Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

CÁC DẤU HIỆU VỀ TỪ VỰNG - TÌNH THÁI TRONG LỜI THỈNH CẦU CỦA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NHẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 90 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong trang này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS Nguyễn
Dương Đỗ Quyên - Người đã luôn tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và động
viên người viết trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn tới PGs. Bùi Phương Việt Anh – Khoa
sau đại học - Đại học Quốc gia Hà Nội vì đã cung cấp tài liệu và trực tiếp
đóng góp ý kiến quý báu giúp người viết hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong
Khoa Đông Phương học, bộ môn Nhật Bản học và các bạn sinh viên của
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các bạn Nhật Bản… vì
những ý kiến quý báu, và sự hỗ trợ trong việc điều tra dành cho người viết.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới bố mẹ và em trai của tôi những người
đã luôn động viên và chăm sóc tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................2
LỜi mỞ đẦu.........................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài:...............................................................................................3
1.1. Tiếng Nhật và giao tiếp tiếng Nhật.......................................................................3
1.2. Ngôn ngữ và văn hóa.............................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................7
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................7
4. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................8
5. Bố cục luận văn.............................................................................................................8
PhẦn II: NỘi dung..............................................................................................................10
Chương 1: Cơ sỞ lý luẬn...................................................................................................10
1.1. Các chức năng ngôn ngữ .......................................................................................10
1.1.1. Ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp đặc trưng chỉ có ở con người....................11
1.1.2. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy................................................................13
1.2. Lời thỉnh cầu - một hành động ngôn ngữ trong giao tiếp.......................................15
1.3. Phân loại lời thỉnh cầu.............................................................................................18
1.4. Tính lịch sự trong giao tiếp và tính lịch sự trong lời thỉnh cầu tiếng Việt và tiếng


Nhật.................................................................................................................................20
Chương 2: Các dẤu hiỆu vỀ tỪ vỰng - tình thái trong lỜi thỈnh cẦu cỦa tiẾng ViỆt và
tiẾng NhẬt..........................................................................................................................31
2.1. Các yếu tố từ vựng biểu hiện ý nghĩa tình thái trong lời thỉnh cầu tiếng Việt và
tiếng Nhật........................................................................................................................32
2.1.1. Các yếu tố từ vựng biểu hiện ý nghĩa tình thái trong lời thỉnh cầu của tiếng
Việt..............................................................................................................................32
2.1.2. Các yếu tố từ vựng biểu hiện ý nghĩa tình thái trong lời thỉnh cầu của tiếng
Nhật.............................................................................................................................33
2.2. Các cách diễn đạt tình thái trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt và tiếng Nhật ........36
2.2.1. Các cách diễn đạt tình thái cơ bản trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt.............37
2.2.2. Các cách diễn đạt tình thái cơ bản trong lời thỉnh cầu của tiếng Nhật............39
Chương 3: ĐẶc trưng văn hoá trong lỜi thỈnh cẦu cỦa tiẾng ViẾt và tiẾng NhẬt.......46
3.1. Tính trực tiếp - gián tiếp trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt và tiếng Nhật............46
3.1.1. Tính trực tiếp – gián tiếp trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt...........................53
3.1.3. Tiểu kết............................................................................................................62
3.2. Cách xưng hô trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt và tiếng Nhật............................64
3.2.1. Cách xưng hô trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt.............................................65
3.2.2. Cách xưng hô trong lời thỉnh cầu của tiếng Nhật – so sánh với tiếng Việt....68
3.3. Tiểu kết....................................................................................................................74
PhẦn 3: KẾt luẬn...............................................................................................................76
Danh mỤc tài liỆu tham khẢo...........................................................................................80
BẢng hỎi cách nói lỜi đỀ ngHỊ........................................................................................87
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
1.1. Tiếng Nhật và giao tiếp tiếng Nhật
Ngày nay, trong thời kỳ của thế giới hội nhập đã mở ra nhiều cơ hội
cho giao lưu và hội nhập kinh tế, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO là
việc các đối tác quốc tế cũng nhiều hơn, nhu cầu giao tiếp liên văn hóa và

ngôn ngữ cũng gia tăng đòi hỏi giao tiếp có hiểu biết cao hơn đã nảy sinh
công tác nghiên cứu văn hóa - ngôn ngữ phục vụ cho hội nhập. Trong khu
vực, Nhật Bản - một cường quốc kinh tế từ lâu đã trở thành một đối tác
quan trọng của Việt Nam. Sự hợp tác song phương Việt - Nhật cũng như
quan hệ hai nước đã nâng lên một tầm cao mới khiến nhu cầu học tiếng
của cả hai bên tăng nhằm phục vụ cho giao tiếp và các hoạt động khác của
hai nền văn hóa Việt- Nhật. Những năm gần đây, tiếng Nhật ngày càng trở
nên phổ biến hơn ở Việt Nam. Số lượng người học tiếng Nhật tăng và việc
đưa tiếng Nhật vào chương trình thi đại học có thể coi là những minh
chứng cụ thể. Trong quá trình học tiếng Nhật, người Việt thường mong
muốn hiểu đúng không chỉ về mặt ngữ pháp của tiếng Nhật mà cả về mặt
ngữ nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ của họ. Chính vì vậy tôi mong muốn
đưa ra trong luận văn của mình về một số khác biệt trong văn hoá giao tiếp
giúp cho người học hiểu rõ hơn về ngữ pháp, cách thức, và các quy tắc để
có thể chuyển dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt và ngược lại một cách
chính xác nhất đồng thời làm căn cứ giúp cho giao tiếp không bị ngưng trệ
do khác biệt về văn hóa - ngôn ngữ.
3
Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là để làm chủ được một ngoại ngữ
không phải là đơn giản. Thậm chí là không thể nếu không có những hiểu
biết cơ bản về văn hóa của dân tộc có ngôn ngữ đó. Khi những người đến
từ những nền văn hoá khác nhau giao tiếp với nhau bằng một ngôn ngữ
chung nào đó thì họ thường có xu hướng áp đặt văn hóa của dân tộc mình
lên ngôn ngữ được sử dụng để giao tiếp. Ví dụ như người Việt học tiếng
Nhật, trong giao tiếp với người Nhật đã bộc lộ khá rõ nét những áp đặt đó.
Đơn cử tiêu biểu nhất là trong chào hỏi lần đầu gặp mặt. Nếu như người
Việt Nam thấy việc hỏi tên, tuổi, tình trạng hôn nhân… ví dụ: “Anh/Chị
bao nhiêu tuổi? Đã lập gia đình chưa?” là một sự quan tâm bình thường
trong xã giao thì với người Nhật, khi bị hỏi về tuổi tác, tình trạng hôn nhân
sẽ cảm thấy không thoải mái nếu không muốn nói là khó chịu. Nguyên

