Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn: Công tác phát triển kiến thức thông tin cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 106 trang )

u nv nt tn

p Công tác phát triển kiến thức thông tin cho sinh viên
Trường Đại học Sư p ạm Hà Nội

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu hướng tồn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức hiện
nay, giáo dục đại học có vai trị chủ đạo trong tồn bộ hệ thống giáo dục
của mỗi quốc gia. Giáo dục đại học được công nhận là một công cụ hiệu
quả cho sự phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển xã hội
trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục đại học của Việt
Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhu cầu xã hội và là thách thức với quá
trình hội nhập quốc tế.
Một trong những hướng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học mà
nhiều nước phát triển trên thế giới rất coi trọng là phát triển kiến thức thông
tin (KTTT) và khả năng tự học suốt đời. GS.TS Phạm Tất Dong cho rằng:
“Học tập suốt đời là nội dung cốt lõi của khái niệm xã hội học tập. Nền giáo
dục trong xã hội học tập, hướng vào việc xây dựng cho con người năng lực
tiếp nhận, xử lý, sử dụng, tạo ra, truyền bá thông tin để hình thành tri thức
mới. Việc đề cao phương thức học tập suốt đời phải đồng thời đề cao năng lực
tự học mà chủ yếu học cách học (Learning how to learn).
Hơn thế nữa, ngày nay, các hoạt động học tập đang diễn ra không chỉ
tại giảng đường đại học mà còn theo sinh viên đến hết cuộc đời. Bởi, họ chính
là những người lao động cần phải nhận biết, đánh giá, phân tích, tiếp cận và
quản lý thơng tin một cách có hiệu quả để thành cơng trong việc giải quyết
các vấn đề, cung cấp các giải pháp, các sáng kiến cải tiến công việc trong
cuộc sống. Xuất phát từ thực tế đó, các trường đại học cần phải có chiến lược
trong đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập cho sinh
1



viên bằng cách trang bị kiến thức thông tin cho sinh viên. Bởi lẽ, việc trang bị
kiến thức thông tin trở nên ngày càng quan trọng, nó giúp cho sinh viên chủ
động tiếp cận các nguồn thông tin, tri thức mới thông qua các khả năng xác
định nhu cầu tin, đánh giá thông tin và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Qua q trình khảo sát tại Trung tâm Thơng tin - Thư viện (TT – TV)
trường Đại học Sư phạm Hà Nội – nơi đã và đang triển khai đào tạo KTTT
cho sinh viên, tác giả nhận thấy hoạt động này của thư viện chưa thực sự có
hiệu quả. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Công tác phát triển kiến thức
thông tin cho s n v ên Trường Đại học Sư p ạm Hà Nội” làm khóa luận tốt
nghiệp của mình. Với hy vọng kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả công tác phát triển KTTT cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
hiện nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và nhu cầu KTTT của sinh viên
 Phạm vi nghiên cứu: Trường Đại học Sư phạm trong giai đoạn hiện nay
3. Mục đích nghiên cứu
 Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về KTTT như: khái niệm KTTT,
các thành tố của KTTT, vai trò của KTTT đối với giáo dục đại học.
 Tìm hiểu thực trạng KTTT, nhu cầu KTTT của sinh viên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội và công tác đào tạo KTTT cho sinh viên của Thư viện trường.
 Kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cơng
tác phát triển KTTT cho sinh viên Nhà trường.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp

2


nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp điều tra bảng hỏi;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp phỏng vấn.
5. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm đầy đủ và phong phú hơn các khái
niệm về KTTT, đồng thời nắm bắt được công tác đào tạo người dùng tin của
thư viện.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận là cơ sở để khẳng
định tầm quan trọng của KTTT, đồng thời sẽ giúp Trung tâm TT – TV ĐHSP
HN và Ban giám hiệu Nhà trường nhận ra thực trạng công tác đào tạo KTTT
cũng như năng lực KTTT của sinh viên. Trên cơ sở đó, Nhà trường và thư
viện đề ra những giải pháp giúp sinh viên có khả năng tốt hơn trong việc nhận
biết nhu cầu thông tin, khai thác và sử dụng thông tin một cách hiệu quả.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung bài khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội với công tác phát triển KTTT cho sinh viên
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển KTTT cho sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao KTTT cho sinh viên
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

3


Chƣơng 1
TRUNG TÂM TT-TV TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI VỚI
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN KTTT CHO SINH VIÊN


1.1. Khái niệm kiến thức thông tin
1.1.1. Địn n

ĩa KTTT (Information Literacy)

Thuật ngữ “Information Literacy” xuất hiện từ khá sớm và đã được
Quốc tế hóa. Nhưng, ở Việt Nam, KTTT được dịch theo nhiều nghĩa khác
nhau và còn khá mới mẻ trong hoạt động thông tin thư viện.TS. Lê Văn Viết,
cho rằng nên dịch KTTT là “kiến thức thông tin” [2]. Nhưng, trong bài tham
luận “Những tiêu chuẩn kiến thức thông tin trong giáo dục đại học Mỹ và các
chương trình đào tạo kỹ năng thông tin cho sinh viên tại Trung tâm thông tinthư viện, ĐHQGHN” của TS. Nguyễn Huy Chương và CN. Nguyễn Thanh
Lý lại không nêu khái niệm kiến thức thơng tin mà chỉ có khái niệm về kỹ
năng thông tin “Kỹ năng thông tin là tập hợp các yêu cầu về khả năng nhận
biết thông tin cần thiết, xác định, đánh giá và sử dụng một cách hiệu quả các
thơng tin cần thiết” [5]. Trong khi đó, ơng Nguyễn Hữu Viêm - một người có
nhiều cơng trình nghiên cứu về thư viện học lại cho rằng thuật ngữ
“Information Literacy” nên dịch là “xóa mù thơng tin” vì Literacy cũng có
một nghĩa là xóa mù [2]. Thực chất, KTTT là một khái niệm mang tính chất
liên ngành (thơng tin thư viện và giáo dục), do đó việc chuẩn hóa nó càng trở
nên phức tạp và khơng nên có một khái niệm chuẩn tuyệt đối cho tồn cầu. Lí
do đơn giản là vì đặc thù văn hóa và triết lý giáo dục của mỗi quốc gia, mỗi tổ
chức ảnh hưởng mạnh mẽ đến nội hàm của khái niệm KTTT mà quốc gia, tổ
chức đó dự định áp dụng. Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cho rằng KTTT được hiểu và dịch
thành kiến thức thông tin mới thỏa đáng và hợp lý hơn.

