Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn một số đối sách của trung quốc khi bị kiện bán phá giá từ phía nước ngoài bài học kinh nghiệm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.45 KB, 101 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Lu Lệ Quyên
Trung 1 K38E 1
MC LC


Trng i hc ngoi thng H Ni
khoa kinh t ngoi thng
*

đại học ngoại thơng
hà nội


KHO LUN TT NGHIP


Ti:

Mt s i sỏch ca Trung Quc khi b kin bỏn phỏ giỏ t phớa nc
ngoi. Bi hc kinh nghim i vi Vit Nam.





Sinh viờn thc hin : Lu L Quyờn - Trung 1- K38

Giỏo viờn hng dn : Th.S. Nguyn Xuõn N










H NI - 2003
A.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 2

Trang

Lời nói đầ
u
1
Chương I. Cơ sở lý luận cơ bản về bán phá giá và chống bán phá
giá 3
I. Những lý luận cơ bản về bán phá giá. 3
1. Khái niệm về bán phá giá 4
2. Phân loại bán phá giá . 10
3. Mục đích của bán phá giá hàng hóa ra nước ngoài. 11
II. Những lý luận cơ bản về chống bán phá giá. 13
1. Mục đích của biện pháp chống bán phá giá . 13
2. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
14
3. Xu hướng phát triển của chống bán phá giá . 19
Chương II: Thực trạng Trung Quốc bị kiện bán phá giá trong 30

những năm gần đây.
I.Thực trạng nước ngoài kiện Trung Quốc bán phá giá. 30
1. Khái quát về tình hình xuất khẩu của Trung Quốc. 30
2. Thực tế Trung Quốc bị kiện bán phá giá thời gian qua 33
và khuynh hướng phát triển của các biện pháp chống bán phá giá
đối với hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc trong thời gian tới.
II. Nguyên nhân Trung Quốc bị kiện bán phá giá. 40
1. Nguyên nhân khách quan. 40
2. Nguyên nhân chủ quan. 43
III. Một số đối sách của Trung Quốc khi bị kiện bán phá giá 45
hàng hoá ra nước ngoài.
1.Hậu quả các vụ kiện bán phá giá đến nền kinh tế Trung Quốc. 45
2.Nguyên nhân thua kiện. 48
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 3
3.Một số đối sách của Trung Quốc. 53
CHƯƠNG III: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc 62
giải quyết các vụ kiện bán phá giá .
I. Khái quát các vụ kiện Việt Nam bán phá giá 62
1. Thực trạng các vụ kiện Việt Nam bán phá giá. 62
2. Cách thức các nước tiến hành điều tra và đánh thuế chống bán 67
phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam.
3. Những khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp 69
bán phá giá
II. Bài học kinh nghiệm với Việt Nam trong vấn đề phòng và chống 71
bị kiện bán phá giá
1. Về phía chính phủ. 71
2. Về phía doanh nghiệp. 80
A. Kết luận.

93
Phụ lục. 94
Danh mục tài liệu tham khảo. 95


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 4
LỜI NÓI ĐẦU.

1.Lí do lựa chọn đề tài.

Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và cạnh tranh thương mại ngày càng
quyết liệt như hiện nay, bán phá giá và chống bán phá giá đã trở thành vấn đề
được nhiều nước quan tâm, mà Trung Quốc là một trong số đó. Ngay từ
những năm đầu cải cách và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, hàng hoá xuất
khẩu của Trung Quốc đã gặp rào cản chống bán phá giá của các quốc gia trên
thế giới. Vì vậy, trong nhiều năm qua các cơ quan có thẩm quyền và các
doanh nghiệp Trung Quốc đã nỗ lực nghiên cứu, xem xét vấn đề này và đưa
ra những đối sách phù hợp, có hiệu quả cao.
Cùng chung đường biên giới với Trung Quốc, Việt Nam trong một số năm
gần đây cũng bắt đầu phải đối mặt với các vụ kiện bán phá giá hàng hoá xuất
khẩu Việt Nam từ phía nước ngoài. Tuy số vụ kiện Việt Nam bán phá giá
không đáng kể so với Trung Quốc nhưng giá trị của các vụ kiện có xu hướng
tăng dần, nhất là trong vụ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, basa gần đây, các
doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam đã chịu tổn thất nặng nề. Thực
tế này đặt ra cho Việt Nam vấn đề là cần có sự quan tâm tìm hiểu nghiên cứu
thích đáng đối với bán phá giá và chống bán phá giá nhằm đưa ra những biện
pháp phòng ngừa và giải quyết kịp thời
Do có nhiều nét tương đồng về hoàn cảnh, điều kiện kinh tế với Việt Nam

và những kinh nghiệm trải qua vô số các vụ kiện bán phá giá, những bài học
và đối sách của Trung Quốc khi gặp các vụ kiện xứng đáng để các cơ quan có
thẩm quyền và các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu và học tập. Chính vì
vậy, em đã chọn đề tài: “Một số đối sách của Trung Quốc khi bị kiện bán phá
giá từ phía nước ngoài. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” với mong
muốn thông qua phân tích tình hình bị kiện chống bán phá giá và các đối sách
của Trung Quốc có thể đưa ra một số kiến nghị về giải pháp đối với cơ quan
có thẩm quyền và các doanh nghiệp Việt Nam.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 5

2. Mục đích nghiên cứu.
Giới thiệu những vấn đề cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá cùng
với những mặt tích cực và hạn chế của chúng; từ đó đi sâu nghiên cứu thực
trạng bị kiện chống bán phá giá và các đối sách từ phía chính phủ và các
doanh nghiệp Trung Quốc. Trên cơ sở như vậy rút ra một số bài học kinh
nghiệm đề xuất cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận tập trung nghiên cứu và phân tích tình hình xuất khẩu và thực tế
bị kiện chống bán phá giá của Trung Quốc trong thời gian qua, các đối sách
mà chính phủ và các doanh nghiệp Trung Quốc đưa ra. Bên cạnh đó cũng đi
vào nghiên cứu một số nét nổi bật của thực trạng bị kiện bán phá giá của Việt
Nam trong mấy năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện những nội dung trên, người viết đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu sau :
 Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu.
 Phương pháp thống kê học đơn giản.
 Phương pháp lý luận biện chứng.