nhân chính là do sự khác biệt văn hóa giữa hai dân tộc Việt Nam và Nhật
Bản, và đặc biệt là do người giao tiếp thiếu hiểu biết về văn hóa của nước
bạn. Điều đó sẽ dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc, những “sốc văn hóa”
1
không tránh khỏi khi chào hỏi, xin lỗi, cám ơn, đề nghị, thỉnh cầu, khuyến
cáo, mời…và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến các đổ vỡ, thất bại trong
giao tiếp, làm cho giao tiếp bị ngừng trệ, gián đoạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi chủ trương không
đi vào giải quyết tất cả các hành vi giao tiếp trên mà chủ yếu muốn đưa ra
những khác biệt về văn hoá trong lời thỉnh cầu - một hành vi ngôn ngữ hết
sức nhạy cảm của tiếng Việt và tiếng Nhật. Trong cuộc sống, con người dù
độc lập đến đâu cũng không thể tránh khỏi những lúc cần nhờ vả, đề nghị,
thỉnh cầu…người khác. Khi thỉnh cầu tức là người nói đã xâm phạm vào
sự tự do hành động của người nghe nên dễ gây ra những khó chịu, hiểu
1
Thuật ngữ “sốc văn hóa” (Culture shock) đã được Howad và Scott đưa ra năm 1965. Theo từ điển dạy
tiếng và ngôn ngữ học ứng dụng của 3 tác giả Jack Richard, Jonhn Platt, Heidi Platt, do nhà xuất bản
Longman ấn hành lần thứ 3 – 1993 định nghĩa: “Sốc văn hóa là những cảm giác khó chịu, sợ hãi hoặc
thiếu yên tâm mà một người có thể có khi thâm nhập vào một nền văn hóa khác”.
4
lầm nếu người thỉnh cầu không biết cách lựa chọn ngôn từ phù hợp. Điều
này càng dễ nảy sinh trong giao tiếp liên ngôn, khi người tham gia giao
tiếp đến từ những nền văn hóa khác nhau. Cho nên nghiên cứu về một số
khác biệt văn hóa trong lời thỉnh cầu của tiếng Việt và tiếng Nhật hi vọng
có thể giúp tránh khỏi, hoặc ít nhất cũng làm giảm bớt những xung đột văn
hóa khi thực hiện hành vi thỉnh cầu trong giao tiếp. Một người có năng lực
giao tiếp tốt là người biết cách tránh những xung đột, hay những “sốc văn
hóa” khi giao tiếp. Để làm được điều đó thì chỉ có khả năng ngoại ngữ là
chưa đủ, mà còn cần có năng lực văn hóa. Trong quá trình giao tiếp liên
ngôn (interlingual communication) người học chỉ nói đúng ngữ pháp thôi

thì chưa đủ, họ cần phải biết cách nói sao cho phù hợp. Như Trần Ngọc
Thêm đã nói: “Người ta ngày càng hiểu rõ rằng, khi thiếu chiều sâu văn
hóa, ngoại ngữ chỉ là cái xác không hồn” [40, 9]. Cho nên người học ngoại
ngữ cần ý thức rõ vai trò của văn hóa trong quá trình học ngoại ngữ cũng
như cần phải thấy được mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa.
1.2. Ngôn ngữ và văn hóa
Ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ mật thiết với nhau, không ai có
thể phủ nhận những mối quan hệ khăng khít không thể tách rời (có thể ví
ngôn ngữ và văn hóa như hai mặt của một tờ giấy, xé mặt này không thể
không xé mặt kia). Mỗi một ngôn ngữ lại mang trong mình những đặc
trưng văn hóa riêng biệt của chính mình và chúng được phản ánh vào ngôn
ngữ bằng những cách khác nhau cả về chất lượng, nội dung và hình thức.
Chính vì văn hóa và ngôn ngữ không thể tách rời nhau mà có thể thấy
ngôn ngữ vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện để thể
hiện, lưu trữ, và truyền bá văn hóa. Ngay từ những định nghĩa về văn hóa,
các học giả cũng đã chỉ rõ mối liên hệ ấy.
5
Định nghĩa về văn hóa đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Lúc sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn về văn hóa một cách khá rõ ràng và đầy
đủ, theo Người thì: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa” (Dẫn lại [3, 71]).
Có thể thấy ngôn ngữ là một bộ phận của văn hóa và đồng thời cũng
phản ánh văn hóa sâu sắc nhất. Clyne (1994) nhận xét: “Ngôn ngữ là sự
thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa, hệ thống giá trị bao gồm cả những
giá trị thừa hưởng từ cộng đồng và có một vai trò lớn tác động đến cách
thức sử dụng không chỉ ngôn ngữ thứ nhất mà cả ngôn ngữ được tiếp thụ
sau đó”. Hay nói một cách nôm na thì “Văn hóa qui định cái chúng ta nói,