4



Theo Hiệp hội các thư viện Đại học và thư viện nghiên cứu Mỹ
(ACRL, 1989), kiến thức thông tin là sự hiểu biết và một tập hợp các khả
năng cho phép các cá nhân có thể “nhận biết thời điểm cần thơng tin và có thể
định vị, thẩm định và sử dụng thông tin cần thiết một cách hiệu quả” [13].
Kiến thức thơng tin chính là chìa khóa để mọi người nói chung và các nhà
nghiên cứu nói riêng làm chủ được kho tàng tri thức của nhân loại. Sự bùng
nổ thông tin như hiện nay đã cho ra đời một lượng thông tin khổng lồ hỗn
loạn và vô cùng phức tạp. Làm thế nào để tìm đúng và đủ thơng tin mà mình
cần, đồng thời đánh giá được sự phù hợp, sử dụng chúng một cách hiệu quả?
Khơng khó để trả lời nếu chúng ta có hiểu biết sâu sắc về kiến thức thông tin.
Tại Hội nghị về KTTT và kỹ năng học tập suốt đời ( Information
Literacy and Lifelong learning) diễn ra vào ngày 6 – 9 tháng 11 năm 2005 tại
Alexandria, Ai Cập, KTTT được định nghĩa “ là khả năng tìm kiếm đánh giá,
sử dụng và tái tạo thông tin một cách hiệu quả phục vụ mục đích cá nhân, xã
hội, cơng việc và học tập”. Trong thời đại cơng nghệ số, con người có hiểu
biết, kiến thức về công nghệ, kỹ thuật thôi chưa đủ mà cần phải học cách tìm
kiếm, truy cập, tổ chức, phân tích và đánh giá thơng tin nhằm sử dụng vào
việc ra quyết định và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất [17].
Theo UNESCO, KTTT là sự kết hợp của kiến thức, sự hiểu biết, các kỹ
năng và thái độ mà mỗi thành viên cần hội tụ đầy đủ trong xã hội thơng tin.
Khi mỗi cá nhân có kiến thức thì họ sẽ phát triển khả năng lựa chọn, tiếp biến,
đánh giá, thao tác và trình bày thơng tin. Theo khái niệm này, người sử dụng
thông tin không chỉ cần có trình độ để lựa chọn thơng tin phù hợp mà cịn
phải có thái độ đúng đắn trong việc sử dụng thơng tin. Nói cách khác, người
có KTTT phải sử dụng thơng tin một cách có đạo đức. Hơn ai hết, đối với
người làm công tác nghiên cứu càng phải chứng tỏ được việc sử dụng thông
tin một cách hợp pháp luật, hợp đạo đức của mình. Sẽ khơng q khó khăn
5



nếu chúng ta có hiểu biết về KTTT. Quan trọng hơn cả, kiến thức này cũng
giúp cho các nhà nghiên cứu có một thái độ nghiên cứu nghiêm túc, giúp họ
tránh được những vi phạm liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
nghiên cứu. Và đó cũng chính là cơ sở để chúng ta tính tới vấn đề hội nhập và
hợp tác bình đẳng với bạn bè quốc tế trên mặt trận nghiên cứu khoa học. Với
ý nghĩa này, KTTT có lẽ là mảng kiến thức cần được đặc biệt nhấn mạnh
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi mà vấn đề bản quyền và sở hữu trí tuệ
trở thành vấn đề tồn cầu.
Kiến thức thơng tin chính là vấn đề cấp bách mang tính tồn cầu trong
bối cảnh xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Mỗi quốc gia cần phải có một
chiến lược phát triển kiến thức thông tin phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội
và giáo dục của mình nhằm tạo ra một lực lượng lao động có khả năng thích
ứng và tính sáng tạo cao. Đây cũng chính là khẳng định của tác giả Alan
Bundy (2003) khi ông cho rằng kiến thức thông tin được xem như một hệ
kiến thức nền tảng, và do đó các chính phủ cần phải xây dựng các chính sách
và chiến lược thơng tin phù hợp, lấy kiến thức thông tin là nhân tố cốt lõi. Tác
giả này cũng kêu gọi các nhà giáo, nhà khoa học, và các nhà quản lý giáo dục
ngay bây giờ nên thống nhất coi kiến thức thông tin như là ưu tiên đầu tư cao
nhất về mặt sư phạm và nguồn lực [1]. Riêng đối với Việt Nam, cần phải có
những chính sách cụ thể trong việc phổ biến KTTT cho tất cả mọi người ở
từng vùng kinh tế, đặc điểm xã hội. Từ đó, xây dựng chiến lược phù hợp với
đặc điểm, nhu cầu đặc thù của người sử dụng ở mỗi khu vực xã hội khác
nhau. Đây là công việc cần thiết và cấp bách, đặc biệt khi nước ta đang tiến
hành việc ứng dụng CNTT một cách rộng khắp.
Boekhorst (2003), tìm thấy trong tất cả các định nghĩa và mơ tả về
KTTT được tóm tắt thành ba khái niệm cụ thể:

