyên gia đã thống nhất
và đúc rút trong quá trình nghiên cứu qua thực tế triển khai:
Thứ nhất: Quản lý tri thức là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ
bản kiến tạo, khai thác, sử dụng, chia sẻ và phát triển nguồn tài sản tri thức
trong tổ chức nhằm tạo ra giá trị. Như vậy quản lý tri thức là một quá trình
liên tục vì bản thân tri thức cũng luôn thay đổi. Tri thức không ngẫu nhiên mà
có, nó là quá trình nỗ lực học hỏi không ngừng của từng cá nhân và tổ chức
để tìm kiếm các ý tưởng sáng tạo.
Thứ hai: Quản lý tri thức cần phải quan tâm đến cả hai loại tri thức: tri
thức hiện và tri thức ẩn. Ta có thể ví tri thức ẩn trong mỗi con người và tổ
13
chức giống như tảng băng trôi 3 nổi 7 chìm, nếu tri thức hiện là phần nổi thì
tri thức ẩn là phần chìm. Việc khai thác tri thức ẩn và biến nó dẫn thành tri
thức hiện phụ thuộc rất nhiều vào môi trường và văn hoá của từng tổ chức.
Cần tạo môi trường tin cậy, cởi mở, khuyến khích đổi mới, sáng tạo và chấp
nhận rủi ro, thất bại để cho phép khai thác tối đa tri thức ẩn trong mỗi con
người của tổ chức.
Thứ 3: Quản lý tri thức cần tiếp cận một cách có hệ thống và mang tính
chiến lược gắn kết chặ chẽ với chiến lược và mục tiêu hoạt động.
1.2.2. Tại sao phải quản trị tri thức?
Như đã nói ở trên, trong một tổ chức nói riêng và xã hội nói chung, mỗi
cá nhân sẽ tự mình hấp thụ thông tin và có những tri thức riêng, không ai

giống ai. Tri thức trong đầu của một người chỉ có người đó mới sử dụng được,
không ai ở bên ngoài có thể vận dụng tri thức đó. Nếu một tổ chức không biết
tận dụng và lưu giữ những lượng tri thức của các cá nhân thì tổ chức đó sẽ có
nguy cơ bị tổn thất tri thức hoặc “trao tặng” tri thức của mình cho những tổ
chức khác.
Cần phải quản trị tri thức vì:
• Bởi vì tri thức rất quan trọng. Khi tài nguyên thiên nhiên đã cạn kiện,
giá công nhân không còn rẻ mạt thì những lợi thế thương mại khác phải được
đánh giá đúng tầm của nó để mang lại những giá trị mong đợi của tổ chức. Tỷ
lệ giữa tài sản hữu hình và vô hình trong kỷ nguyên công nghiệp là 75 - 25 thì
nay đã trỏ thành 25 - 75 trong kỷ nguyên tri thức.
• Quá tải thông tin. Thông tin có thể được coi như một loại “hàng hoá”
đặc biệt có thể được mua, bán, trao đổi, tích lũy và lưu trữ. Tuy nhiên, đôi khi
sự quá tải thông tin lại xảy ra. Vì vậy, chính chất lượng thông tin mới quan
trọng chứ không phải số lượng.
• Quá tải thông tin nhưng không có tri thức. Quá tải thông tin nhưng
không tri thức thường đi đôi với nhau. Người hiểu biết vấn đề thường đưa ra
những thông tin ngắn, gọn, súc tích; ngược lại người không nắm rõ hoặc
không hiểu vấn đề thường trình bày một cách dài dòng, ý tứ thường là vay
14
mượn, thông tin thường quá tải nhưng không hình thành được tri thức nào cho
người dùng tin.
• Nhiễu thông tin. Hiện tượng nhiễu thông tin còn tác hại hơn quá tải
thông tin nhưng không có tri thức vì thông tin được đưa ra là sai lạc do vô
tình hay cố ý. Một khi thông tin bị nhiễu được phổ biến một cách rộng rãi sẽ
mang lại một quán tính sai lầm. Thực tế rất nhiều tổ chức đã nhận thấy vai trò
quan trọng của nguồn chất xám trong sự tồn tại và phát triển của mình, nhưng
hẳn không dễ tìm câu trả lời cho câu hỏi: làm thế nào phát huy, sử dụng và
gìn giữ những tri thức quý giá đó.
• Nhu cầu học hỏi trong một tổ chức luôn tồn tại nhưng thời lượng cho