nói với ai và nói như thế nào…” [13, 15]. Còn các tác giả người Nhật,
trong đó có Saji Keizou tuy không đề cập trực tiếp tới mối liên hệ ngôn
ngữ và văn hóa, song cũng đã đưa ra ảnh hưởng của văn hóa tới giao tiếp,
mà ngôn ngữ là công cụ không thể thiếu của giao tiếp: “Cách thức giao
tiếp chịu cảnh hưởng rất lớn từ những qui phạm, giá trị quan của văn hóa,
xã hội mà người tham gia giao tiếp sinh ra và lớn lên. Ví dụ, bàn về cách để
tiến hành cuộc hội thoại, đối lập với việc những người Anglo Saxon bày tỏ
nội dung truyền đạt một cách trực tiếp, thì người Á Đông có xu hướng đi từ
những chủ đề bên ngoài rồi mới vào nội dung chính.”(Saji Keizou, Sanada
Nobihiro, Gengo ippan Nihongokyoshiyouseikouza tekisuto2,
Kaiteishinpan 2004, tr. 86)
Văn hóa không giống như ngôn ngữ, nó không phải là những qui tắc cố
định. Văn hóa khác giữa xã hội này với xã hội khác, cá nhân này với cá
nhân khác. Cái gì là “đúng” trong nền văn hóa này có thể “không đúng”
6
trong nền văn hóa khác. Trong khi đó ngôn ngữ xét về cấu trúc được tạo ra
từ những đơn vị - yếu tố như âm vị, hình vị, từ, câu… Con người sử dụng
ngôn ngữ để bày tỏ suy nghĩ, mong muốn của mình tới người nghe. Qua
đó, chúng ta không chỉ thu nhận được thông tin đơn thuần mà còn biết
được tâm tư, tình cảm của người nói. Ngôn ngữ với chức năng giao tiếp
của mình còn có vai trò trong hình thành và duy trì mối quan hệ giữa con
người với con người trong xã hội. Ngược lại văn hóa “in đậm” vào ngôn
ngữ, nó chi phối cách sinh hoạt, ứng xử, giao tiếp của mỗi người trong
cộng đồng. Bởi vậy không thể tách rời ngôn ngữ và văn hóa.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu một số khác biệt về văn hoá trong lời thỉnh cầu tiếng
Việt và tiếng Nhật trên một số nội dung sau:
- Nhân tố làm ảnh hưởng đến cách thỉnh cầu
- Tính lịch sự trong lời thỉnh cầu
- Tính trực tiếp – gián tiếp trong lời thỉnh cầu

- Cách xưng hô trong lời thỉnh cầu
- Từ vựng, cấu trúc trong lời thỉnh cầu.
- Một số “Sốc văn hoá” trong lời thỉnh cầu, cách khắc phục.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu tài liệu liên quan
- Phân tích - đối chiếu
- Tổng hợp
- Thảo luận chuyên gia
7
- Xin ý kiến các giảng viên và sinh viên khoa Đông Phương học, các
bạn người Nhật
- Phỏng vấn - điều tra: Trong luận văn người viết có sử dụng bảng điều
tra nhằm tìm hiểu cách thức của lời thỉnh cầu trong tiếng Việt và tiếng
Nhật. Bảng hỏi sử dụng hai tình huống:
+ Tìng huống 1: Hỏi đường tới bưu điện
+ Tình huống 2: Hẹn gặp ai đó vào ngày mai
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu các giao tiếp lời nói và phân tích các số
liệu thu được qua điều tra, phỏng vấn về lời thỉnh cầu trong tiếng Nhật
và tiếng Việt. Đồng thời nghiên cứu cách thức của lời thỉnh cầu trên cơ
sở lý thuyết về tính lịch sự, tính trực tiếp - gián tiếp trong lời nói, giao
tiếp.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
Phần 1: Giới thiệu gồm: tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, bố cục đề tài.
Phần 2: Nội dung gồm ba chương.
Chương một chủ yếu giải quyết các vấn đề mang tính cơ sở lý luận,
làm rõ các khái niệm có liên quan như: các chức năng ngôn ngữ, lời thỉnh

cầu, phân loại lời thỉnh cầu, tính lịch sự trong lời thỉnh cầu tiếng Việt và
tiếng Nhật.
Chương hai có nhiệm vụ làm rõ hơn lời thỉnh cầu trong tiếng Việt
và tiếng Nhật từ bình diện các dấu hiệu về hình thức (từ vựng, cấu trúc).
8
Chương ba đưa ra một số đặc trưng văn hóa chính trong lời thỉnh
cầu của tiếng Việt và tiếng Nhật, tiêu biểu là tính trực tiếp và gián tiếp,
cách xưng hô trong lời thỉnh cầu. Từ đó rút ra những khác biệt về văn hóa
và lý giải sự khác biệt từ góc nhìn văn hóa.
Phần 3: Kết luận. Đưa ra những nguyên nhân dẫn đến “sốc văn hóa” và
đề xuất cách khắc phục
9
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các chức năng ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp
cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người.
Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt
truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quá trình
giao tiếp được Carroll J.B
2
mô hình hoá như sau:
Qua xem xét trên chúng ta có thể sơ bộ đưa ra nhận xét như sau:
- Chỉ có con người mới có ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ, tư duy và văn hoá liên hệ mật thiết với nhau không
tách rời. Ngôn ngữ mà không có tư duy thì ngôn ngữ đó giống
như ngôn ngữ của loài vật, bậc thấp. Tư duy mà không có ngôn
ngữ thì đó là tư duy đơn điệu, không mang tính giao tiếp.
Chính vì vậy, khi xét các chức năng của ngôn ngữ tôi chỉ xin đưa ra
một vài quan tâm về một số phạm vi chức năng mà ngôn ngữ phổ quát làm

2
Phạm Đăng Bình, Vai trò của nhân tố văn hóa trong quá trình giao tiếp bằng tiếng nước ngơài, TC
Ngôn ngữ số 4, 2001, tr. 71.
10
Hành vi
chủ định
của
người
nói
Hành vi
mã hóa
của
người
nói
Thông
điệp
Hành vi
giải mã
của
người
nghe
Hành vi
hiểu của
người
nghe
căn cứ xem xét các giao tiếp trong tiếng Nhật và tiếng Việt trong lời thỉnh
cầu. Nói tới chức năng ngôn ngữ, người ta thường nhắc tới hai chức năng
cơ bản: ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người và
ngôn ngữ là phương tiện của tư duy.
1.1.1. Ngôn ngữ - phương tiện giao tiếp đặc trưng chỉ có ở con