6



Khái niệm công nghệ thông tin và truyền thông (ICT): KTTT đề cập
đến khả năng sử dụng ICT để tra cứu và phổ biến thông tin.
Khái niệm các nguồn thông tin: KTTT đề cập đến khả năng tìm tin và
sử dụng thông tin một cách độc lập với sự trợ giúp của trung gian.
Khái niệm tiến trình thơng tin: KTTT đề cập đến tiến trình nhận ra
nhu cầu tin, tra cứu, đánh giá, sử dụng và phổ biến thông tin theo yêu cầu
hoặc mở rộng kiến thức [16]. Khái niệm này bao gồm cả khái niệm ICT và
khái niệm các nguồn tin và cá nhân được xem như các hệ thống thơng tin có
khả năng tra cứu, đánh giá, xử lý và phổ biến thông tin để ra các quyết định
nhằm tồn tại [3].
Qua các định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng KTTT không chỉ đơn
thuần là khai thác thông tin trên mạng hay chỉ khai thác thông tin trong các tài
liệu truyền thống. KTTT đòi hỏi những kỹ năng như định hướng nhu cầu
thông tin, sử dụng các công cụ tìm tin hiệu quả và khả năng thẩm định các
nguồn tin. KTTT địi hỏi khả năng khá tồn diện với mục tiêu giúp con người
chủ động hơn trong việc học tập, nghiên cứu; chú trọng tới rèn luyện kỹ năng
tiếp nhận thơng tin có chọn lọc hay tư duy phê phán của người dùng tin. Đồng
thời KTTT cũng là điều kiện đầu tiên để mọi người tham gia có hiệu quả vào
xã hội thông tin và là yếu tố để con người thực hiện quyền học tập suốt đời.
Mục tiêu hướng tới của KTTT là tạo ra khả năng cho các cá nhân nhận ra nhu
cầu thông tin của họ và tìm kiếm thơng tin một cách có hiệu quả; quản lý
thơng tin thu thập được, đánh giá có phê phán thông tin và các nguồn tin; ứng
dụng thông tin trong việc học tập, sáng tạo tri thức mới; nắm bắt được các
khía cạnh kinh tế, pháp luật, chính trị, văn hóa và xã hội trong việc sử dụng
thơng tin hợp pháp.

7


1.1.2. Các thành t của KTTT

Tháng 9 năm 2003, dưới sự tài trợ của UNESCO, Ủy Ban quốc gia về
khoa học thư viện và thông tin và Diễn đàn quốc gia về KTTT (Hoa Kỳ) đã tổ
chức hội thảo bàn về KTTT. Hội thảo này đã ra một tuyên bố, gọi là Tuyên bố
Praha: Tiến tới xã hội KTTT (The Prague Declaration: Towards an
Information Literate Society). Tuyên bố Praha đã đưa ra 6 nguyên tắc cơ bản
của KTTT. Trong đó, nguyên tắc thứ hai đề cập: “KTTT bao gồm kiến thức
về nhu cầu và yêu cầu tin, khả năng xác định, định vị, đánh giá, tổ chức và
sáng tạo, sử dụng có hiệu quả và truyền thơng tin tới các địa chỉ. Đây là điều
kiện đầu tiên để tham gia có hiệu quả vào xã hội thơng tin và là một phần
trong quyền cơ bản của con người được học tập suốt đời”. Căn cứ nội dung
của nguyên tắc nêu trên, có thể khẳng định rằng, tuy KTTT là một thuật ngữ
mới nhưng nội hàm của nó lại rất quen thuộc. Bởi vì, phần lớn nội dung của
khái niệm này trùng hợp với khái niệm trước đó đã sử dụng rộng rãi trong tài
liệu nghiệp vụ thư viện của nước ta và quốc tế. Điều này cũng đã được tác giả
Nguyễn Hồng Sơn nhắc đến trong bài viết của mình: vào cuối thập niên
1980, các nhà thư viện ở các trường học đã chuyển khái niệm kiến thức thư
viện thành KTTT [4]. Tất nhiên, vốn tri thức của khái niệm này càng ngày
càng phong phú hơn do được bổ sung các nội dung mới. Từ nội dung trên,
KTTT có thể chia thành 2 lĩnh vực, đó là: hiểu biết (kiến thức, lý luận) và
thực hành (kỹ năng).
Về hiểu biết: Phải có hiểu biết về:
 Q trình hình thành thơng tin, tri thức; vai trị của thơng tin, tri thức
trong đời sống mỗi người và trong toàn xã hội;
 Thư viện, cơ quan thơng tin, trong đó bao gồm cả những hiểu biết về
mạng lưới thư viện, thông tin của đất nước (vùng, huyện, tỉnh), của thế giới,
đặc biệt là của thư viện, cơ quan thông tin cụ thể nơi bạn đọc đang sử dụng;

8



 Những nhu cầu và yêu cầu tin của mỗi người, mỗi cộng đồng, tập thể;
 Vốn tài liệu-thông tin, các dịch vụ, sản phẩm thư viện-thông tin của
từng thư viện và của cả ngành thư viện-thông tin trong cả nước;
 Bộ máy tra cứu-tìm tin truyền thống và hiện đại;
 Các cơng cụ, chiến lược tìm và các phương pháp tìm tin; tin học,
Internet, web, tuy nhiên chỉ ở mức kiến thức về lưu trữ, tìm và khaithác tin
trên mạng;
 Pháp luật thư viện, luật bản quyền.

Về kỹ năng, bao gồm các kỹ năng sau:
 Kỹ năng công cụ: biết định hướng trong các bộ máy tra cứu- tìm tin của
các thư viện và cơ quan thông tin trong và ngồi nước tìm kiếm thơng tin bằng
phương pháp truyền thống và hiện đại; Các phương pháp làm việc với vật mang
tin khác nhau, kỹ thuật đọc để thu nhận thơng tin từ những gì đã đọc,…
 Kỹ năng về nguồn tin: Xác định , đánh giá đúng nguồn thông tin,
nguồn tài liệu cần thiết cho quá trình tìm kiếm thơng tin.
 Kiến thức về cấu trúc xã hội: Tính chính xác và chân thực của thơng
tin phù hợp với nhu cầu tin của toàn xã hội, của tập thể, nhóm người, của từng
cá nhân
 Các kỹ năng nghiên cứu và đánh giá thông tin thông qua công tác xử
lý, đánh giá, tổng hợp và phân tích tin;
 Kỹ năng truyền đạt, phổ biến thông tin;
 Kỹ năng tạo lập các sản phẩm thông tin, thư viện đặc biệt như cách
lập bản thư mục, giới thiệu sách, biên soạn bài tóm tắt, các bài tổng luận,…
 Kỹ năng về xuất bản, công nghệ…

9


1.2. Vài nét về Trung tâm Thông tin – Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Hà Nội
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển

Hình 1.1 : Trung tâm TT – TV trườn Đại học Sư p ạm Hà Nội

 Quá trình thành lập
Trung tâm TT-TV Trường ĐHSPHN ra đời ngày 11/10/1951, cùng với
sự ra đời của trường ĐHSPHN, đây là đơn vị phục vụ đào tạo trực thuộc Ban
giám hiệu Nhà trường.
Ngày 10/12/1993, theo Nghị định 97/CP của Chính phủ, trường
ĐHSPHN là một trường thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội, thời điểm
này, Thư viện trường là một Phịng phục vụ bạn đọc trong Trung tâm Thơng
tin - Thư viện của Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ngày 12/10/1999, theo Quyết định số 201/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, trường được tách ra khỏi Đại học Quốc Gia Hà Nội và mang tên là
trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Thư viện lúc này được gọi là Trung tâm
Thông tin - Thư viện Trường ĐHSPHN.

