Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Mô hình định lượng phân tích các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của hà nội giai đoạn 2005 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 78 trang )











Đề tài tham dự cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2011


Mô hình định lượng phân tích các yếu tố tác động
tới kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ
nghệ của Hà Nội giai đoạn 2005 – 2009


















1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của
Việt Nam, đã đƣợc xuất khẩu từ khá sớm so với các mặt hàng khác, và có
những đóng góp tích cực vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ
nghệ của nƣớc ta đã đạt 3,5 tỷ USD vào năm 2009. Hiện nay hàng thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam cũng đã có mặt ở gần 200 quốc gia trên thế giới, và
đƣợc đánh giá là một trong những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu rất lớn.
Hà Nội là một trong những địa phƣơng có nhiều làng nghề và doanh
nghiệp thủ công mỹ nghệ nhất trên cả nƣớc. Trong những năm qua, hoạt động
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Hà Nội đã góp phần tích cực vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm và nâng cao thu nhập
cho hàng trăm ngàn lao động ở khu vực làng nghề.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của
cả nƣớc nói chung, Hà Nội nói riêng vẫn còn có nhiều hạn chế. Doanh nghiệp
xuất khẩu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tìm kiếm nguồn vốn và thị trƣờng xuất khẩu. Hệ thống hỗ trợ
ngành chƣa hiệu quả, không có nhiều tiến bộ trong đổi mới sản phẩm hay quy
mô sản phẩm còn hạn hẹp. Điều này đã làm hạn chế phần nào tiềm năng xuất
khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở nƣớc ta.
Để có thể tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, nhất thiết phải có những đánh giá toàn diện và
khoa học về những yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ
công mỹ nghệ, xác định mức độ ảnh hƣởng của từng yếu tố. Chỉ trên cơ sở đó
chúng ta mới có những định hƣớng đúng đắn và những điều chỉnh kịp thời

2

nhằm phát huy tối đa tiềm năng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Trƣớc
yêu cầu đó, giới hạn nghiên cứu tại Hà Nội, nhóm tác giả đã quyết định lựa
chọn đề tài: “Mô hình định lƣợng phân tích các yếu tố tác động tới kim
ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội giai đoạn
2005 – 2009” làm đề tài tham dự cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học Đại
học Ngoại thƣơng năm 2011.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua có khá nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình kinh tế
lƣợng, cụ thể là mô hình trọng lƣợng nhằm phân tích các yếu tố tác động tới
tổng kim ngạch xuất khẩu hoặc kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng của một
quốc gia.
Tuy nhiên, đối với nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, mặc dù đã có nhiều
nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu nhóm hàng này, nhƣng chƣa có nghiên
cứu nào sử dụng mô hình trọng lƣợng nhằm phân tích các yếu tố tác động tới
kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, của cả ngành nói chung,
và của từng tiểu ngành nói riêng.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học “Mô hình định lƣợng phân tích
các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ
nghệ của Hà Nội giai đoạn 2005 – 2009” là đề tài đầu tiên chỉ ra và phân
tích một cách định lƣợng các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu ngành
hàng thủ công mỹ nghệ.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ
nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2005 –
2009 và các nhân tố tác động tới hoạt động xuất khẩu này.
3


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu và các yếu tố
tác động đến hoạt động xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ.
Về không gian: Mặc dù đề tài có khái quát hoạt động xuất khẩu thủ
công mỹ nghệ của cả nƣớc, nhƣng phạm vi nghiên cứu chính để xây dựng mô
hình định lƣợng là các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ trên địa bàn
thành phố Hà Nội
1
.
Về thời gian: Từ năm 2005 – 2009. Đây là quãng thời gian đủ dài để
đánh giá tác động của các yếu tố tới kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
của Hà Nội. Hơn nữa, do nghiên cứu có sử dụng các phân tích định lƣợng nên
thời gian nghiên cứu trên cũng phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu.
4. Mục tiêu nghiên cứu
 Xác định đƣợc những yếu tố có ảnh hƣởng và xây dựng mô hình định
lƣợng đánh giá tác động của những yếu tố ấy tới kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội;
 Nghiên cứu sâu kinh nghiệm về hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủ
công mỹ nghệ của Ấn Độ - một nƣớc có nhiều điều kiện tƣơng đồng
với Việt Nam để rút ra những bài học cho xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
của nƣớc ta;
 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội nói riêng, cả nƣớc nói chung trong
thời gian sắp tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu


1
Sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính vào năm 2008 thì tính cả trên địa bàn Thành
phố Hà Nội mở rộng

4

Để hoàn thành nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng phƣơng pháp phân
tích định lƣợng với những thông tin và số liệu thứ cấp đƣợc tổng hợp từ
nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là số liệu của Tổng cục Thống kê và
Tổng cục Hải quan.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng sử dụng phƣơng pháp duy vật lịch sử,
duy vật biện chứng, luôn đặt đối tƣợng nghiên cứu trong những mối tƣơng
quan tác động nhiều chiều và xem xét đầy đủ các khía cạnh trong những hoàn
cảnh khác nhau.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo
và phụ lục, đề tài đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ. Cơ sở lý thuyết của mô hình định lƣợng.
Chƣơng 2: Phân tích các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu
nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội giai đoạn 2005 – 2009.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất
khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian tới.
5


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU VÀ HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU NHÓM HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA MÔ HÌNH ĐỊNH LƢỢNG
1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1.1. Khái niệm
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về xuất khẩu. Theo Bùi Xuân
Lƣu (2002) trong Giáo trình Kinh tế Ngoại thƣơng
2