người
Trong thực tế, con người cũng như loài vật đều có nhu cầu giao tiếp
song giao tiếp của con người mang tính đặc trưng. Các hoạt động giao tiếp
đó bao gồm các giao tiếp cá nhân và giao tiếp liên nhóm cá nhân - đó là
một hoạt động tập thể, là sự trao đổi tin tức giữa cá thể này với cá thể khác
để thực hiện một chức năng, một nhiệm vụ nào đó, như làm cho cá thể
khác hiểu mình, đáp ứng nhu cầu hay mong muốn của mình chẳng hạn.
Đồng thời qua đó, các cá nhân tự tìm hiểu về bản thân mình. Đối với loài
vật, giao tiếp chỉ có thể là sự thông báo trạng thái tâm lý - thần kinh (sự vui
mừng, sự sợ hãi, mối nguy hiểm…hoặc trạng thái sinh lý đói, khát…).
Như vậy, giao tiếp loài vật xảy ra do những nguyên nhân có tính bản năng,
di truyền và đôi khi trong những điều kiện hoàn toàn khách quan.
Đối với con người, để giúp việc giao tiếp thuận lợi hơn, với sự thông
minh, tiến bộ của con người và cũng chỉ có ở con người, con người không
chỉ dùng âm thanh, ánh sáng, điệu bộ, cử chỉ, mà còn có các loại dấu hiệu,
kí hiệu khác nhau (kí hiệu toán học, đèn tín hiệu giao thông, tín hiệu hàng
hải…), các quy tắc, quy định xã hội và đặc biệt là lời nói hay ngôn ngữ. Để
truyền đạt ý định và nội dung giao tiếp, ngôn ngữ chính con người sử dụng
sẽ bao gồm nhóm lời nói và nhóm hành vi để diễn đạt mục đích giao tiếp
của mình. So với ngôn ngữ thành tiếng, ngôn ngữ cử chỉ thật nghèo nàn và
hạn chế. Đó chẳng qua chỉ là một số rất ít những động tác giản đơn như lắc
đầu, gật đầu, nhún vai, nheo mắt, khom lưng, vẫy tay, chỉ tay v.v…Có
11
những cử chỉ một số người hiểu với nhau, nhiều khi “ý nghĩa” của các cử
chỉ cũng không rõ ràng dẫn đến chỗ người tạo cử chỉ nghĩ một đằng, người
tiếp thu hiểu một nẻo.
Những kí hiệu và dấu hiệu khác nhau như đèn tín hiệu giao thông, kí
hiệu toán học, tín hiệu hàng hải v.v… thì chỉ được áp dụng trong những
phạm vi hạn chế, chứ không phải là phương tiện giao tiếp toàn xã hội. Bản
thân những dấu hiệu, kí hiệu như thế muốn hiểu được vẫn phải dùng ngôn

ngữ thành tiếng để giải thích. Chính vì vậy, cử chỉ và những dấu hiệu, kí
hiệu khác nhau chỉ là những phương tiện giao tiếp phụ, bổ sung cho ngôn
ngữ thành tiếng.
Các lĩnh vực âm nhạc, hội họa, điêu khắc có những khả năng rất vĩ
đại, nhưng nó vẫn bị hạn chế và có tính chất phiến diện so với ngôn ngữ.
Âm nhạc, hội họa và điêu khắc không thể truyền đạt khái niệm và tư tưởng
mà chỉ khơi gợi chúng trên cơ sở những hình ảnh, cảm xúc đã gây ra được
ở người nghe và người xem. Những tư tưởng mà các tác phẩm âm nhạc,
hội họa… gây ra ở người nghe và người xem có tính chất mơ hồ, không rõ
rệt và rất khác nhau ở những người khác nhau. Cả âm nhạc lẫn nghệ thuật
tạo hình đều không thể truyền đạt được những tư tưởng và tình cảm chính
xác, rõ ràng và hoàn toàn xác định. Vì vậy, không thể dùng chúng thay cho
ngôn ngữ.
Nhu cầu giao tiếp của con người rất lớn và sâu rộng: trong lao động
sản xuất, trong đời sống hàng ngày, ở cơ quan, trường học cũng như ở
những nơi vui chơi giải trí, hiện thực khách quan cũng như thế giới nội
tâm…Hơn thế nữa, hành động giao tiếp của con người có ý thức và mục
đích rõ rệt. Chính nhờ ngôn ngữ mà chúng ta có thể trao đổi tin tức về tư
tưởng, tình cảm, trí tuệ, có thể nhờ vả, sai khiến, thỉnh cầu… cũng là để
hiểu nhau, thông cảm cho nhau, cùng làm việc và chung sống.
12
1.1.2. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện
tư duy của nó, bởi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ có thể giúp người ta
trao đổi tư tưởng, tình cảm với nhau, nhờ đó hiểu biết lẫn nhau và cùng tổ
chức các hoạt động chung trên mọi lĩnh vực. Nếu ngôn ngữ chỉ là những tổ
hợp âm thanh đơn thuần, không có tư duy của con người thì nó không thể
trở thành phương tiện giao tiếp được. Tuy nhiên, không thể đồng nhất chức
năng giao tiếp với chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ, hoặc là cho
chức năng thể hiện tư duy chỉ là một chức năng phụ thuộc vào chức năng

giao tiếp. Chức năng giao tiếp chỉ thể hiện khi có hành động giao tiếp tức
là khi người ta dùng ngôn ngữ để trao đổi với nhau. Trong thực tế, người ta
có thể nói một mình, đọc một mình hoặc viết ra giấy mà không nhằm trao
đổi với ai, người ta có thể nghĩ thầm mà không phát ra lời. Có chú ý tới
những trường hợp đó, chúng ta mới thấy chức năng thể hiện tư duy là chức
năng cơ bản của ngôn ngữ, độc lập với chức năng giao tiếp.
Tư duy con người là một hoạt động đặc biệt của bộ óc, cơ quan thần
kinh trung ương cao nhất có tổ chức tinh tế, hoàn hảo mà bất cứ loài vật
hay máy móc nào cũng chưa đạt được. Hoạt động này chỉ diễn ra sau khi
các cơ quan thụ cảm làm việc, cung cấp những tài liệu về sự vật, sự việc,
hiện tượng trong thực tế khách quan. Quá trình tư duy mang nặng những
đặc tính chủ quan, cá nhân, rất trừu tượng và khó nắm bắt, sự thể hiện ra
bên ngoài có tính chất gián tiếp.
Rất may nhờ có ngôn ngữ ghi lại ngay từ đầu, trực tiếp ngay từ trong
óc, cho nên những tư tưởng mới được bộc lộ ra thông qua các phương tiện,
các dạng thức của ngôn ngữ, ví dụ: từ biểu thị khái niệm, câu biểu thị phán
đoán, chuỗi câu biểu thị suy lý. Vỏ vật chất âm thanh của các phương tiện
13
ngôn ngữ này được các cơ quan trong cơ thể con người phát ra dưới sự
điều khiển của bộ óc. Mặt khác, quá trình tư duy cũng phải dựa vào quá
trình ngôn ngữ: sự kết hợp các khái niệm thành một bộ phận hay toàn bộ
phán đoán dựa vào sự kết hợp giữa các từ thành cụm từ, thành câu… Ngôn
ngữ của con người không phải chỉ tồn tại dưới dạng thành tiếng mà có thể
tồn tại dưới dạng biểu tượng âm thanh ở trong óc, dạng chữ viết ở trên
giấy.
Theo Mác và Ăngghen : “Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy, -
ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn”. Như vậy, ngôn ngữ và tư duy cùng
ra đời một lúc, ngay từ đầu chúng hòa quyện với nhau, không tách rời
nhau, ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy. Chức năng thể hiện tư
duy của ngôn ngữ biểu hiện ở cả hai khía cạnh