10


 Quá trình phát triển
Giai đoạn từ 1951-1965: Thư viện thời kỳ đầu thành lập, cơ sở vật chất
hầu như chưa có gì, đội ngũ cán bộ cịn rất mỏng, tài liệu phục vụ học tập,
giảng dạy chưa nhiều, nhưng bằng lòng yêu nghề, ngay từ những ngày đầu,
thư viện đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ đào tạo nhà trường giao cho.
Thời kỳ này, Thư viện trực thuộc Phòng Đào tạo của Trường.
Giai đoạn 1965-1975: Đây là giai đoạn trường ĐHSPHN có sự chuyển
hướng về cơ cấu tổ chức để phù hợp với tình hình thực tế của cách mạng cả
nước ở thời điểm đó. Chính vì thế, trường đại học Sư phạm được tách ra

thành 3 trường: Đại học Sư phạm Hà Nội I, Đại học Sư phạm Hà Nội II và
Đại học Sư phạm Ngoại ngữ. Giai đoạn này, đế quốc Mỹ tăng cường chiến
tranh đánh phá miền Bắc, cán bộ, giảng viên và sinh viên toàn trường phải đi
sơ tán về nhiều tỉnh khác nhau. Trong hồn cảnh đó, để đáp ứng tốt nhiệm vụ
phục vụ đào tạo, Thư viện cũng chia tài liệu và phân công cán bộ theo các
khoa về nơi sơ tán để cán bộ, giảng viên và sinh viên không thiếu tài liệu học
tập, giảng dạy, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ kính u “Dù khó khăn đến
đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”.
Giai đoạn 1975–1993: Giai đoạn này, trường có tên là trường Đại học
Sư phạm Hà Nội I trên cơ sở sát nhập 2 trường Đại học Sư phạm Hà Nội I và
Đại học Sư phạm Hà Nội II. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Nhà
trường trong giai đoạn này là chi viện cho việc xây dựng trường ĐHSPHN2
mới được thành lập ở Xuân Hoà (1976) và các trường đại học Sư phạm, cao
đẳng Sư phạm ở miền Nam, Lào, Campuchia… Thực hiện nhiệm vụ của Nhà
trường giao cho, Thư viện vừa phải đảm bảo tài liệu phục vụ cho học tập,
giảng dạy, nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường ĐHSPHN
I vừa phải chia sẻ tài liệu cho các trường bạn.
Giai đoạn 1993 – 1999: Thời điểm này, trường Đại học Sư phạm là một
trường thành viên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội. Thư viện của trường sát

11


nhập vào Trung tâm Thông tin Thư viện – Đại học Quốc Gia Hà Nội, vẫn duy
trì tốt nề nếp phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường một
cách hiệu quả.
Giai đoạn 1999 đến nay: Tháng 12/1999 theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, trường ĐHSPHN tách ra khỏi Đại học Quốc Gia Hà Nội,
theo đó Thư viện cũng được tách khỏi Trung tâm Thông tin Thư viện Đại học
Quốc Gia Hà Nội. Đây là giai đoạn Thư viện nhận được sự quan tâm đầu tư

lớn của Nhà trường từ phát triển đội ngũ cán bộ đến cơ sở vật chất, trang thiết
bị…Từ đây Thư viện đã có những chuyển biến mạnh mẽ, từng bước ứng dụng
công nghệ thông tin vào các mặt hoạt động, đáp ứng tốt nhu cầu tài liệu,
thông tin của đông đảo bạn đọc phục vụ hiệu quả yêu cầu đào tạo và nghiên
cứu khoa học của nhà trường trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng trường
Đại học Sư phạm trọng điểm.
Gắn liền với 50 năm lịch sử phát triển của Nhà trường, từ một thư viện
truyền thống còn nghèo nàn về cơ sở vật chất cũng như vốn tài liệu, Trung
tâm TT-TV trường ĐHSPHN ngày nay đã được đầu tư một cơ ngơi khang
trang gồm khu nhà 4 tầng khép kín với 5000m2 sử dụng. Đội ngũ cán bộ đa số
được đào tạo đúng chuyên ngành, có năng lực đáp ứng cơ bản cho yêu cầu
hoạt động của Trung tâm.

 Những thành tích khen thưởng được ghi nhận:
 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo cho cá nhân: 04
 Bằng khen của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo cho tập thể: 02
 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch: 01
 Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục: 18
 Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Giáo dục: 15
 Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn hóa Thể thao và Du lịch: 24
 Bằng khen của Cơng đồn Giáo dục Việt Nam: 02
 Bằng khen của Thành đoàn thành phố Hà Nội: 01

12


 Huy chương vì thế hệ trẻ do BCH Trung ương đoàn tặng cho cá
nhân: 01
 Tập thể lao động xuất sắc cấp Bộ năm 2006 - 2007.
Ngoài ra, cán bộ của Trung tâm được tặng nhiều Giấy khen của nhà