việc bồi bổ kiến thức và kinh nghiệm lại bị hao hụt đi rất nhiều do các tác
nghiệp hàng ngày. Vì vậy, các tổ chức cần kiến tạo và sử dụng tri thức một
cách thông minh nhất để không bị tụt hậu. Các tổ chức thành công đa số là
nhưng công ty nắm bắt nhanh, kịp thời và xử lý chính xác các nguồn thông
tin. Việc biến các thông tin đó trở thành tri thức của tổ chức chính là lợi thế
cạnh tranh mà không phải nhà quản lý nào cũng làm được.
• Cơ chế thị trường tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Nhu cầu thay đổi nơi làm việc của người lao động có trình độ và kỹ năng cao
tăng lên là nguy cơ suy giảm nguồn tri thức của tổ chức.
1.2.3. Vai trò của quản trị tri thức đối với các trường đại học
1.2.3.1.Vai trò của các trường đại học hiện nay
Sự phát triển vũ bão của khoa học công nghệ trong thế kỷ mới cũng như
sự hình thành nền kinh tế tri thức đã làm thay đổi một cách đáng kể vai trò và
sứ mạng của trường đại học. Trường đại học nay không còn chỉ là tháp ngà
của triết học, mà đóng vai trò động lực chủ yếu của nghiên cứu khoa học cơ
bản cũng như nghiên cứu ứng dụng, nói cách khác ngoài chức năng văn hóa,
còn là những trung tâm sáng tạo tri thức và chuyển giao công nghệ. Thêm vào
đó, nền sản xuất dựa trên công nghệ cao đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng
chuyên nghiệp biến nhà trường trở thành nơi đào tạo nguồn nhân lực trình độ
15
cao cho xã hội. Do đó, các trường đại học đóng một vai trò rất quan trọng
trong một nền kinh tế tri thức.
• Trường đại học là nơi kiến tạo tri thức mới. Các trường đại học đóng
góp vào sáng tạo tri thức mới qua 3 hoạt động chính: nghiên cứu tri thức
mới, đào tạo nhân tài, và dung hòa những khác biệt văn hóa. Vai trò nghiên
cứu của đại học càng ngày càng được xem là quan trọng. Một đại học thiếu
nghiên cứu thì khó có thể đủ tư cách là một đại học thực thụ. Ngoài nghiên
cứu, đại học còn đóng vai trò giảng dạy và đào tạo nhân tài. Để đào tạo, đại
học phải thu hút sinh viên, nghiên cứu sinh, và giảng viên. Đại học cũng là
một trung tâm học thuật quốc tế và cũng có thể nói đại học là một trung tâm

sáng tạo và văn hóa.
• Trường đại học là nơi lưu giữ và truyền tải di sản của nhiều thiên
niên kỷ. Cùng với việc tìm kiếm và trau dồi tri thức mới, là không ngừng,
thường xuyên xem xét lại ý nghĩa của những kiến thức và tri thức đã có dưới
sức ép của những nhu cầu mới và khám phá mới. Trường đại học, với tư cách
là một trung tâm sáng tạo tri thức và bảo tồn văn hóa, không chỉ đào tạo
nguồn nhân lực và tạo ra tri thức mới đáp ứng cho những nhu cầu trước mắt
của nền kinh tế, mà còn giữ gìn và lí giải những giá trị văn hóa truyền thống.
• Trường đại học có vai trò đào tạo con người, cung cấp cho xã hội
những con người được đào tạo trong các lĩnh vực nông nghiệp, nghệ thuật, y
dược, khoa học và công nghệ cũng như những ngành nghề khác; những người
này sẽ là những cá nhân đầy đủ năng lực và có ý thức trách nhiệm.Học tập tại
các trường đại học là cơ hội để người học được tham gia vào quá trình phát
triển bản thân bằng các thể thức học tập thường xuyên và linh hoạt. Nuôi
dưỡng và khích lệ, khai sáng khả năng, trí tuệ ở cả giảng viên và sinh viên,
những thái độ và giá trị cần thiết cho sự phát triển bền vững, tốt đẹp của cá
nhân và xã hội, và từ đó nhân rộng những thái độ và giá trị này ra cho cả cộng
đồng.
1.2.3.2.Vai trò của quản trị tri thức đối với các trường đại học
16
• Quản trị tri thức là phương thức tạo nên một tổ chức với những cá
nhân năng động, một cấu trúc hệ thống học hỏi không ngừng với khả năng
thích ứng cao.
Vượt qua những giới hạn của phương thức quản trị truyền thống, quản trị
tri thức giúp cho mỗi cá nhân trong tổ chức không ngừng học hỏi, biến những
con người lười nhác thành những con người sáng tạo tri thức liên tục. Dựa
trên nền tảng tiêu chí chia sẻ và đánh giá tri thức đóng góp, quản trị tri thức
tạo ra động lực tạo lập văn hoá chia sẻ giữa các thành viên, thúc đẩy yếu tố tự
học và tổ chức học tập suốt đời. Trong môi trường văn hóa tri thức đó, khả
năng của các thành viên được gia tăng hàng ngày, chất lượng tri thức không