3
:
• Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ
nào, câu nào mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng. Ngược lại,
không có ý nghĩa, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là biểu hiện thực tế của tư tưởng.
• Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư
tưởng. Mọi ý nghĩa, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện
bằng ngôn ngữ. Những ý nghĩa chưa biểu hiện ra được bằng ngôn ngữ
chỉ là những ý nghĩa không rõ ràng, phản ánh nhận thức mơ hồ chứ
không phải hiểu biết thực sự. Quá trình đi tìm từ cần thiết để nói cũng
là quá trình làm cho ý nghĩ, khái niệm trở nên rõ ràng, có thể hiểu được
với người nghe cũng như với chính bản thân mình.
Thông qua tìm hiểu các chức năng của ngôn ngữ, có thể thấy rằng
ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hàng ngày để giao tiếp, để truyền đạt tâm
tư, tình cảm, suy nghĩ của chúng ta tới những người xung quanh. Đó cũng
3
Nguyễn Thiện Giáp, Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1994
14
là cách mà chúng ta xây dựng các mối quan hệ xã hội, trước nhất là với
những người trong gia đình, tiếp đó là với bạn bè, đồng nghiệp… Nhờ có
ngôn ngữ, chúng ta mới có thể thực hiện các hành vi giao tiếp như chuyện
trò, tâm sự, tranh luận, nhờ vả, yêu cầu, mời mọc… Trong giới hạn phạm
vi của đề tài tôi chỉ xin đi sâu tìm hiểu về một hành vi giao tiếp là lời thỉnh
cầu, đặc biệt là lời thỉnh cầu trong tiếng Việt và tiếng Nhật.
1.2. Lời thỉnh cầu - một hành động ngôn ngữ trong giao tiếp
Theo cách phân loại hành động ngôn ngữ của Austin và đã được
Searle (1969) phát triển thì họ coi giao tiếp ngôn ngữ không đơn giản chỉ
là phương tiện truyền tải thông tin, mà còn là công cụ để con người sử
dụng nhằm đạt được các mục đích khác nhau. Trong đó Searle đã xếp hành

động thỉnh cầu vào nhóm khuyến lệnh (directives).
Theo Searle, nhóm “khuyến lệnh” (directives) bao gồm những “cố
gắng” của người nói (ở các mức độ khác nhau) sao cho người nghe thực
hiện một hành động nào đó. Những “cố gắng” này có thể ở mức độ thông
thường, ví dụ như ta nhờ, gợi ý ai giúp đỡ mình việc gì, nhưng cũng có thể
là những “cố gắng” ở mức độ cao như khi ta có thái độ cương quyết, buộc
ai đó phải hành động hay không được hành động.
4
Đối với mỗi ngôn ngữ
có những cách riêng để bày tỏ sự thỉnh cầu, những cách thức đó tương ứng
với đặc trưng văn hóa của dân tộc mà ngôn ngữ đó được sử dụng. Trong
tiếng Nhật, điều này được thể hiện chủ yếu dưới dạng câu hỏi, câu điều
kiện, câu mời… và câu mệnh lệnh ít được sử dụng. Còn trong tiếng Việt,
để thực hiện hành vi thỉnh cầu người ta cũng thường dùng các loại câu
tương tự như của tiếng Nhật song khác nhau về mức độ.
4
TS Nguyễn Văn Độ, Hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt (Dưới ánh sáng đối liên văn
hóa), Tạp chí ngôn ngữ số 2/2004.
15
Khi thỉnh cầu người nói bao giờ cũng muốn nhận được hành động
nào đó từ phía người nghe. Thỉnh cầu trong tiếng Anh là “request”, có
nghĩa là “thỉnh cầu”, “yêu cầu”, “đề nghị” ai thực hiện một hành động nào
đó nhưng không mang sắc thái bắt buộc hay gò ép từ phía người nói, mà là
trông chờ vào lòng tốt, sự tự nguyện và trách nhiệm đương nhiên phải
hoàn thành điều được yêu cầu của người nói, đặc biệt với nét nghĩa “thỉnh
cầu”. “Request” trong tiếng Nhật theo Đại từ điển Nhật – Anh thì
“request” được dịch tương đương với “irai” 依頼, có nghĩa là sự nhờ vả,
dựa vào (新和英大頼典、第五番、株式頼社頼究社, 2003, tr.140). Khái
niệm “irai” đã được làm rõ nghĩa hơn trong định nghĩa của Gamatani 蒲
谷: “hành vi nhờ vả (thỉnh cầu) là hành vi của chủ thể có ý chí mong muốn

đối phương thực hiện hành động mang lại lợi ích cho bản thân (người nói),
nhằm khiến đối phương (người nghe) thực hiện hành động đó. Đối phương
(người nghe) có quyền quyết định hành động hay không hành động. Nó có
cơ cấu là việc bản thân (người nói) nhận được lợi ích nhờ vào hành động
của đối phương.”
5