trường do có nhiều thành tích trong hoạt động chun môn phục vụ đào tạo,
nghiên cứu khoa học và các hoạt động đoàn thể khác.
 Chức năng
Trung tâm TT – TV trường ĐHSPHN là thành phần cơ bản và không thể
thiếu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nhà trường. Trung tâm có chức năng
thu thập, bổ sung, xử lý và cung cấp các tài liệu về lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa
học giáo dục và các khoa học khác, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy và
nghiên cứu của cán bộ, giảng viên và sinh viên trong và ngoài trường ĐHSPHN.
 Nhiệm vụ
Với vai trò là giảng đường thứ hai trong trường đại học, là cầu nối giữa
tri thức với con người, là đầu mối quan trọng về công tác Thông tin - Tư liệu
phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trung tâm Thông tin –
Thư viện trường ĐHSPHN phải hoàn thành những nhiệm vụ sau:
 Tham mưu lập kế hoạch dài hạn, ngắn hạn cho Ban Giám hiệu về
công tác thông tin tư liệu phục vụ học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
học tập trong từng giai đoạn phát triển của nhà trường.
 Thu thập, bổ sung, trao đổi và xử lý tài liệu nhằm cung cấp những
thông tin cần thiết phục vụ nhu cầu tra cứu tìm tin của bạn đọc.
 Tổ chức sắp xếp, lưu trữ và bảo quản nguồn tư liệu của trường bao
gồm các loại hình ấn phẩm và vật mang tin.
 Xây dựng hệ thống tra cứu tìm tin theo phương pháp truyền thống và
hiện đại nhằm phục vụ và phổ biến thông tin.
 Thu thập, lưu chiểu những ấn phẩm do nhà trường xuất bản, các luận
văn Thạc sĩ, các luận án Tiến sĩ được bảo vệ tại trường và của các cán bộ nhà

13


trường bảo vệ tại các cơ sở đào tạo khác.
 Nghiên cứu khoa học TT-TV, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật

mới vào việc xử lý và phục vụ nhu cầu thơng tin của bạn đọc.
 Duy trì và phát triển các mối quan hệ nhằm trao đổi và chia sẻ nguồn
lực thông tin với các cơ quan TT-TV Trường ĐHSPHN, các tổ chức khoa học
trong và ngoài nước.
 Đảm bảo cung cấp thông tin cho NDT một cách đầy đủ, chính xác, đúng
đối tượng, điều tra đánh giá đúng nhu cầu thông tin của cán bộ giảng dạy, cán bộ
nghiên cứu, học viện cao học, nghiên cứu sinh và sinh viên trong trường. Từ đó có
thể tổ chức và ngày càng hoàn thiện hoạt động tạo điều kiện để cung cấp thơng tin
một cách chính xác, phù hợp với nhu cầu thông tin của người dùng tin.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức

 Cơ cấu tổ chức của Trung tâm TT-TV Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội được thể hiện qua sơ đồ sau:

Hình 1.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức TTTT-TV Đại học Sư p ạm Hà Nội

14


 P òn N

p vụ: Thực hiện việc nghiên cứu thu thập, chọn lựa, bổ

sung, xử lý tài liệu và xây dựng các hệ thống tra cứu tìm tin truyền thống và
hiện đại. Ngoài ra, đây là nơi tiến hành làm thủ tục cần thiết cho bạn đọc khi
mới nhập học như: Xây dựng hồ sơ bạn đọc của Trung tâm, làm thủ tục nhận
và thanh toán tiền cược sách của sinh viên khi nhập học và trước khi tốt
nghiệp ra trường, xử lý các vi phạm nội quy của bạn đọc và thanh tốn ra
trường cho bạn đọc. Phịng Nghiệp vụ được bố trí tại các phịng 103, 104 tầng 1 của Trung tâm.


 P òn Đọc: Là nơi tổ chức, lưu trữ, bảo quản tài liệu và cung cấp
cho bạn đọc những tài liệu cần thiết để đọc tại chỗ với các phịng đọc sách
(kho đóng, kho mở - phòng 301, 302 - tầng 3), phòng đọc báo, tạp chí, luận
án, luận văn (kho đóng – phịng 401, tầng 4) và phịng đọc báo, tạp chí (kho
mở - phòng 203 - tầng 2) của Trung tâm.

 P òn Mượn: Là nơi tổ chức, lưu trữ, bảo quản tài liệu và phục vụ
cho bạn đọc mượn tài liệu về nhà theo thời gian quy định, với 2 phòng: phòng
Mượn giáo trình (phịng 101 - tầng 1) và phịng Mượn tham khảo (phòng 201
- tầng 2) của Trung tâm.

 P òn T n ọc: Phục vụ bạn đọc sử dụng, khai thác Internet và hệ
thống thiết bị đa phương tiện với nguồn tài liệu điện tử, được bố trí tại phòng
402, 403, 404, 405 - tầng 4 của Trung tâm.
1.2.3. N uồn lực t ôn t n
Nguồn lực thông tin là một trong những yếu tố tiên quyết cấu thành
hoạt động thông tin thư viện và cũng là tài nguyên vô cùng quan trọng để
phục vụ nhu cầu của bạn đọc. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực
thông tin Trung tâm Thông tin -Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
không ngừng xây dựng và phát triển được một nguồn lực tài nguyên thông tin
15


tương đối lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin trong trường. Vốn tài
liệu của trung tâm rất phong phú bao gồm tất cả các ngành đào tạo và nghiên cứu
của trường hiện nay. Trong khóa luận này tác giả tạm chia thành 2 loại là: Tài
liệu truyền thống và tài liệu điện tử. Cụ thể như sau:

 Tài li u truyền th ng :
Trung tâm có khối lượng tài liệu truyền thống với khoảng 103.246 tên,

với khoảng 386.975 bản (tính đến tháng 04 năm 2014) bao gồm các sách thuộc
các lĩnh vực giáo dục, sách tham khảo, sách tra cứu, giáo trình, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các tài liệu bằng các thứ tiếng
như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Trung Quốc…
Cụ thể số tài liệu truyền thống được thống kê qua bảng sau:
Bảng 1.1: Th ng kê s lượng tài li u truyền th ng
STT

Loại hình tài liệu

Số lƣợng tên tài liệu

Số bản

Tỷ lệ
(%)

1

Sách Việt

49.170

235.960

61

2

Luận án, luận văn


13.071

15.875

4

3

Đề tài NCKH

2.926

4.140

1.1

4

Sách ngoại

37.144

85.000

22

5

Tạp chí


935

46.000

11.9

103.246

386.975

Tổng
 Kho tài liệu tiếng Việt

Gồm 49.170 tên tài liệu tương đương với 235.960 bản chiếm khoảng 61%
tài liệu truyền thống. Trong đó chủ yếu tập trung các sách về các ngành KHXH,
KHTN, các sách về lí luận sư phạm và đổi mới phương pháp giảng dạy. Kho
sách Việt cịn có tài liệu tham khảo, sách tra cứu như từ điển, bách khoa toàn
thư, niên giám, thống kê, sổ tay, sách giáo trình - đây là loại tài liệu tương đối

16


lớn của Trung tâm, cung cấp cho học viên, sinh viên những kiến thức cơ bản, có
hệ thống về các chuyên ngành thuộc lĩnh vực giáo dục mà họ đang theo học.
 Kho sách ngoại
Gồm 37.144 tên tài liệu tương đương với 85.000 bản, chiếm 22% lượng
tài liệu truyền thống. Chủ yếu là các sách tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức,
tiếng Trung, tiếng Nga. Tài liệu Hán Nôm lưu giữ khoảng 700 bản và hiện
nay chưa được đưa ra phục vụ.