5. Nội dung nghiên cứu.
Với mục đích nghiên cứu như trên, đề tài sẽ bao gồm các phần :
 Chương I : Cơ sở lí luận về bán phá giá và chống bán phá giá.
 Chương II : Thực trạng Trung Quốc bị kiện chống bán phá giá trong
những năm gần đây.
 Chương III : Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc giải
quyết các vụ kiện bán phá giá.
Do thời gian và trình độ hạn chế, đề tài này chắc chắn không tránh khỏi
thiếu sót, em mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thày cô.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 6
Em xin chân thành cảm ơn Th.S. Nguyễn Xuân Nữ, giảng viên khoa
KTNT đã hướng dẫn em trong quá trình thực hiện đề tài này.
CHƯƠNG I

NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ

I. Những lí luận cơ bản về bán phá giá.
Trong thương mại quốc tế, hành động bán phá giá có lẽ xuất hiện từ rất lâu
trước khi người ta định nghĩa được từ “ bán phá giá”. Vào thế kỷ 16-17, đó là
một trong những biện pháp chiếm đoạt thị trường của đế quốc Anh, về sau
bán phá giá được một loạt các nước TBCN mới nổi bắt chước thực hiện, nên
tạo ra cản trở vô cùng lớn đến sự phát triển bình thường của thương mại thế
giới. Bán phá giá được sử dụng ngày một mạnh mẽ đã gây không ít tổn thất
cho nền sản xuất của các nước nhập khẩu. Do vậy, đầu thế kỷ 20 các nước
phương tây đã liên tiếp soạn thảo luật chống bán phá giá của nước mình.
Canada là nước đầu tiên cho ra đời bộ luật chống bán phá giá vào năm 1904.
Nước Mỹ ngay trong Luật thuế quan 1916 đã có điều khoản liên quan đến
chống bán phá giá. Chính các luật chống bán phá giá của các nước và thực

tiễn thương mại đã tạo tiền đề cần thiết cho sự hình thành một bộ luật quốc tế
thống nhất về chống bán phá giá. Năm 1948, hiệp định chung về thuế quan và
thương mại- GATT- được kí kết với nguyên tắc cơ bản là cạnh tranh công
bằng, nhấn mạnh vào thúc đẩy tự do hoá thương mại toàn cầu. Mà việc phản
đối sử dụng các hành động cạnh tranh bất bình đẳng như bán phá giá là điều
thiết yếu để thực hiện được tiến trình này. Nội dung chống bán phá giá đã
được đề cập tới trong điều VI của GATT. Tuy nhiên, điều VI GATT là một
điều khoản mang tính quy định, muốn áp dụng vào thực tiễn cần phải có một
bộ luật quy định cụ thể hơn. Trên cơ sở đó, ở hiệp Kenedy (1964-1967) các
bên đã kí kết "Hiệp định chống bán phá giá ", hiệp Tokyo (1973-1979) tiếp
tục đưa ra quy tắc chung về chống bán phá giá, đến hiệp Urugoay (1986-
1994) vấn đề về bán phá giá và chống bán phá giá đã được thống nhất khi các
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 7
quốc gia thành viên WTO cùng nhau đặt bút ký vào "Hiệp định thực thi điều
VI của hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994" hay còn gọi là
"Hiệp định chống bán phá giá của WTO". Hiệp định trở thành quy phạm luật
quốc tế có hiệu lực với tất cả các thành viên WTO. Khi một nước tiến hành
kiện nước khác bán phá giá thì không chỉ áp dụng luật chống bán phá giá của
chính nước đó mà đồng thời còn phải tuân thủ các quy tắc chống bán phá giá
của WTO, giữa luật của quốc gia và quy tắc chống bán phá giá không được có
sự mâu thuẫn. Tuy nhiên, do hiệp định có nhiều kẽ hở về vấn đề tự vệ và việc
đối phó với sự lẩn tránh các biện pháp chống bán phá giá nên trong thực tiễn
thương mại hiện nay chống bán phá giá đang bị các nước, đặc biệt là các nước
phát triển lợi dụng để bảo hộ cho nền sản xuất trong nước. Do đó, đối với một
doanh nghiệp xuất khẩu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới khi đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hoá thì một vấn đề không thể bỏ qua là phải nghiên cứu về
luật chống bán phá giá của các quốc gia, các thị trường mà mình muốn thâm
nhập để tránh nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Trong các

luật chống bán phá giá thì không thể không nhắc đến " Hiệp định thực thi điều
VI GATT 1994", cùng luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Liên minh Châu
Âu, nước và khu vực thị trường lớn nhất thế giới. Ta sẽ lần lượt nghiên cứu
vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá được đề cập tới trong các luật trên.

1/ Khái niệm về bán phá giá.
Theo điều VI của GATT, bán phá giá là mang sản phẩm của một nước
này sang bán ở nước khác với một mức giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông
thường của sản phẩm đó khi bán ở thị trường nội địa của nước xuất khẩu.
Như vậy, điểm cốt lõi của bán phá giá không phải là bán với giá rẻ mà
chính là sự khác biệt về giá giữa giá xuất khẩu với giá bán trên thị trường nội
địa. Một nước có thể xuất khẩu hàng hoá sang nước khác với giá rẻ hơn hàng
hoá cùng loại đang bán trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán không
thấp hơn giá bán của hàng hóa trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 8
đó không phải là bán phá giá.Ta cũng có thể thấy rõ điều này qua khái niệm
về bán phá giá được quy định trong luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ hay
Liên minh Châu Âu.Theo luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ thì một hàng
hoá được xem là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu trung bình được điều
chỉnh thấp hơn giá bán trung bình được điều chỉnh của hàng hoá tương tự
hoặc cùng loại tại thị trường trong nước hoặc thị trường của nước thứ ba. Vậy
việc xác định bán phá giá được thực hiện bằng cách so sánh giá xuất khẩu của
sản phẩm đó với "giá trị công bằng" do Bộ thương mại Hoa Kỳ áp đặt.
Còn theo luật chống bán phá giá của liên minh Châu Âu, bán phá giá được
phân biệt với một hành vi đơn giản là bán hạ giá, vốn là kết quả của việc giảm
chi phí hay tăng năng suất. Tiêu chí cơ bản trong lĩnh vực này, trên thực tế, là
không có mối quan hệ giữa giá của sản phẩm xuất khẩu và giá trên thị trường
của nước nhập khẩu mà là mối quan hệ giữa giá của sản phẩm xuất khẩu và

giá trị thông thường. Do đó, một sản phẩm bị coi là phá giá nếu như giá xuất
khẩu của nó vào Cộng đồng thấp hơn giá so sánh của sản phẩm tương tự trong
quá trình kinh doanh thông thường trong phạm vi của nước xuất khẩu.
Nhìn chung, các luật chống bán phá giá đều có những quy định tương tự
trong đó xác định một hàng hoá bán phá giá thông qua so sánh giữa giá xuất
khẩu và giá thông thường. Vậy để hiểu rõ hơn về khái niệm bán phá giá, ta sẽ
đi sâu nghiên cứu về giá xuất khẩu và giá trị thông thường.