Nhiều tác giả phương Tây cho rằng hành động thỉnh cầu tiềm tàng
nguy cơ đe dọa thể diện, ngăn cản sự tự do hành động của người nghe.
Chẳng hạn Brown và Levinson (1978), cũng coi hành động này ẩn giấu
nguy cơ làm mất thể diện và đe doạ thể diện “âm tính” (negative face)
6
của
người nghe. Vì vậy lời thỉnh cầu vốn chứa đựng những yếu tố làm mất thể
diện, phải được xem xét một cách kỹ lưỡng sao cho thật mềm mại, dễ nghe
nhằm giảm bớt, xoá đi nguy cơ đẩy người nghe vào vị trí khó xử, làm mất
5
頼 美麗、依頼における「お頼び頼謝罪型」表現に頼する考察-日本語母語話者と台頼人日本
語頼習者を頼象に-tr.63、NII Electronic Library Service.
6
Theo J. Thomas “thể diện âm tính” (negative face) là mong muốn không bị can thiệp, mong muốn được
hành động tự do theo như cách mình đã chọn.
16
thể diện của người nghe. Bên cạnh đó, theo các nhà ngôn ngữ phương
Đông như ngôn ngữ tiếng Việt hay tiếng Nhật… còn nhiều yếu tố văn hoá
đặc thù tham gia vào lời thỉnh cầu.
Bởi vậy, các học giả phương Tây hoàn toàn có lý khi nhận định rằng
tính thể diện liên quan mật thiết đến lời thỉnh cầu nhưng điều đó còn phụ
thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa người nghe và người nói, vào bối
cảnh, vào sức nặng của điều mà người nói yêu cầu, và quan trọng hơn cả là

lời thỉnh cầu phụ thuộc rất nhiều vào bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng.
Đã có một số nhà nghiên cứu Việt Nam như Nguyễn Quang,
Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp… đề cập khá đầy đủ đến hành
động thỉnh cầu và hầu hết các tác giả này đều sử dụng thuật ngữ “cầu
khiến” để chỉ tất cả các phát ngôn trong nhóm khuyến lệnh với tất cả cung
bậc khác nhau của nó từ “ra lệnh”, “chỉ huy”, “sai bảo” đến “yêu cầu”,
“nhờ”, “bảo”, “mời”, “khuyên bảo”, “nài nỉ”, “cầu xin”, “van lạy”… Ví dụ
trong tiếng Việt và tiếng Nhật, khi muốn thỉnh cầu ai đó làm gì sẽ dùng
những loại câu mệnh lệnh như:
- Yêu cầu anh không hút thuốc ở đây!
-
ここ で タ バコ を吸 わ ないで ください 。
(kokode tabakowo
suwanaidekudasai.)
hay loại câu nhờ vả:
- Chị mua hộ tôi ít hoa nhé!
-
花を買ってくれますね。
(hana wo katte kuremasune.)
Để tiện cho việc trình bày, trong luận văn này, tôi xin dùng cụm từ
“lời thỉnh cầu” với các nét nghĩa như trên làm thuật ngữ đại diện chung.
Đồng thời đưa ra một số tiêu chí để nhận diện và phân loại chúng.
17
1.3. Phân loại lời thỉnh cầu
Như trên đã đề cập, các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa cũng
như các yếu tố tác động đến ngôn ngữ, tư duy và văn hóa trong giao tiếp,
cũng như sự đa dạng của hình thức và chức năng của ngôn ngữ. Dựa trên
các phân tích về nội dung của câu, cũng như các dữ liệu tham khảo được,
tôi đi đến mong muốn đưa ra một số tiêu chí phân loại lời thỉnh cầu trong
tiếng Việt và tiếng Nhật cả về hình thức, nội dung và chức năng ngữ pháp.

Trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Nhật, xét theo nội dung thì lời
thỉnh cầu thường xuất hiện dưới các dạng như: mời mọc, yêu cầu, mệnh
lệnh, cấm đoán. Loại mời mọc, yêu cầu thường có các từ kèm theo như: đi,
thôi, nào, nghe ở cuối câu, các từ yêu cầu, mời, hãy, cứ, xin mời, cho phép,
cho, đề nghị… đặt ở đầu câu.
7
Ví dụ:
Trong cách thể hiện lời mời:
- Xin mời chị vào!
- Mời em ở lại chơi chút nữa.
- Cứ tới đi, đừng ngại nhé!
Trong cách thể hiện lời yêu cầu:
- Yêu cầu anh ra ngoài!
- Đề nghị mọi người giữ trật tự!
- Cho tôi xin cốc nước!
Trong hình thức thể hiện câu mệnh lệnh, cấm đoán: biểu đạt ý nghĩa này
thường dùng các phương tiện hư từ như hãy, đừng, chớ, thay, không nên
(cần), không được đi, từ thực: cấm, và phương tiện ngữ điệu câu. Ví dụ:
7
Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Viêt – Câu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980, tr.
280.
18
- Hãy cố lên!
- Đừng nói như thế!
- Cấm hút thuốc ở đây!
- Không được nói chuyện riêng trong lớp!
- Anh đi đi!
Cũng tương tự như tiếng Việt, lời thỉnh cầu trong tiếng Nhật được chia
thành các loại nhỏ hơn như loại biểu thị ý mời, rủ, yêu cầu, đề nghị, mệnh
lệnh…

8
Ví dụ:
-
お茶をどうぞ。
Ocha wo douzo (ý mời)
Mời anh/ chị uống trà.
-
明日暇なら、映頼館に行きませんか
。(lời rủ)
Ashita himanara, eigakan ni ikimasenka
Nếu mai rảnh thì đi xem phim không?
-
早く起きてください
。(mệnh lệnh)
hayaku okitekudasai
Hãy dạy sớm!
Qua một số ví dụ cụ thể kể trên, có thể thấy trong lời thỉnh cầu mang
những sắc thái và ý nghĩa, cấp độ và cấu trúc ngôn ngữ đa dạng mang đặc
trưng văn hoá của ngôn ngữ được thể hiện khác nhau trong tiếng Việt và
tiếng Nhật
8
Mai Ngọc Chừ, Các ngôn ngữ phương Đông, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội , 2001, tr. 129.
19
Trong giao tiếp ngôn ngữ, đôi khi phát ngôn bị đánh giá là khiếm
nhã, thiếu thận trọng, suồng sã, hoặc tế nhị, sâu sắc, lịch thiệp… Đặc biệt
khi thực hiện hành vi thỉnh cầu - hành vi mang tính đe doạ thể diện cao
(như đã trình bày ở mục 1.2). Để nghiên cứu tác động của nó, chúng tôi
dùng khái niệm lịch sự.
1.4. Tính lịch sự trong giao tiếp và tính lịch sự trong lời thỉnh cầu
tiếng Việt và tiếng Nhật