 Kho tài liệu luận án, luận văn
Gồm 13.071 tên tài liệu tương đương với 15.875 bản, chiếm 4% lượng
tài liệu truyền thống. Đây là hệ thống luận án, luận văn do trường ĐHSPHN
đào tạo, đây có thể coi là kho tài liệu q của Trung tâm. Chính vì vậy, hàng
năm Trung tâm có trách nhiệm thu thập, lưu giữ và bảo quản tất cả những sản
phẩm được bảo vệ tại trường. Đây loại hình tài liệu được nghiên cứu sinh và
học viên cao học sử dụng tham khảo thường xuyên và rất hữu ích cho các đề
tài nghiên cứu của họ.
 Kho báo, tạp chí
Có 46.000 cuốn tạp chí chuyên ngành với khoảng 935 đầu tạp chí
chiếm 11.9% gồm: tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nga. Chủ yếu là các tạp chí
chuyên ngành về các lĩnh vực như vật lí, tốn học, văn học, giáo dục, lịch sử,
triết học, ngơn ngữ,…
Trong đó các tạp chí tiếng Việt được lưu giữ từ rất lâu và tương đối
đầy đủ các số trong năm như tạp chí Nghiên cứu văn học được lưu giữ từ năm
1960, tạp chí Nghiên cứu giáo dục từ năm 1969, Nghiên cứu lịch sử từ năm
1959, Ngôn ngữ từ năm 1969 cho đến nay. Các loại báo được lưu giữ đầy đủ,
có loại từ năm 1958 như báo Văn nghệ, Nhân dân,…
 Đề tài nghiên cứu khoa học
Gồm 2.926 tên tài liệu tương đương với 4.140 cuốn chiếm 1% lượng tài
liệu truyền thống tại Trung tâm.
17


Tỷ lệ nguồn tài liệu truyền thống được thể hiện ở biểu đồ sau:
4% 1.1%
11.9%
Sách Việt
Sách ngoại
Tạp chí


22%

61%

Luận án, luận văn
Đề tài NCKH

B ểu đồ 1.1 Tỷ l các loạ

ìn tà l u truyền t

n

 Tà l u đ n tử:
Tại Thư viện, nguồn lựa thông tin điện tử được thể hiện dưới dạng thức
các CSDL trong đó có CSDL tự làm (nội sinh) và CSDL nhập (ngoại sinh).
Vì bước đầu ứng dụng phần mềm Libol 6.0, Thư viện mới xây dựng được
CSDL thư mục tra cứu trực tuyến với 83.019 biểu ghi (tính đến tháng 04 năm
2014), cụ thể như sau:
Bảng 1.2: S lượng các loại CSDL
STT

CSDL

Số lƣợng biểu ghi

Tỷ lệ (%)

1


Sách Việt

49.170

59,2

2

Bài trích tạp chí

16.917

20,4

3

Luận án, luận văn

13.071

15,7

4

Tạp chí

935

1,1


5

Đề tài NCKH

2.926

3,6

Tổng

83.019

18


Hiện nay Trung tâm có một số lượng tương đối lớn sách ngoại như:
tiếng Nga, Đức, Trung. Tuy nhiên, Trung tâm chưa xử lý để đưa vào CSDL vì
cịn nhiều khó khăn như: phần mềm chưa có ngơn ngữ tiếng Nga, Đức, Trung,
nhu cầu sử dụng các sách tiếng Nga, Đức còn hạn chế.
+ CSDL sách tiếng Việt: Trung tâm đã xây dựng được 49.170 biểu
ghi, trong đó bao gồm cả các tài liệu tham khảo, sách tra cứu chiếm 59,2%
tổng số các loại CSDL.
+ Bài trích tạp chí: Hiện nay Trung tâm đã xây dựng được 16.917 biểu
ghi chiếm 20,4% tổng số các loại CSDL.
+ Tạp chí: Gồm 935 biểu ghi chiếm 1,1% trong tổng số các loại CSDL
tại Trung tâm
+ Luận án, luận văn: Gồm 13.071 biểu ghi chiếm 15,7% trong tổng số
các loại CSDL tại Trung tâm
+ Đề tài nghiên cứu khoa học: Gồm 2.926 biểu ghi chiếm 3,6% tổng số

các loại CSDL.
Số lượng tài liệu điện tử được thể hiện qua biểu đồ sau:
3.6

1.1%

15.7%

59.2%
20.4%

B ểu đồ 1.2: Tỷ l các loạ CSD
19

Sách Việt
Bài trích tạp chí
Luận án, luận văn
Đề tài NCKH
Tạp chí


Các loại CSDL mà Trung tâm đã mua để bạn đọc tra cứu bao gồm:
- Tạp chí khoa học Giáo dục Anh Mỹ (1983-2007)
- Tạp chí tiếng Việt
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và Nhà nước từ 1984 đến 2008
- Tạp chí điện tử trực tuyến của Viện Vật lý Mỹ (IOP)
- Tạp chí điện tử trực tuyến của Hội hóa học Hồng Gia Anh (RSC)
- Phần mềm học tiếng Anh
- CSDL tạp chí điện tử ProQuest Education
-CSDL tạp chí điện tử Springer