1.1/ Giá trị thông thường.
Theo hiệp định chống bán phá giá năm 1994 của WTO thì giá trị thông
thường nói chung là giá của sản phẩm tương tự được bán trên thị trường nội
địa của nước xuất khẩu đến người tiêu dùng trong quá trình thương mại
thông thường.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề phức tạp nhất trong điều tra bán phá
giá là liệu việc tiêu thụ trên thị trường nội địa có được "thực hiện trong quá
trình thương mại thông thường" hay không? Một trong những cơ sở để xác
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 9
định điều đó là so sánh giá bán trên thị trường nội địa với chi phí. Hiệp định
quy định những trường hợp cụ thể mà việc tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội
địa với giá thấp hơn chi phí của quá trình sản xuất sẽ không được coi là " thực
hiện trong quá trình thương mại bình thường". Theo điều 2 thì đó là khi hàng
hoá được bán với giá thấp hơn chi phí cố định, chi phí biến đổi cộng chi phí
hành chính, chi phí bán hàng, chi phí khác trong khoảng thời gian kéo dài
(thường là một năm trong bất kì trường hợp nào cũng không ít hơn sáu tháng)
và với một số lượng đáng kể. Số lượng hàng bán được thực hiện với số lượng
đáng kể khi: (1) giá bán bình quân gia quyền thấp hơn chi phí bình quân gia
quyền; (2) chiếm 20% lượng tiêu thụ được sử dụng để xác định giá trị thông
thường.

Và số lượng hàng bán thấp hơn chi phí cũng không được tính đến khi xác
định giá trị thông thường khi chúng không cho phép thu hồi chi phí trong thời
gian hợp lí. Song nếu hàng bán thấp hơn chi phí nhưng cao hơn chi phí bình
quân gia quyền trong suốt quá trình điều tra thì hiệp định công nhận là cho
phép thu hồi chi phí trong khoảng thời gian hợp lí.
Tuy nhiên, việc loại trừ những khối lượng hàng bán thấp hơn chi phí có
thể tạo ra một mức độ khối lượng bán hàng không đủ để xác định giá trị thông
thường dựa trên giá cả thị trường nội địa. Điều này sẽ không cho phép một sự
so sánh chính xác giữa giá thị trường nội địa và giá xuất khẩu. Vì vậy, trong
hiệp định quy định rằng khối lượng hàng bán ở thị trường nội địa phải bằng ít
nhất 5% lượng xuất khẩu của sản phẩm đó tại thị trường nước nhập khẩu, tuy
nhiên một tỉ lệ thấp hơn "nên" được chấp nhận nếu khối lượng hàng bán ở thị
trường nội địa ở tầm cỡ đủ để đưa ra sự so sánh công bằng.
Trong trường hợp việc bán hàng ở thị trường nước xuất khẩu không phải
là cơ sở chính xác, ví dụ không có sản phẩm tương tự được bán trên thị
trường nội địa của nước xuất khẩu hoặc khối lượng bán hàng ở thị trường nội
địa thấp hơn 5% khối lượng xuất khẩu, thì việc xác định giá trị thông thường
sẽ căn cứ vào:
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 10
 Giá mà sản phẩm được bán cho nước thứ ba. ()
 Trị giá cấu thành của sản phẩm. ()
(): Giá đó được xác định là giá có thể so sánh được của sản phẩm tương
tự khi xuất khẩu đến nước thứ ba thích hợp, miễn là giá đó được coi là tiêu
biểu. Hiệp định không chỉ rõ bất cứ tiêu chuẩn nào để xác định nước thứ ba
như thế nào là thích hợp.
(): Trị giá cấu thành được xây dựng gồm ba bộ phận:
 Chi phí sản xuất ( nguyên vật liệu, lao động, chi phí quản lí sản xuất )
 Chi phí quản lí và bán hàng nội địa.

 Một giới hạn lãi hợp lí.
Ngoài ra, khi sản phẩm không được nhập trực tiếp từ nước sản xuất mà
được xuất khẩu từ một nước trung gian, hiệp định quy định rằng giá trị thông
thường sẽ được xác định trên cơ sở khối lượng bán hàng trên thị trường nước
xuất khẩu. Tuy nhiên, hiệp định nhận thấy điều này sẽ tạo ra sự so sánh không
chính xác hoặc không thể so sánh được ví dụ nếu sản phẩm không được sản
xuất hoặc sản phẩm chỉ được chuyển tải qua nước xuất khẩu. Vì vậy, giá trị
thông thường có thể được xác định trên cơ sở giá của sản phẩm ở nước xuất
xứ chứ không phải giá ở thị trường xuất khẩu.
Với trường hợp đặc biệt của những nền kinh tế mà chính phủ hoàn toàn
hoặc thực tế là hoàn toàn độc quyền và tất cả giá cả trong nước đều được
quyết định bởi chính phủ - hay còn gọi là nền kinh tế phi thị trường - trong
điều 2 khoản 7 "Hiệp định chống bán phá giá 1994" quy định rằng một sự so
sánh chính xác với giá nội địa có thể không thích hợp, do đó nước nhập khẩu
thực hiện tuỳ theo ý mình trong tính toán giá trị thông thường của sản phẩm
xuất khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. Có thể thấy rõ - thế nào là
kinh tế phi thị trường - những tiêu chuẩn chính xác để xác định điều này đều
không được đưa ra trong hiệp định này. Điều khoản trên công nhận rằng chỉ
cần phương pháp dùng để xác định giá trị thông thường hợp lí, các nước
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 11
thành viên có thể dùng giá trị thị trường nội địa của một sản phẩm nhập khẩu
nào đó làm giá trị thông thường, hoặc dựa trên cơ sở giá cả của một sản phẩm
tương tự được sản xuất ở nước khác (nước thứ ba) xác định trị giá cấu thành
của sản phẩm này. Căn cứ vào quy định này các nước phát triển trong khi
điều tra chống bán phá giá sản phẩm nhập khẩu từ các nước kinh tế phi thị
trường đều lấy giá cả của một sản phẩm nào đó cùng loại của nước thứ ba làm
giá trị thông thường, hay chính là dựa trên cơ sở "nước thay thế" để phán
đoán. Có thể nói đây là một kẽ hở của hiệp định mà bị lợi dụng rất nhiều bởi

các nước phát triển như Mỹ, EU, Trong luật chống bán phá giá của EU chỉ
đơn giản liệt kê 15 nước như Trung Quốc, Nga, Mông Cổ vào danh mục các
nước có nền kinh tế phi thị trường và áp dụng "đãi ngộ đặc biệt" khi thực hiện
luật chống bán phá giá. Tính "đặc biệt" không những được thể hiện trong việc
xác định giá trị thông thường như trên mà còn thể hiện ở chỗ một khi việc bán
phá giá được xác định, thì tất cả các nhà xuất khẩu của nước có nền kinh tế
phi thị trường đều sẽ bị thu mức thuế chống bán phá giá đồng nhất, mà không
xem xét sự khác nhau về biên độ phá giá, giá xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Đến tháng 4 năm 1998 trong điều lệ 905/98, EU mới sửa đổi quy định trên
đối với Trung Quốc, Nga. Về mặt lí thuyết thì công nhận Trung Quốc là nền
kinh tế thị trường nhưng thực tế thì vị trí " kinh tế thị trường" của các doanh
nghiệp Trung Quốc chỉ được xác nhận khi các doanh nghiệp chủ động làm
đơn xin xét và đưa ra bằng chứng thoả mãn năm điều kiện về kinh tế thị
trường mà EU đặt ra. Tuy nhiên đến cuối tháng 5/2000 trong số hai mươi
bảydoanh nghiệp Trung Quốc nộp đơn thì chỉ có ba doanh nghiệp được công
nhận là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường bởi việc xét cụ thể quá
ngặt nghèo. Nói tóm lại, sự lỏng lẻo trong quy định về kinh tế phi thị trường
vô hình chung đã tiếp tay cho sự phát triển của chủ nghĩa bảo hộ, đi ngược lại
mục đích tốt đẹp ban đầu mà WTO đặt ra.