Khái niệm “lịch sự”, từ lâu đã không còn xa lạ trong ngôn ngữ học.
Lịch sự thường được xem là một đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học
9
,
mặc dù thực ra cũng có thể, và cần thiết phải khảo sát kĩ lưỡng hơn từ các
góc độ của ngôn ngữ học xã hội, của ngôn ngữ học – văn hoá (cultural
linguistucs), ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics)…
Cách hiểu về lịch sự trong tiếng Nhật cực kì phức tạp và thiếu thống
nhất. Michael Haugh
10
cho biết, thuật ngữ Politeness được coi là tương
đương với
丁寧
Teinei hay
頼儀正しい
Reigitadashii (Dẫn lại [48]).
Trong giao tiếp những người tham gia hội thoại có thể chọn cách sử
sự cho phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của người tham gia giao tiếp.
Nói lịch sự là chiến lược có nghĩa là nó chỉ hình thành, có mặt và phát huy
tác dụng khi có sự tương tác (sự tác động qua lại của các vai trong giao
tiếp).
Theo các lí thuyết về lịch sự của các học giả như của R. Lakoff và
G.N. Leech, Brown và Levinson… thì các qui tắc lịch sự mang tính không
được áp đặt trong các hoàn cảnh giao tiếp giữa những người tham gia
tương tác mà có khác biệt về quyền lực, cương vị. Nói một cách tổng quát,
9
Ngữ dụng học (linguistic pragmatics) là bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp, tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong những ngữ cảnh cụ thể.
10
Giảng viên trường đại học Griffith (Australia), là chuyên gia giảng dạy cả tiếng Anh lẫn tiếng Nhật.

20
trong một số nền văn hoá Á Đông như Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc…
những người tham gia hội thoại có thể dùng những từ ngữ đặc biệt như
kính ngữ, hoặc các tiểu từ tôn xưng người đối thoại và tự hạ mình xuống
để bày tỏ sự tôn kính. Ví dụ :
-
すみませんが、時間を割いていただけませんか。
- Xin lỗi, anh có thể dành cho tôi chút thời gian không?
Trong ví dụ trên thì người Nhật dùng kính ngữ được thể hiện ở dạng
đuôi của động từ cho nhận
~ていただけませんか
~te itadakemasenka.
Đây là cách thể hiện lịch sự mang đặc thù của tiếng Nhật. Hơn nữa mức độ
lịch sự còn được đẩy lên cao hơn khi từ
すみません
sumimasen (xin lỗi)
được dùng ngay đầu câu trước khi đưa ra lời thỉnh cầu và đã sử dụng cách
nói phủ định nghi vấn để thỉnh cầu. Tiếng Việt cũng có sử dụng từ “xin
lỗi” để tỏ ý lịch sự nhưng không có nhóm động từ cho nhận như của tiếng
Nhật.
Trong sự tương tác mang tính khuyến khích tình cảm cũng không
thể bỏ qua yếu tố lịch sự. Ngay cả với những người yêu nhau cũng đối xử
với nhau theo chuẩn mực nào đó. Trong phép lịch sự thân tình mọi chuyện
đều có thể đem ra bàn luận, chia sẻ và dùng những từ thân thuộc kể cả biệt
danh để gọi nhau. Tức là, trong tương tác giao tiếp cần có sự thoả thuận
nào đó mà cả người nói và người nghe đều chấp thuận nó. Như vậy, điều
kiện tiên quyết của hoạt động lịch sự là khi tiến hành hành vi thỉnh cầu,
chúng phải được tính toán mức độ hiệu lực đe dọa thể diện của lời nói. Tục
ngữ Pháp có câu: “cái quá là khuyết tật” và tục ngữ Việt Nam cũng có câu:
“Thái quá thành bất cập”. Hay trong tục ngữ Nhật có câu : “ 親しき仲に

も 頼 儀 あり ”   (shitashikinakanimo reigiari) tức là “ngay cả với người
21
thân cũng phải giữ lễ nghĩa”. Như vậy, lịch sự là hiện tượng có tính phổ
quát đối với mọi xã hội trong mọi lĩnh vực tương tác. Lịch sự trước hết là
vấn đề văn hoá, mang tính đặc thù của từng nền văn hoá. Xã hội nào cũng
phải lịch sự, có điều cái gì lịch sự, đến mức độ nào là lịch sự, biểu hiện thế
nào là lịch sự lại bị quy định bởi riêng từng nền văn hoá một.
• Quan niệm về tính lịch sự
Lịch sự là một nhân tố quan trọng trong giao tiếp xã hội. Nó có tác
động chi phối không những đối với quá trình giao tiếp mà cả đối với kết
quả giao tiếp. Nhiều nhà nghiên cứu ngữ dụng học coi lịch sự như một
nguyên tắc giao tiếp bên cạnh nguyên tắc hợp tác (cooperative principle)
trong hội thoại và gọi là nguyên tắc lịch sự (principle of politeness)… Bàn
về lịch sự, có rất nhiều định nghĩa về lịch sự như:
Theo Lakoff định nghĩa thì: “lịch sự như là một phương thức để
giảm thiểu sự xung đột trong diễn ngôn (…); Những chiến lược lịch sự có
nhiệm vụ đặc biệt là làm cho cuộc tương tác được thuận lợi.” (Dẫn lại [5,
258])
Theo Leech thì phép lịch sự có các chức năng như giữ gìn sự cân
bằng xã hội và quan hệ bạn bè, những quan hệ này khiến chúng ta có tin
rằng người đối thoại với chúng ta tỏ ra trước hết là cộng tác với chúng ta.
(Dẫn lại [5, 261])
Theo Brown và Levinson và một số học giả người Nhật như Ide
1989, Usami 2001… thì lịch sự là hành vi né tránh đối đầu, thúc đẩy giao
tiếp trôi chảy.
11

Có thể thấy có rất nhiều quan niệm, cách hiểu về lịch sự. Cho dù
vấn đề lịch sự và lí thuyết lịch sự đã trở nên quen thuộc đối với giới nghiên
11