ngừng được hoàn thiện. Hệ quả của quá trình này là một tập thể của những
thành viên năng động, làm việc thông qua chia sẻ tri thức, có khả năng thích
ứng cao trong điều kiện hội nhập, hợp tác với các trường đại học chất lượng
cao trên thế giới. Như chúng ta đã biết môi trường đại học là môi trường giáo
dục, nghiên cứu, do đó việc thực hiện quản trị tri thức trong nhà trường sẽ tạo
ra môi trường thuận lợi cho giảng viên, sinh viên tìm tòi khám phá khoa học,
nâng cao hoàn thiện kiến thức co bản thân và đóng góp cho xã hội.
• Quản trị tri thức là phương thức tối ưu để ngăn chặn “nạn chảy máu
chất xám”
Với mỗi tổ chức, nhân tài là nguồn tài sản vô giá nhưng cũng đồng thời
là một nguồn tài sản đầy biến động, đối với các trường đại học điều này lại
càng quan trọng. Mỗi một giảng viên là một kho tri thức, kinh nghiệm sống
mà nếu như họ ra đi không những gây ra sự xáo trộn mà nguy hiểm hơn tạo ra
những khoảng trống không dễ lấp đầy, tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt
động của nhà trường. Họ ra đi mang theo những kinh nghiệm, những bí quyết,
những mối quan hệ. Nhưng khi áp dụng quản trị tri thức, những tài sản bấy
lâu nay nằm trong đầu nhân tài dưới dạng tiềm ẩn sẽ được chuyển sang tri
thức hiện hữu qua phương thức chia sẻ và được cấu trúc lại để mọi người có
thể học tập. Kết quả của quá trình này là tạo ra một “Kho tri thức hiện hữu”
dùng chung cho tất cả thành viên, những cá nhân có khả năng thay thế cho
nhau. Không còn đặc quyền về tri thức, không ngừng được làm giàu cho tri
17
thức cá nhân là phương thức tối ưu để làm tăng sự gắn bó của cán bộ giảng
viên, thu hút sinh viên, học viên tham gia nghiên cứu, truyền thụ kiến thức
trong và sau khi học tập tại trường.
• Quản trị tri thức góp phần nâng cao khả năng ra quyết định
Trong thời đại ngày nay, thông tin không còn là tài sản độc quyền mà
khả năng sử dụng và biến thông tin thành tri thức, thành sản phẩm mới là yếu
tố tạo nên sự thành công của doanh nghiệp. Cơ hội chỉ là một khoảng khắc.
Bất kì một tổ chức nào cũng cần phải ra những quyết định, đối với các trường

đại học cũng vậy, đó có thể là các vấn đề về chính sách đào tạo, chương trình
đào tạo, tuyển sinh, quản lý sinh viên, xây dựng cơ sở vật chất, hợp tác quốc
tế, Tổ chức nào ra quyết định nhanh nhất và chính xác nhất sẽ là người chiến
thắng. Tuy nhiên trong quá trình ra quyết định, đa phần đều gặp phải vấn đề
thiếu thông tin, thiếu cơ sở và thiếu tri thức để ra quyết định. Nhưng với quản
trị tri thức tất cả những trở ngại đó sẽ được tháo gỡ. Quyết định là quyết định
của tập thể, dựa trên nền tảng tri thức và kinh nghiệm của cả một tổ chức.
Không ai mạnh bằng tất cả tập thể hợp lại là nguyên lý đã được chứng minh
từ lâu.
• Quản trị tri thức là con đường tốt nhất để biến các thành viên trở
thành những người bạn trung thành.
Các trường đại học tồn tại là nhờ đào tạo các thế hệ sinh viên, học viên.
Tiếp cận theo quan điểm thương mại dịch vụ, sinh viên, học viên vừa là thành
viên quan trọng vừa là khách hàng của nhà trường với những yêu cầu nhất
định về chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường. Nhà trường có mục đích
là phục vụ khách hàng, làm thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng. Trong quản trị tri thức, các ý kiến đóng góp của khách hàng về chất
lượng dịch vụ đều được lưu giữ và tôn trọng. Dựa trên nguồn vốn tri thức đó,
nhà trường có cơ sở không ngừng hoàn thiện chất lượng giảng dạy và các yếu
tố đi kèm khác của mình. Nhờ quản trị tri thức, mối quan hệ khách hàng của
mỗi cá nhân trở thành tài sản chung, những ý kiến đó cũng trở thành tài sản tri
thức của tổ chức.
18
1.2.4. Các công cụ của quản trị trị thức
Quản trị tri thức cũng như bất kỳ một công việc nào khác, muốn đạt
được hiệu quả phải có hệ thống các công cụ đi kèm để áp dụng. Công cụ quản
trị tri thức rất đa dạng và phong phú, dưới đây là những công cụ nổi bật và
phổ biến nhất:
Bảng 1.1: Các công cụ của Quản trị tri thức
STT Tên công cụ Khái niệm Cách thức/ công cụ thực hiện