1.2/ Giá xuất khẩu.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 12
Sau khi đã xác định được giá trị thông thường của hàng hoá, bước tiếp
theo là phải xác định giá xuất khẩu của hàng hoá đó. Giá xuất khẩu thường sẽ
dựa trên giá giao dịch mà nhà sản xuất nước ngoài bán sản phẩm cho nhà
nhập khẩu ở nước nhập khẩu.
Nếu không có giá xuất khẩu đối với sản phẩm được đưa ra, ví dụ giao dịch
xuất khẩu là một sự chuyển đổi nội bộ, hoặc sản phẩm được trao đổi trong

giao dịch hàng đổi hàng; hay giá giao dịch mà nhà xuất khẩu bán sản phẩm
đến nước nhập khẩu có thể không đáng tin cậy do có sự liên kết hoặc một
thoả thuận bồi hoàn giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba,
như vậy giá giao dịch có thể bị thao túng hoặc không thể hiện quan hệ cung
cầu thị trường. Trong các trường hợp trên hiệp định quy định một phương
pháp thay thế để xác định giá xuất khẩu- đó là giá xuất khẩu cấu thành. Giá
này được tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại đầu tiên
cho người mua độc lập. Nếu sản phẩm nhập khẩu không được bán lại cho
người mua độc lập hoặc không được bán lại khi nhập khẩu, cơ quan điều tra
có thể xác định một cơ sở hợp lí để tính giá xuất khẩu.
Dựa trên những quy định trên thì luật chống bán phá giá của Liên Minh
Châu Âu cũng có những quy định tương tự, theo đó giá xuất khẩu là mức giá
thực sự được trả hay phải trả cho sản phẩm khi sản phẩm được xuất khẩu từ
nước xuất khẩu vào khối Cộng Đồng.
Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ cũng có những quy định tương tự,
ngoài ra còn có những quy định chi tiết hơn. Giá xuất khẩu, theo luật của
Hoa Kỳ, là giá mà mỗi nhà nhập khẩu bán cho bên mua không liên kết đầu
tiên tại Hoa Kỳ. Có hai loại giá xuất khẩu: giá xuất khẩu và giá xuất khẩu giả
định.
 Giá xuất khẩu : là giá mà người mua không liên kết tại Hoa Kỳ mua
hàng hoá đó. Giá khởi điểm để tính giá xuất khẩu là tổng giá bán thể hiện trên
hoá đơn thương mại xuất khẩu gửi nhà nhập khẩu không liên kết đầu tiên tại
Hoa Kỳ.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 13
 Giá xuất khẩu giả định: là giá hàng hoá mà nhà nhập khẩu không liên
kết bán hàng hoá đó. Ví dụ: giá hàng hoá của một công ty con làm chức năng
phân phối cho một nhà xuất khẩu nước ngoài bán cho người mua không liên
kết đầu tiên tại Hoa Kỳ. Cụ thể là hoá đơn do nhà nhập khẩu hoặc nhà phân

phối có liên kết với nhà sản xuất phát hành. Ví dụ: nếu hoá đơn được phát
hành dưới tiêu đề của một công ty Hoa Kỳ liên kết với một nhà xuất khẩu thì
giá xuất khẩu giả định có thể sẽ được áp dụng.
Giá trị thông thường và giá xuất khẩu sau khi được xác định sẽ được so
sánh một cách công bằng, trên cơ sở đó sẽ xác định liệu hàng hoá có bị bán
phá giá hay không. Việc xác định sẽ căn cứ trên biên phá giá.Biên phá giá là
lượng chênh lệch giữa giá trị thông thường vượt qua giá trị xuất khẩu. Nếu
giá trị biên phá giá vượt qua giới hạn mà các quốc gia quy định thì hàng hoá
được coi là có bán phá giá.

2/ Phân loại bán phá giá.
Các nhà kinh tế học dựa vào lí luận của Viner đã chia bán phá giá làm ba
loại gồm:
 Bán phá giá mang tính ngẫu nhiên: nhà xuất khẩu không coi việc
chiếm lĩnh thị trường là mục đích của mình, nên không gây ảnh hưởng lâu
dài đến doanh nghiệp, do vậy không nên dẫn đến kiện bán phá giá.
 Bán phá giá tước đoạt: Đó là biện pháp dùng giá thấp để đánh bại đối
thủ cạnh tranh, bóp chết nền công nghiệp tại nước nhập khẩu, thiết lập
một vị trí lũng đoạn trên thị trường sau đó dần dần nâng cao giá bán và
thu lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh vô cùng quyết
liệt, bán phá giá tước đoạt hầu như không thể tồn tại. Theo thống kê của
chuyên gia chống bán phá giá Palmeter, từ năm 1980 đến năm 1986, trong
767 vụ kiện bán phá giá do Australia, Canada, EU và Mỹ tiến hành thì
không có vụ kiện nào mang hình thức bán phá giá tước đoạt. Trong ba
loại chống bán phá giá thì đây là hình thức gây tổn thất lớn nhất. Song
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 14
chuyên gia Lindert thì cho rằng dường như hình thức này đang dần dần
biến mất.