TS Hoàng Anh Thi, Đặc trưng lịch sự - Đặc trưng văn hóa trong tiếng Nhật, Ngôn ngữ số 11, 2007,
tr.28.
22
cứu ngữ dụng học, thì điều này không có nghĩa là đã có một sự thống nhất
trong cách hiểu và quan niệm về lịch sự. Ngược lại, càng áp dụng lí thuyết
vào nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể (case study), người ta càng thấy nảy
sinh nhiều vấn đề, nhất là khi những vấn đề này không phải là biểu hiện ở
bề mặt ngôn ngữ, không phải là vấn đề tự nó, mà lại thuộc bản chất, đặc
trưng văn hoá qui định nó. Trong các lí thuyết về lịch sự, có ba quan điểm
tương đối hoàn chỉnh và có những hiệu quả nhất định đối với việc nghiên
cứu lịch sự là: quan điểm của R. Lakoff, của G.N. Leech và của P. Brown
và S. Levinson.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi chủ trương đi theo
lí thuyết lịch sự của Brown và Levinson. Brown và Levinson xây dựng nên
lí thuyết về lịch sự của mình năm 1978 trong cuốn Politeness – Some
Universals in language Usage. Đây là lí thuyết hiện nay được xem là nhất
quán nhất, có ảnh hưởng rộng rãi nhất, có hiệu quả nhất đối với việc
nghiên cứu về phép lịch sự này. Theo Brown và Levinson, lịch sự có hai
mặt là lịch sự dương tính và lịch sự âm tính.
Brown và Levinson xây dựng lí thuyết của mình trên khái niệm thể
diện (face) mượn của Goffman. Để hiểu được lịch sự dương tính và lịch sự
âm tính ta cần hiểu khái niệm thể diện, thể diện dương tính và thể diện âm
tính.
Thể diện được Brown và Levinson định nghĩa là: “hình ảnh-về-ta
công cộng mà mỗi thành viên (trong xã hội) muốn mình có được” (“Face”
the public self-image that every member wants to claim for himself) (Dẫn
lại [5, 263]). Thể diện lại gồm hai phương diện: thể diện âm tính và thể
diện dương tính. Điều này rất quan trọng khi xem xét đối chiếu về tiếng
Việt và tiếng Nhật qua lời thỉnh cầu.
23

Thể diện âm tính của một người là nhu cầu được độc lập, được tự
do hành động và không bị người khác áp đặt. Thể diện dương tính của
một người là cái nhu cầu được chấp nhận, thậm chí được yêu thích bởi
người khác, được đối xử như là thành viên của cùng một nhóm xã hội và
nhu cầu được biết rằng mong muốn của mình cũng được người khác chia
sẻ.
Nói đơn giản thì thể diện âm tính là nhu cầu được độc lập còn thể
diện dương tính là nhu cầu được liên thông với người khác.Về cơ bản, thể
diện dương tính hàm chỉ nhu cầu được chấp thuận, công nhận, tán thưởng
và tôn trọng, còn thể diện âm tính chỉ mong muốn được tự do hành động
theo sở thích và mong muốn cá nhân. Thí dụ khi đưa ra thỉnh cầu dưới
dạng câu hỏi về khả năng:
- Anh/chị có thể mở cửa cho tôi được không?
-
ドアを開けてもれえますか。(
doa wo aketemoraemasuka?

thay vì sử dụng một câu mệnh lệnh như:
- Mở cửa ra!
-
ドアを開けて
! (doa wo akete!)
người nói đã để ý đến thể diện âm tính của người nghe bằng cách giảm nhẹ
tính áp đặt của yêu cầu lên người nghe và vì thế được coi là lịch sự.
Brown và Levinson nhấn mạnh rằng trong quá trình giao tiếp, người
tham gia giao tiếp phải luôn quan tâm đến hai mặt trên của thể diện để
tránh thực hiện những hành động đe doạ thể diện (face threatening act).
Hai thể diện âm tính và dương tính là hai mặt bổ sung cho nhau chứ
không phải là hai mặt tách biệt. Hai thể diện này phát huy tác dụng theo lối
24

“cộng sinh” với nhau, có nghĩa là một sự vi phạm thể diện âm tính cũng
đồng thời làm mất thể diện dương tính.
Yule kết gắn khái niệm “lịch sự dương tính” (LSDT) với khái niệm
“thân hữu” (solidarity) hay sự thân tình, tính thân hữu, một hàm chỉ gián
tiếp của sự mờ nhạt về quyền lực và gần gụi về khoảng cách giữa các đối
tác giao tiếp. Theo ông, “một hành động giữ gìn thể diện có liên quan đến
LSDT của ta sẽ có xu hướng tỏ ra thân tình: nó nhấn mạnh rằng cả hai
người đều mong muốn cùng một điều, và rằng họ có cùng một mục đích.
Đây cũng được gọi là LSDT.”
12
LSDT hướng vào thể diện dương tính của người tiếp nhận, chú ý
đến mục đích chung, đến tình thân hữu. Các hình thức LSDT nhấn mạnh
vào sự gần gũi giữa người nói và người nghe.
Lịch sự âm tính (LSAT) (negative politeness) hướng vào thể diện
âm tính, vào lãnh địa của đối tác. Nói cụ thể hơn, lịch sự âm tính có tính né
tránh, có nghĩa là tránh không dùng những “hành vi đe doạ thể diện” hoặc
bù đắp, giảm nhẹ hiệu lực của các “hành vi đe doạ thể diện” khi không thể
không dùng chúng. LSAT thể hiện ở những hình thức xin lỗi, viện lí do, để
người nghe có quyền lựa chọn hành động. Trong hội thoại thì chiến LSAT
còn xuất hiện ở cách nói ngập ngừng, lưỡng lự. Nhất là khi thực hiện hành
vi thỉnh cầu thì yếu tố lịch sự thực sự không thể thiếu nếu như người tham
gia giao tiếp không muốn giao tiếp bị ngưng trệ, gián đoạn.
• Quan niệm về lịch sự trong tiếng Nhật
Theo nghiên cứu của Yuka Shigemitsu, Yasumi Murata, Yoko
Otsuka thì “trong giao tiếp ngôn ngữ, các nghiên cứu về ngôn ngữ của
tiếng Nhật và các hệ thống nhân tố liên quan đến quá trình hình thành và
12
TS Nguyễn Quang, Các chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp, Tap chí ngôn ngữ số 11, 2002,
tr. 48.
25

×