-CSDL tạp chí điện tử APS
-CSDL tạp chí điện tử ACS
-CSDL tạp chí điện tử ACM
Ngồi ra cịn có một số lượng nhỏ tài liệu điện tử như:
- Băng video: 87 băng
- Băng cassette: 157 băng
- Đĩa CD - ROM: 1.300 đĩa
1.2.4. Các n óm n ười dùng tin và nhu cầu tin
Người dùng tin là yếu tố cơ bản của mọi hệ thống thông tin. Đó là đối
tượng phục vụ của cơng tác thơng tin tư liệu. Người dùng tin vừa là khách
hàng của các dịch vụ thông tin, đồng thời họ cũng là người sản sinh ra thông
tin mới. Người dùng tin giữ vai trị quan trọng trong các hệ thống thơng tin và
luôn là cơ sở để định hướng các hoạt động của đơn vị thơng tin.
Ngồi đối tượng phục vụ chính là sinh viên, nghiên cứu sinh và cán bộ
giáo viên trong Trường, Trung tâm Thông tin -Thư viện Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội còn phục vụ đối tượng là học sinh các lớp chuyên do trường Đại
học Sư phạm Hà Nội đào tạo. Và một số là bạn đọc ngồi trường khi có nhu cầu
tài liệu của Trung tâm Thông tin-Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
20


Hiện nay, bạn đọc đến Thư viện được đọc, mượn tài liệu với các hình thức
tra cứu khác nhau: trên máy tính, trên mục lục truyền thống, qua thư mục thơng
báo sách mới… Hình thức phục vụ cũng được mở rộng như hệ thống kho đóng,
kho mở giúp bạn đọc có thể tự lựa chọn tài liệu mình cần. Hơn nữa, trong q
trình lựa chọn tài liệu có thể giúp bạn đọc nảy sinh những nhu cầu mới.
Việc nắm bắt đặc điểm nhu cầu của người dùng tin (NDT) có ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động thông tin thư viện. Qua đó, Trung tâm có thể đáp ứng đầy
đủ và chính xác những nhu cầu tin của từng đối tượng NDT. Đây là nhiệm vụ
hàng đầu của các thư viện nói chung và của trường ĐHSPHN nói riêng.

Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo và NCKH của trường
ĐHSPHN trong giai đoạn hiện nay có thể chia NDT thành 3 nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm cán bộ lãn đạo, quản lý ( Ban giám hi u; trưởng,
phó các khoa; các phịng ban chức n n )
Nhóm NDT gồm cán bộ lãnh đạo , quản lý, cán bộ giảng dạy, nghiên
cứu; Cán bộ là chuyên viên các phòng chức năng. Nhóm NDT này chỉ chiếm
khoảng 6,25% số NDT tại Trung tâm. Tuy chỉ chiếm số lượng nhỏ nhưng vai
trò của nhóm bạn đọc này đối với hoạt động của nhà trường là hết sức quan
trọng. Nhóm NDT này có chức năng tổ chức quản lý, chính vậy nhu cầu
thơng tin của họ chủ yếu là những thông tin mang tính chất chỉ đạo, điều
hành, những thơng tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và đặc biệt của ngành giáo dục. Đồng thời nhu cầu tin của họ cũng mở
thêm ở lĩnh vực nghiên cứu giáo dục, giảng dạy chuyên môn.
Căn cứ vào đặc điểm của nhóm NDT này mà Trung tâm có những cách
phục vụ riêng: Thơng tin phục vụ chính xác, có độ tin cậy cao, có tính chất
khách quan, có độ cơ đọng, xúc tích. Hình thức phục vụ thường là các thơng
tin chuyên đề, tổng quan, tổng luận, ấn phẩm thông tin, bản tin,… Phương

21


pháp phục vụ chủ yếu mà Trung tâm áp dụng là phục vụ từ xa với cá nhân
từng người theo những yêu cầu cụ thể mà họ gửi tới.
Nhóm 2 : Nhóm cán bộ nghiên cứu, giảng dạy
Đây là nhóm NDT chiếm số lượng khá lớn, chiếm khoảng 18,75% số
lượng NDT thường xuyên tại Trung tâm. Họ là lực lượng nịng cốt quyết định
tới q trình đào tạo và NCKH cơ bản, khoa học giáo dục của Nhà trường.
Nhà trường luôn dành những điều kiện thuận lợi nhất trong việc bổ sung và
trao đổi tài liệu, phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất để thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy phục vụ sự nghiệp đổi mới giáo dục. Cán bộ giảng dạy,

nghiên cứu của trường ĐHSPHN là nhóm NDT tích cực, họ vừa là người
sang tạo ra thơng tin ( bằng việc trực tiếp tham gia NCKH, viết giáo trình…)
vừa là người chuyển giao thơng tin, tri thức tới người học. Họ là những người
có trình độ chun mơn và trình độ học vấn cao. Hoạt động chủ yếu của nhóm
này là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nhiều người trong số họ thường
xuyên tham gia các đề tài NCKH cấp trường, cấp bộ và cấp nhà nước… Nhu
cầu thơng tin của nhóm NDT này chủ yếu là các loại sách tham khảo, đặc biệt
là các tài liệu nước ngoài. Ngoài ra các tài liệu như: Từ điển, bách khoa toàn
thư, sổ tay, sách tra cứu..., các tài liệu phi ấn phẩm: băng đĩa, băng hình, CDROM, các CSDL cũng là tài liệu có giá trị mà họ quan tâm.
Nhóm 3: Nhóm nghiên cứu sinh, học v ên sau đại học và sinh viên
Hiện nay, tại Trung tâm TT-TV Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đối
tượng NDT chiếm tỷ lệ số lượng đông đảo nhất là sinh viên, chiếm khoảng
75% trên số lượng NDT. Ngoài ra, thuộc nhóm NDT này cịn có bạn đọc là
học sinh các lớp chuyên do trường ĐHSPHN đào tạo và một số là bạn đọc
ngồi trường. Nhóm bạn đọc này có thời gian phụ thuộc chặt chẽ vào chương
trình đào tạo và thời khóa biểu do nhà trường quy định, đồng thời họ cũng
tham gia một số hoạt động ngoại khóa, thực tế khác. Tuy nhiên, họ là nhóm

22


NDT có quỹ thời gian tương đối lớn và phong phú để sử dụng thư viện, phần
lớn sinh viên chưa có khả năng cao trong khai thác thơng tin, khái quát tổng
hợp và sử dụng tài liệu một cách có hiệu quả.
Nhu cầu tin của nhóm NDT này bao gồm các tài liệu mang tính chất
giáo khoa, giáo trình đến các tài liệu có tính chất tham khảo về mọi lĩnh vực
chuyên ngành phục vụ cho học tập và nghiên cứu. Cụ thể:
 NDT là học viên cao học, nghiên cứu sinh, nhu cầu thông tin chủ yếu
là: sách tham khảo quốc văn, ngoại văn, báo tạp chí và nhiều nhất là các đề tài
nghiên cứu khoa học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ…