 Bán phá giá kéo dài: Căn cứ vào sự khác nhau của giá bán có thể chia
thành (1) bán phá giá mà giá bán cao hơn giá thành,(2) bán phá giá mà giá
bán thấp hơn giá thành.
Bán phá giá cao hơn giá thành có thể được hiểu do mức độ nhu cầu
không giống nhau dẫn đến sự khác biệt trong định giá. Doanh nghiệp có thể
liên tục bán hàng trên thị trường xuất khẩu thấp hơn giá cả thị trường trong
nước trong dài hạn, một phần cũng vì mở rộng thị trường xuất khẩu có thể mở
rộng quy mô sản xuất, tăng lợi nhuận và tận dụng tối đa tài sản cố định,
nguồn nhân lực. Trên thực tế bán phá giá liên tiếp thường là kết quả của sản
lượng dư thừa quá mức thường xuất hiện ở những ngành điển hình là công
nghiệp luyện kim và hoá dầu. Ví dụ ở Mỹ, trong các vụ kiện chống bán phá
giá từ năm 1980 đến năm 1993 thì số vụ kiện trong ngành công nghiệp luyện
kim chiếm 38.4%, Australia trong thời gian từ 1991 đến 1995 số vụ kiện
trong ngành công nghiệp hoá dầu chiếm chủ yếu. Qua đó thấy rằng, dù giá
bán không thể bù đắp giá thành bình quân, doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục
sản xuất nhằm tránh tổn thất do phải ngừng sản xuất, hay còn gọi là tối thiểu
hoá tổn thất.
Còn với bán phá giá với giá bán thấp hơn giá thành trừ khi có sự trợ cấp
của chính phủ nếu không doanh nghiệp hầu như không thể thực hiện được.
Như vậy, từ góc độ bảo hộ cho nền công nghiệp trong nước, có thể tiến
hành các biện pháp chống bán phá giá đối với hình thức bán phá giá kéo dài
và bán phá giá tước đoạt nhưng trong thực tiễn việc phân loại không phải là
dễ dàng. Pháp luật của các nước và hiệp định chống bán phá giá WTO đều
quy định rõ ràng trình tự điều tra của chống bán phá giá, song lại không có
cách nào khoa học để phân biệt ba loại bán phá giá mà mục đích và tính chất
của chúng hoàn toàn khác nhau, nên khó tránh được mâu thuẫn thương mại
giữa các nước tham gia.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 15


3/ Mục đích của bán phá giá.
Bán phá giá được các nước sử dụng như một công cụ cạnh tranh, giúp cho
sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng xâm nhập rồi chiếm lĩnh thị trường, từ đó
loại bỏ khỏi thị trường hoặc ngăn cản sự thâm nhập của các đối thủ. Tuy
nhiên, mục tiêu bán phá giá của các công ty lớn hay các công ty nhỏ các nước
phát triển hay các nước đang phát triển cũng có sự khác biệt. Đối với các
công ty nhỏ, các nước đang phát triển, sản phẩm của họ thường kém sức cạnh
tranh và họ buộc phải bán phá giá sản phẩm của mình mới mong bán được
hàng hoá. Còn đối với các công ty lớn của các quốc gia phát triển, các sản
phẩm của họ thường có ưu thế vượt trội về chất lượng, kĩ thuật, kiểu dáng,
mẫu mã, nếu được bán phá giá sẽ dễ dàng đánh bật các sản phẩm cùng loại
của các đối thủ khác. Một khi đã xâm nhập được vào thị trường nhập khẩu,
nhà nhập khẩu sẽ có thể hoàn toàn khống chế và chiếm lĩnh thị trường nước
nhập khẩu. Song bán phá giá cũng có thể gây nên những tổn thất cho nhà xuất
khẩu do việc bán giá thấp hơn tại thị trường nội địa. Vậy vấn đề đặt ra là liệu
nhà xuất khẩu có "đơn thương độc mã" mà thành công được với kế hoạch bán
phá giá của mình không ? Nói cách khác, với khoản thua thiệt do bán phá giá
và nguy cơ hàng hoá có thể dễ dàng bị đưa ngược lại thị trường nội địa với
giá cả cạnh tranh hơn thì cho dù nhà xuất khẩu có năng lực mạnh đến đâu
cũng khó có thể chống đỡ được. Lúc này chính phủ chính là nguồn hỗ trợ vô
cùng quan trọng đối với sản phẩm bán phá giá thông qua khuyến khích sự
thoả thuận giữa các doanh nghiệp trong nước về giá, dựng lên các hàng rào
bảo hộ mậu dịch và cung cấp các khoản tài trợ đa dạng, trợ cấp xuất khẩu.
Nhờ các biện pháp này một mặt doanh nghiệp đẩy được giá trong nước lên
cao làm tăng lợi nhuận, mặt khác bằng việc sử dụng tối đa công suất, cùng
các khoản ưu đãi về thuế, tín dụng, trợ cấp phát triển sản xuất, trợ giá, doanh
nghiệp tăng thêm được lợi nhuận của phần bán sản phẩm trong nước và phần
nào bù lỗ cho việc bán phá giá ở ngoài nước. Bên cạnh đó các hàng rào bảo
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 16
hộ, ví dụ như thuế nhập khẩu cũng ngăn dòng hàng hoá bán phá giá quay
ngược trở lại gây tổn thất cho các nhà xuất khẩu và mất ổn định thị trường
trong nước. Như vậy có thể thấy rằng điều kiện để bán phá giá một loại hàng
hoá nào đó là phải lũng đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để
tránh nguồn hàng nhập khẩu trở lại. Và hành vi này có thể dễ dàng thực hiện
được nhất là khi có sự trợ giúp ngầm của chính phủ.
Ngoài ra, bán phá giá cũng xảy ra nhằm giải quyết hàng dư thừa hoặc tồn
kho quá lớn, không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường. Có khi bán
phá giá còn được sử dụng nhằm giải quyết sự thiếu hụt ngoại tệ do nhập siêu.
Một số nước sử dụng biện pháp bán phá giá để thực hiện mục tiêu chính trị,
thao túng các quốc gia khác.
Như vậy, với mục đích triệt tiêu mọi sự cạnh tranh bình đẳng nhằm dễ
dàng thâm nhập thị trường, bán phá giá đã và đang trở thành một cản trở lớn
đối với xu thế tự do hoá thương mại ngày nay. Do vậy cần phải có những biện
pháp mạnh mẽ để ngăn chặn hiện tượng bán phá giá.

II/ Những lí luận cơ bản về chống bán phá giá.
1/ Mục đích của biện pháp chống bán phá giá.
Với những mục đích mang tính tiêu cực của bán phá giá như đã phân tích
ở mục 3 phần I ở trên, bán phá giá đang bị các nước kịch liệt phản đối. Các
biện pháp chống bán phá giá được chính quyền nước nhập khẩu áp dụng đối
với nhà xuất khẩu bán phá giá nhằm bảo vệ và ngăn chặn tác hại của bán phá
giá đến nền kinh tế của nước này và các nhà sản xuất nội địa. Ngoài ra, các
biện pháp chống bán phá giá còn tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, một
yếu tố thiết yếu trong xu thế tự do hoá thương mại.
Tuy nhiên hiện tượng các nước sử dụng đến mức lạm dụng biện pháp
chống bán phá giá đang cho thấy mặt trái của biện pháp này. Nếu xảy ra một
vụ kiện bán phá giá thì thời gian từ lúc bắt đầu điều tra đến kết luận cuối cùng