1 Động não Là hình thức mà tại
đó một nhóm bao
gồm các thành viên
cùng suy nghĩ để đưa
ra các ý tưởng
Cách thức thực hiện:
- Lựa chọn những thành viên
vào nhóm
- Đảm bảo mọi người đều
hiểu về vấn đề cần động não
- Phát cho các thành viên các
dụng cụ cần thiết bao gồm các
giấy ghi ý kiến và bút
- Viết vấn đề lên bảng để mọi
người luôn ghi nhớ khi động
não
2 Thu giữ các
ý kiến
Là việc sử dụng các
công cụ để thu giữ
các ý kiến
Các công cụ được sử dụng
dành cho cá nhân bao gồm:
- Tự ghi nhớ
- Giấy notes
- Giấy (A4, kẻ ô li, nháp)
- Các thiết bị điện tử: điện
thoại, ghi âm, máy quét, máy
ảnh, máy tính cá nhân, máy
quay phim,…

19
3 Tổng kết sau
hành động
Là một kỹ thuật được
sử dụng để đánh giá
và lưu giữ các bài học
hoặc kinh nghiệm sau
khi thực hiện một
hoạt động hoặc dự án
nào đó
Những câu hỏi thường được
sử dụng:
- Chúng ta đã có kế hoạch
như thế nào?
- Thực tế đã diễn ra như thế
nào?
- Những việc nào đã xảy ra
đúng như chúng ta mong đợi?
- Những việc nào chúng ta có
thể làm tốt hơn?
- Chúng ta có thể rút ra bài
học kinh nghiệm nào cho
những công việc khác sau
này?
4 Kể chuyện Là hình thức sử dụng
các từ ngữ, hình ảnh,
âm thanh để chuyển
tải tri thức. Đây là
cách chuyển tải kinh
nghiệm và các bí

quyết hiệu quả.
Cách thức thực hiện:
- Xác định phạm vi/ lĩnh vực/
vấn đề tri thức cần chia sẻ
- Tìm người có tri thức về
phạm vi/ lĩnh vực/ vấn đề và
đề xuất việc chia sẻ với các
thành viên khác
- Lên kế hoạch cho việc nói
chuyện
-Thực hiện việc chia sẻ tri
thức qua kể chuyện
20
5 Thiết kế
không gian
làm việc
Việc thiết kế không
gian làm việc hỗ trợ
cho việc trao đổi
thông tin giữa mọi
người tại nơi làm việc
cũng là một cách thức
để tăng cường chia sẻ
tri thức
- Tạo ra một nơi làm việc
sáng tạo không có nghĩa là tạo
ra một môi trường làm việc
chia sẻ tri thức trừ khi các
thành viên của tổ chức hiểu và
sử dụng hiệu quả nơi làm việc

này
- Trong quá trình thiết kế nơi
làm việc, cần lấy ý tưởng của
các thành viên của tổ chức để
việc thiết kế cũng như sử
dụng không gian làm việc
hiệu quả hơn
6 Mạng xã hội Mạng xã hội, hay gọi
là mạng xã hội ảo,
(tiếng Anh: social
network) là dịch vụ
nối kết các thành viên
cùng sở thích trên
Internet lại với nhau
với nhiều mục đích
khác nhau không
phân biệt không gian
và thời gian
Mọi người hoặc các nhóm có
liên quan có thể thoải mái chia
sẻ, cập nhật thông tin, hoặc
bàn luận với nhau mà không
bị trở ngại về các vấn đề như:
thời gian, không gian, khoảng
cách
7 Wikipedia Wikipedia là một bách
khoa toàn thư tự do, là
kết quả của sự cộng
tác của chính những
người đọc từ khắp nơi

trên thế giới
Trang mạng này có tính chất
wiki, có nghĩa là tất cả mọi
người đều có thể sửa đổi ở bất
cứ trang nào ngoại trừ các cá
nhân bị tước quyền sửa đổi và
những trang bị khóa
21

×