 NDT là sinh viên :
+ Sinh viên năm 1 và sinh viên năm 2, nhu cầu thơng tin chủ yếu là:
sách giáo trình về các mơn học đại cương như: Tâm lí, triết học, lịch sử
Đảng…Ngoài ra cũng quan tâm đến các tài liệu tham khảo.
+ Sinh viên năm 3 và sinh viên năm 4 nhu cầu thông tin chủ yếu là: các
sách chuyên ngành mà sinh viên theo học và các tài liệu tham khảo, ngồi
tiếng Việt cịn có tiếng Anh, tiếng Pháp.
Đối với NDT là sinh viên, hàng năm Trung tâm luôn tổ chức liên tục các
lớp học đầu năm, đầu khóa nhằm đào tạo, hướng dẫn và cung cấp những hiểu
biết về cơ chế hoạt động của Trung tâm và các sản phẩm dịch vụ thơng tin hiện
có. Đồng thời hướng dẫn cho họ biết cách sử dụng các hệ thống tra cứu thơng tin
của Thư viện. Bên cạnh đó, hướng dẫn sinh viên cách khai thác thông tin trên
mạng internet, các CSDL và các loại hình thơng tin phi truyền thống khác.
1.3. Vai trị của KTTT đối với cơng tác đổi mới và nâng cao chất
lƣợng đào tạo tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
1.3.1. KTTT đ i với hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học

 KTTT với hoạt động giảng dạy
Cán bộ giảng dạy không chỉ được coi là người cung cấp kiến thức cho

23


sinh viên mà còn là người giúp sinh viên tự tiếp cận, đánh giá, sử dụng thơng
tin có hiệu quả. Từ đó, thúc đẩy q trình tự học, tự tìm hiểu tri thức và sáng
tạo tri thức mới. Một trong những nguyên tắc đổi mới giáo dục Việt Nam hiện
nay chính là đổi mới phương pháp dạy – học. Song song với mục tiêu đó,
phương pháp giáo dục khơng cịn là phương pháp tiếp cận thông tin một cách
thụ động “ thầy đọc trò chép” nữa mà người học trở thành trung tâm của quá
trình dạy và học. Người học có những cơ hội tiếp cận các nguồn thơng tin, các

cơ sở dữ liệu… để tự chủ trong học tập và sáng tạo. Chính phương pháp giáo
dục này địi hỏi cán bộ giảng dạy phải luôn cập nhật thông tin, đổi mới kiến
thức, tự nâng cao trình độ đáp ứng nhu cầu của người học. Vì vậy, việc trang
bị KTTT cho sinh viên và giáo viên chính là chìa khóa giúp cho cả thầy và trị
làm chủ thơng tin, tri thức, làm chủ quá trình tự học và tự học suốt đời.
Tuy nhiên, hiện nay KTTT vẫn thiếu sự tập trung vào công tác giảng
dạy vốn được coi là một chức năng chủ chốt của thư viện đại học. Sự hợp tác
giữa cán bộ giảng dạy, ban quản trị nhà trường với cán bộ thư viện trong công
tác đào tạo KTTT cho sinh viên là hết sức cần thiết. Bawden ( 2001) cho
rằng: “ KTTT phải được coi như một khái niệm có liên kết chặt chẽ đến cải
tiến chương trình đại học và nó khơng chỉ được coi như một con ngựa gỗ của
cán bộ thư viện. Hiểu một cách rộng rãi kiến thức thông tin nên được coi như
một chiến lược để nâng cao năng lực lĩnh hội của sinh viên” [15].

 Nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm kiếm, xem xét,
điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt
được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự
vật, về thế giới tự nhiên và xã hội để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ
thuật mới cao hơn, giá trị hơn phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động nghiên cứu khoa học đóng vai trị quan trọng trong việc nâng cao

24


chất lượng giáo dục, đào tạo trong trường đại học. Nó được xem như là thước
đo của sự phát triển trong một trường đại học, một nền giáo dục và một quốc
gia. Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực
nghiên cứu và phải rèn luyện được tính tự lực, có phương pháp từ khi cịn
ngồi trên ghế nhà trường.

Sự bùng nổ thơng tin hiện nay đặt ra yêu cầu bức thiết đối với người
làm NCKH phải luôn luôn cập nhật thông tin, tri thức mới nhất, chính xác và
hiệu quả nhất nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu, thực nghiệm tạo ra
những sản phẩm khoa học có giá trị thực tiễn cao. Như vậy, để có những sản
phẩm khoa học có chất lượng cao phục vụ cho xã hội, người làm nghiên cứu
phải thực hiện quá trình nghiên cứu một cách nghiêm túc và tinh thần trách
nhiệm cao. Đặc biệt, trong bối cảnh có khá nhiều cơng trình và đề tài nghiên
cứu thuộc đủ các cấp có tính khả thi rất thấp như hiện nay thì trình độ và đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ nghiên cứu càng được chú trọng.
Đối với trường Đại học Sư phạm Hà Nội, hoạt động nghiên cứu khoa
học đã trở thành thế mạnh của sinh viên và cán bộ giảng viên trong trường với
nhiều cơng trình nghiên cứu được giải thưởng cấp Bộ, cấp Nhà nước. Tuy
nhiên, không phải bất cứ sinh viên nào cũng NCKH một cách thuận lợi mà
khơng có sự rèn luyện của giáo viên về kỹ năng KTTT. Bởi, để tiến hành
NCKH, trước hết người nghiên cứu phải trang bị cho mình những kiến thức
và kỹ năng về KTTT như:
 Nhận biết : Thông tin cần khi nào, đặt giả thuyết cho vấn đề
 Khả năng định vị : Xác định được nguồn cung cấp thơng tin và tìm
được nguồn tin cần có
 Đánh giá thơng tin: Thẩm định tính chính xác của các thông tin
 Khả năng phê phán : Tư duy nhận xét, phê bình trước các vấn đề,
hiện tượng

25


×