cần khoảng một năm đến năm rưỡi. Trong khoảng thời gian này, việc nhập
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 17
khẩu sẽ bị hạn chế, cho dù kết luận cuối cùng là thế nào thì tổn thất đối với
các nhà xuất khẩu cũng là không nhỏ. Do vậy quá trình chống bán phá giá
cũng là quá trình cản trở việc nhập khẩu vào thị trường nước nhập khẩu.
Chống bán phá giá với cái vỏ ngoài "công bằng, chính nghĩa" đang bị các
nước sử dụng như một vũ khí bảo hộ cho sản xuất nội địa. Tác dụng bảo hộ
của chống bán phá giá ngày càng rõ rệt, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa
kinh tế khi các biện pháp bảo hộ cũ như thuế quan, hạn ngạch không còn
được sử dụng rộng rãi nữa thì chống bán phá giá là hình thức phát triển vô
cùng tinh vi của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Bởi lẽ chống bán phá giá là biện
pháp chống lại việc cạnh tranh không lành mạnh của các đối thủ, nó được
công nhận bởi chính luật pháp quốc tế. Song hiệp định chống bán phá giá của
WTO thực chất cũng là sự thể hiện ý chí của các nước lớn, nó có những kẽ hở
để các nước "trùm chống bán phá giá " nhập nhèm giữa mục đích bảo hộ và
bảo vệ. Do vậy song song với những biện pháp ngăn ngừa việc bán phá giá
cũng cần có những đối sách với việc lạm dụng chống bán phá giá, hạn chế
mặt trái của biện pháp này.

2/ Điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá.
Như đã biết, việc một quốc gia áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là
nhằm ngăn ngừa việc nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hoá sang nước mình,
nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước. Nhưng để đảm bảo tự do trong thương
mại, việc áp dụng không thể được tuỳ tiện mà phải đảm bảo một số điều kiện
nhất định. Chỉ khi cơ quan có thẩm quyền xác định có đủ ba yếu tố điều kiện
là 1) có bán phá giá
2) có thiệt hại đáng kể hoặc nguy cơ dẫn đến thiệt hại đáng kể
3) thiệt hại có quan hệ tất yếu với việc bán phá giá

thì cơ quan mới được phép ban hành các biện pháp chống bán phá giá đối với
hành vi bán phá giá vừa được sử dụng trên. Chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu ba
điều kiện để áp dụng các biện pháp chống bán phá giá.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 18

2.1/ Có bán phá giá.
Việc xác định bán phá giá sẽ được tiến hành thông qua việc so sánh giữa
giá xuất khẩu và giá trị thông thường của hàng hoá bị điều tra. Sau đó xác
định biên phá giá và xem xét liệu biên phá giá này có vượt qua mức cho phép
không. Song hiệp định quy định việc so sánh giữa giá trị thông thường và giá
xuất khẩu phải công bằng, tức là những giá cả được so sánh là giá của những
vụ bán hàng được thực hiện ở cùng mức độ thương mại, thường là ở mức độ
giao hàng tại nhà máy và được tiến hành ở thời điểm càng tương tự càng tốt.
Để đảm bảo những giá cả có thể so sánh được, hiệp định quy định rằng sự cân
nhắc xem xét - dưới dạng điều chỉnh - sẽ được thực hiện đối với hoặc là giá
trị thông thường, hoặc là giá xuất khẩu hoặc cả hai để "xóa bỏ những sự khác
nhau" trong sản phẩm, hoặc trong những hoàn cảnh kinh doanh ở các thị
trường của nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Những điều chỉnh phải được
tiến hành đối với những sự khác nhau về các điều kiện và điều khoản kinh
doanh, thuế, số lượng, đặc tính vật lí và những sự khác nhau khác điển hình
mà ảnh hưởng đến khả năng so sánh của giá cả. Trong trường hợp so sánh
giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu cấu thành, việc điều chỉnh phải
được thực hiện đối với những chi phí gồm thuế phải chịu giữa quá trình nhập
khẩu và bán lại cho người mua độc lập đầu tiên, cũng như đối với những lợi
nhuận đang dồn lại. Nếu khả năng so sánh giá đã bị ảnh hưởng, hiệp định yêu
cầu hoặc giá trị thông thường phải được thiết lập ở mức độ thương mại cân
bằng với giá xuất khẩu cấu thành mà có thể cần một sự điều chỉnh, hoặc việc
điều chỉnh phải được thực hiện với sự khác nhau về các điều kiện và điều

khoản kinh doanh, thuế, số lượng, đặc tính vật lí và các vấn đề tiêu biểu mà
ảnh hưởng đến tính so sánh được của giá.
Nếu việc so sánh giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu cần sự chuyển
đổi tiền tệ thì tỉ giá hối đoái được sử dụng là tỉ giá có hiệu lực vào ngày bán
hàng(ngày của hợp đồng, hoá đơn, đơn đặt hàng )
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 19
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất trong việc xác định bán phá giá chính là
phương pháp xác định mức phá giá hay phương pháp so sánh giữa giá xuất
khẩu và giá trị thông thường. Tuỳ thuộc vào những quy định có liên quan điều
chỉnh việc so sánh công bằng, sự tồn tại biên phá giá trong thời kỳ điều tra
thông thường sẽ được xác lập trên cơ sở so sánh giá trị thông thường bình
quân gia quyền với mức bình quân gia quyền của tất cả giá xuất khẩu có thể
so sánh được; hoặc bằng cách so sánh giá trị thông thường với giá xuất khẩu
dựa trên cơ sở của từng giao dịch. Tuy nhiên, giá trị thông thường bình quân
gia quyền có thể được so sánh với giá xuất khẩu riêng lẻ dựa trên cơ sở từng
giao dịch vào nước nhập khẩu, nếu có một kiểu mẫu giá xuất khẩu khác biệt
một cách đáng kể giữa những người mua khác nhau, những khu vực hay
những khoảng thời gian khác nhau và nếu trong tình huống này cơ quan điều
tra đưa ra sự giải thích tại sao những sự khác nhau này không thể được xem
xét bằng hai cách trên.
Ta có thể lấy ví dụ xác định mức phá giá bằng phương pháp so sánh giá trị
thông thường bình quân gia quyền với mức bình quân gia quyền của giá xuất
khẩu có thể so sánh được như sau:
Giá trị thông thường
Giao dịch Số lượng Giá đơn vị Tổng giá
1 4 200 USD 800 USD
2 8 185 USD 1.480USD
12 190 USD (Bình quân) 2.280USD

Giá xuất khẩu
Giao dịch Số lượng Giá đơn vị Tổng giá
1 (tới Nhật) 5 200 USD 1.000 USD
2 (tới Mỹ) 10 119 USD 1.190 USD
15 146 USD (Bình quân) 2.190 USD
Giá trị thông thường bình quân gia quyền 190 USD
Giá xuất khẩu bình quân gia quyền 146 USD
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 20
Mức chênh lệch = 190 – 146 = 44 (USD)
Mức phá giá = 44 x 15 đv = 660 USD
Biên độ phá giá = 190 – 146 = 30.13%
146
Sau khi tính được mức phá giá và biên phá giá, công việc tiếp theo là xem
xét liệu biên phá giá có vượt qua mức giới hạn cho phép không. Nếu có vượt
qua nghĩa là đã có hành vi bán phá giá, cơ quan có thẩm quyền phải tiếp tục
xem xét mức độ thiệt hại và quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và
mức độ thiệt hại đó.

2.2/ Mức độ thiệt hại.
Có thiệt hại là một trong ba điều kiện để áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá. Hiệp định chống bán phá giá của WTO đưa ra định nghĩa về thiệt hại
như sau:

Thiệt hại là:
(1) Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước.
(2) Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với ngành sản xuất trong nước.
(3) Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước.
Hiệp định không đưa ra định nghĩa về "vật chất". Tuy nhiên, nó yêu cầu

việc xác định thiệt hại phải dựa trên bằng chứng tích cực và liên quan đến sự
kiểm tra khách quan về (1) khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá và
tác động của giá hàng nhập khẩu được bán trên thị trường nước nhập khẩu đối
với những sản phẩm tương tự và (2) hậu quả của những mặt hàng nhập khẩu
đó đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.
 Xét tác động về lượng của hàng hoá nhập khẩu bán phá giá, hiệp định yêu
cầu cơ quan điều tra đánh giá liệu có sự tăng đáng kể về lượng hàng hoá
nhập khẩu hay không, hoặc về mặt tuyệt đối hoặc ở mức có liên quan đến
việc sản xuất hoặc tiêu dùng trong nước nhập khẩu.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 21
 Xét tác động về giá của hàng hoá nhập khẩu bán phá giá, cơ quan điều tra
còn được yêu cầu xem xét liệu có giá của hàng nhập khẩu đó có rẻ hơn giá
sản phẩm tương tự sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không hay có làm sụt
giá hoặc kìm giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu không.
Như vậy, để biết liệu việc bán phá giá hàng hoá có làm sụt giá hay ép giá
hàng hoá tương tự do ngành công nghiệp trong nước sản xuất hay không, cần
phải tiến hành so sánh giữa giá nhập khẩu và giá mặt hàng do ngành công
nghiệp nước nhập khẩu sản xuất. Muốn vậy phải thực hiện việc điều chỉnh
tương tự như trong quá trình so sánh giữa giá trị thông thường và giá trị xuất
khẩu đã nêu ở trên. Ví dụ như chỉ trong vấn đề cấp độ thương mại đã có nhiều
hình thức: nếu so sánh giá giữa nhà xuất khẩu tới người bán buôn và giá giữa
nhà sản xuất nước nhập khẩu tới người bán lẻ thì phải tiến hành điều chỉnh
giá xuất khẩu ở mức bán lẻ hoặc ở mức bán buôn. Còn nếu so sánh giá của
nhà xuất khẩu tới nhà nhập khẩu và giá của nhà sản xuất của nước nhập khẩu
tới người bán buôn thì tiến hành điều chỉnh giá xuất khẩu ở mức bán buôn.
Sau khi tiến hành các bước điều chỉnh cần thiết sẽ tiến hành so sánh giữa
hai loại giá để xác định mức độ giảm giá của hàng nhập khẩu so với hàng sản
xuất trong nước nhập khẩu. Mục đích của việc xác định mức độ giảm giá là

nhằm đánh giá tác động của hàng nhập khẩu bán phá giá tới giá như một công
cụ xác định thiệt hại. Mức độ giảm giá là sự khác biệt giữa giá của ngành
công nghiệp nước nhập khẩu trong thực tế và giá xuất khẩu như là một phần
(%) của giá của ngành công nghiệp nước nhập khẩu.
Về việc xem xét tác động của việc bán phá giá hàng nhập khẩu đối với
ngành liên quan của nước nhập khẩu sẽ bao gồm việc đánh giá những yếu tố
và chỉ số kinh tế có liên quan và ảnh hưởng tới tình trạng của ngành đó, bao
gồm cả việc một ngành vẫn đang trong quá trình hồi phục sau những tác động
của việc bán phá giá hay trợ cấp trước đó, độ lớn của mức biên phá giá thực
tế, sự suy giảm kinh tế và tiềm năng về doanh số, lợi nhuận, số lượng, thị
phần, năng suất, lãi đầu tư, tận dụng công suất, tác động tiêu cực thực tế và
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 22
tiềm năng đối với dòng tiền mặt, lượng hàng lưu kho, việc làm, lương, sự tăng
trưởng, khả năng tăng vốn hoặc đầu tư,
Còn đối với việc xác định có sự đe doạ thiệt hại về vật chất hay không, quá
trình điều tra phải dựa trên các chứng cứ thực tế và không được phép chỉ căn
cứ vào phỏng đoán, suy diễn hoặc một khả năng mơ hồ. Sự thay đổi trong
hoàn cảnh có thể gây thiệt hại do đó việc bán phá giá phải nằm trong phạm vi
có thể dự đoán được một cách chắc chắn và sẽ diễn ra trong tương lai gần.
Khi quyết định xem có tồn tại nguy cơ gây thiệt hại vật chất hay không, cơ
quan có thẩm quyền phải xem xét các nhân tố sau:
 Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai.
 Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng
tăng nhập khẩu.
 Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá sản phẩm tương tự ở nước nhập
khẩu.
 Số lượng tồn kho của sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.
Không một nhân tố nào trong số các nhân tố trên bản thân nó có đủ tính

quyết định để dẫn đến kết luận nhưng tổng hợp các nhân tố có thể dẫn đến kết
luận là việc phá giá là tiềm tàng và nếu như không áp dụng hành động bảo hộ
thì thiệt hại vật chất sẽ xảy ra.
Sau khi đã xác định là có bán phá giá và có thiệt hại đối với ngành công
nghiệp nước nhập khẩu, cơ quan có thẩm quyền phải chứng minh được mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và những thiệt hại đó. Đây chính
là điều kiện cuối cùng để cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá.

2.3/ Mối quan hệ nhân quả.
Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán
phá giá và thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước chủ yếu tập trung ở vấn
đề lượng và giá của hàng nhập khẩu bị phá giá là nguyên nhân của thiệt hại.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 23
Quan hệ nhân quả này phải dựa trên cơ sở thiết lập trùng hợp về mặt thời gian
giữa sự thâm nhập của hàng nhập khẩu bị phá giá với thiệt hại mà ngành công
nghiệp của nước nhập khẩu phải gánh chịu.
Việc chứng minh phải dựa trên việc kiểm tra tất cả những bằng chứng có
liên quan. Các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tiến hành điều tra các nhân
tố được biết đến khác mà đồng thời gây ra thiệt hại đến ngành sản xuất trong
nước. Sau khi tiến hành chứng minh và xác nhận rằng có việc bán phá giá và
có dẫn đến gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước và khi các cơ quan có
thẩm quyền hữu quan kết luận rằng cần áp dụng các biện pháp cần thiết để
ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra; lúc đó các biện pháp chống bán phá giá sẽ
được áp dụng nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước.

3/ Xu hướng phát triển của chống bán phá giá.
3.1/ Xu hướng phát triển chung của chống bán phá giá.

Những năm 80 thế kỉ XX đến nay, chống bán phá giá dần dần trở thành
vấn đề trọng tâm của thương mại quốc tế. Bước sang đầu thế kỉ XXI, trong
môi trường biến động không ngừng, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng sâu sắc,
chống bán phá giá cũng xuất hiện nhiều đặc điểm mới đáng chú ý, trong đó
nổi lên bốn đặc điểm chính đặc trưng cho xu hướng phát triển hiện nay của
chống bán phá giá.
Thứ nhất, bán phá giá và chống bán phá giá là một trong những hiện
tượng cơ bản của thương mại quốc tế. Với hình thức là một biện pháp
"phòng thủ " thương mại, chống bán phá giá đã có hơn 100 năm lịch sử. Tuy
vậy, trước những năm 90 thế kỉ 20 chống bán phá giá hoàn toàn không phải là
hình thức chính của rào cản thương mại. Sự ra đời của tổ chức thương mại
thế giới WTO và sự kết thúc vòng đàm phán Urugoay đánh dấu giai đoạn mới
trong quá trình phát triển của thương mại quốc tế. Với sự nỗ lực của các bên
cam kết trong hiệp định về thuế quan và mậu dịch (GATT), hình thức của rào
cản mậu dịch truyền thống như hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu ,
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 24
giấy phép nhập khẩu ngày càng giảm đi. Tuy nhiên một loạt các biện pháp
mới được WTO công nhận hợp pháp như chống bán phá giá, chống trợ cấp
được các nước bắt đầu không ngừng sử dụng rộng rãi. Cuối những năm 90 thế
kỉ 20, chống bán phá giá phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự phát
triển của thị trường trong nước và ngày càng được các nước coi trọng, hoàn
toàn có khả năng trở thành biện pháp phòng thủ mậu dịch quan trọng trong
thế kỉ 21.
Thứ hai, quy tắc chống bán phá giá có xu hướng chặt chẽ và quy phạm
hơn. Theo yêu cầu của cơ chế thẩm tra chính sách mậu dịch WTO, tất cả các
thành viên WTO cần định kì chịu sự thẩm tra nhằm thúc đẩy các thành viên
nâng cao tính minh bạch và quy phạm của các chính sách và biện pháp
thương mại, từ đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt hoặc tránh được

những tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Rõ ràng để đảm bảo
chính sách chống bán phá giá của nước mình được các nước khác thẩm tra
chấp nhận, nước bị thẩm tra phải cân nhắc khi đưa ra chính sách chống bán
phá giá của mình và khi đưa ra phải dựa trên quy tắc cơ bản của công ước
chống bán phá giá quốc tế, hết sức tránh gây ra hiểu lầm hoặc phát sinh mâu
thuẫn.
Như vậy qua nhiều lần thẩm tra, quy tắc chống bán phá giá và chính sách
chống bán phá giá của các nước dần có khuynh hướng quy phạm hoá, hoặc ít
nhất là thống nhất về mặt hình thức. Theo quy định của WTO, số lần một
nước thành viên chịu sự thẩm tra chính sách thương mại tỉ lệ thuận với ảnh
hưởng của nước này đối với thể chế mậu dịch, do đó một nước thành viên có
kim ngạch trong thương mại quốc tế càng cao thì số lần chịu thẩm tra càng
nhiều. Ngày nay các nước phát triển chiếm lượng lớn trong kim ngạch giao
dịch thương mại thế giới, hơn nữa lại luôn phát động các vụ kiện chống bán
phá giá, do vậy Mỹ, EU, Nhật, Canada, bị yêu cầu tiến hành thẩm tra 2 năm
một lần, 16 nước phát triển tiếp sau đó bị yêu cầu tiến hành thẩm tra 4 năm,
các nước khác thì trong vòng 6 đến 10 năm tiến hành một lần. Như vậy, nhìn
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lu LÖ Quyªn
– Trung 1 – K38E 25
từ góc độ quy định chế độ, điều này buộc các nước sử dụng biện pháp chống
bán phá giá nhiều phải tăng tính rõ ràng minh bạch. Mặt khác, tổ chức thương
mại thế giới cũng thường xuyên tổ chức các cuộc đàm phán thương lượng ở
các cấp khác nhau về những vấn đề các thành viên cùng quan tâm, nhằm cùng
quản lí thương mại toàn cầu tốt hơn trên cơ sở ý chí thống nhất cao.
Thứ ba, nguyên nhân chủ yếu phát động các vụ kiện bán phá giá trong
thời gian tới sẽ chủ yếu là do bán phá giá số lượng. Thời kì trước bán phá
giá chủ yếu là hạ thấp giá để chiếm lĩnh và khai thác thị trường một cách có
hiệu quả nhất nên chế tài đặt ra để chống bán phá giá chủ yếu điều chỉnh bán
phá giá giá cả, ít khi đề cập đến chống bán phá giá số lượng. Tuy nhiên với sự

nâng cao nhận thức về tầm quan trọng thúc đẩy kinh tế của ngoại thương, khá
nhiều nước đang phát triển từ giữa những năm 80 thế kỉ 20 đã mở rộng quy
mô xuất khẩu, cùng với sự ảnh hưởng của khung hoảng tài chính Châu Á
đồng tiền các nước mất giá càng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển xuất
khẩu. Sự tồn tại và không ngừng phát triển của hiện tượng này tạo ra tác động
xấu đến các ngành sản xuất của nước nhập khẩu và nó hoàn toàn phù hợp với
những quy định của công ước quốc tế về chống bán phá giá số lượng và nước
nhập khẩu đã tận dụng các điều khoản tương ứng để tiến hành chống bán phá
giá. Ví dụ nguyên nhân cơ bản mà hiệp hội sắt thép Châu Âu kiện thép tấm
Châu Á là từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1998 thép nguyên liệu nhập từ Châu Á
từ 4 vạn tấn tăng lên 28.5 vạn tấn, làm cho gang thép nhập từ Châu Á so với
cùng kì năm 1997 tăng 650%, thị phần cũng tăng từ 3% lên 21%. Chính bởi
vì bán phá giá số lượng thu hút được sự quan tâm đặc biệt, nên hiện nay
trong số hồ sơ các vụ kiện chống bán phá giá mỗi năm có khoảng 1/3 là
không đề cập đến vấn đề giá cả mà quy về chống bán phá giá số lượng, đồng
thời đều bắt nguồn từ xuất khẩu quá mức của các nước đang phát triển.
Trong tương lai đó sẽ trở thành nguyên nhân quan trọng của việc đưa ra
các vụ kiện chống bán phá giá quốc tế.

×