, xuất khẩu (bán) và nhập
khẩu (mua) là hai nhánh của hoạt động ngoại thƣơng. Trong đó, hoạt động
ngoại thƣơng đƣợc định nghĩa là việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ qua biên
giới quốc gia. Do vậy có thể hiểu xuất khẩu là việc bán hàng hoá, dịch vụ cho
nƣớc ngoài, còn nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ của nƣớc ngoài.
Theo Rakesh Mohan Joshi
3
(2005), thuật ngữ xuất khẩu xuất phát từ
khái niệm vận chuyển hàng hoá và dịch vụ ra ngoài cửa khẩu quốc gia. Ngƣời
bán các hàng hoá và dịch vụ đó đƣợc gọi là ngƣời xuất khẩu (có trụ sở tại
nƣớc xuất) còn ngƣời mua có trụ sở ở nƣớc ngoài đƣợc gọi là ngƣời nhập
khẩu. Do vậy trong thƣơng mại quốc tế, xuất khẩu chỉ việc bán hàng hoá và
dịch vụ đƣợc sản xuất ở nƣớc sở tại sang các nƣớc khác.
Theo Arthur Sullivan
4
và Steven M. Sheffrin
5
(2003), hàng hoá dịch vụ
xuất khẩu do các nhà sản xuất trong nƣớc cung cấp cho ngƣời tiêu dùng nƣớc
ngoài có thể là bất cứ mặt hàng nào đƣợc vận chuyển từ nƣớc này sang nƣớc
khác một cách hợp pháp, đặc biệt là vì mục đích thƣơng mại.


2
Bùi Xuân Lƣu (2002), Giáo trình Kinh tế Ngoại thƣơng, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3
Giáo sƣ Học viện Ngoại thƣơng Ấn Độ
4
Giáo sƣ kinh tế tại trƣờng Cao đẳng Lewis and Clark, Porland, Oregon, Hoa Kỳ
5

Giáo sƣ kinh tế tại Đại học California, Hoa Kỳ
6

Nhƣ vậy, nhìn chung lại, hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán
hàng hoá, dịch vụ cho cá nhân hoặc tổ chức nƣớc ngoài nhằm thu ngoại tệ, có
thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động cơ
bản của hoạt động ngoại thƣơng. Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát
triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều
sâu. Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhƣng
cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và đƣợc biểu hiện dƣới nhiều hình thức.
1.2. Vai trò
Có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ ra và phân tích những vai trò sau của
hoạt động xuất khẩu, đứng từ góc độ lợi ích của một quốc gia khi tham gia
thƣơng mại quốc tế. Một số vai trò đƣợc chúng tôi chứng minh qua số liệu cụ
thể của Việt Nam.
1.2.1. Đóng góp cho tổng thu nhập quốc dân
Đây là một trong những vai trò rất quan trọng của xuất khẩu. Đối với
hầu hết các quốc gia trên thế giới, nguồn thu ngoại tệ đóng góp một phần lớn
trong tổng thu nhập quốc dân. Đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hóa, quốc tế
hóa hiện nay thì vai trò này của xuất khẩu càng trở nên rõ nét. Ở Việt Nam,
theo thống kê của Bộ Công Thƣơng, tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu
bình quân hàng năm của nƣớc ta trong giai đoạn 2001 – 2010 luôn ở mức cao,
đạt 19%/năm. Quy mô xuất khẩu tăng từ 15 tỷ USD năm 2001 lên 72,19 tỷ
năm 2010, tức là hơn 4,7 lần. Cũng theo đó mà tỷ trọng đóng góp của kim
ngạch xuất khẩu trong GDP của Việt Nam đã tăng từ 46% năm 2001 lên tới
70% năm 2010. Những con số đó đã chứng minh cho đóng góp quan trọng
của xuất khẩu trong tổng thu nhập quốc dân.
7


1.2.2. Góp phần thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nhờ xuất khẩu mà sản xuất một mặt hàng nào đó có thể phát triển và
tạo tiền đề cho các ngành liên quan cùng có cơ hội phát triển. Mặt khác, khi
tham gia vào hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp phải tiếp cận với những
thị trƣờng mới, nghĩa là phải thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mới, đáp ứng
những tiêu chuẩn mới. Do vậy, sản xuất trong nƣớc càng phải tích cực cải tiến
nhằm cạnh tranh với sản xuất của các quốc gia khác. Nhƣ vậy có thể nói xuất
khẩu đã góp phần thúc đẩy sản xuất chung của cả nền kinh tế.
Các nƣớc khi tham gia xuất khẩu thì thông thƣờng không thể xuất khẩu
tất cả các mặt hàng mà chỉ xuất khẩu những mặt hàng nƣớc đó có khả năng và
thực sự đem lại lại lợi ích kinh tế, do đó sẽ dẫn tới sự chuyên môn hóa và
phân công lao động trên thế giới. Chính sự chuyên môn hóa sẽ dẫn tới việc
tập trung sản xuất những mặt hàng mà quốc gia có lợi thế cạnh tranh, khiến
cơ cấu kinh tế thay đổi theo hƣớng phù hợp với trao đổi quốc tế, tức là cơ cấu
kinh tế sẽ dịch chuyển theo chiều hƣớng ngoại, quốc gia sẽ sản xuất những
thứ mà các nƣớc khác cần, chứ không phải sản xuất tất cả mọi loại hàng hóa
nhƣ trƣớc. Đồng thời, đi đôi với xuất khẩu có thể là chuyển giao công nghệ,
kỹ thuật, bí quyết. Điều này cũng sẽ giúp các nƣớc đi sau về công nghệ có thể
đổi mới nền kinh tế trong nƣớc một cách nhanh chóng. Thực tế đã cho thấy
rất nhiều quốc gia đã có sự chuyển dịch kinh tế mạnh mẽ và trở thành các
nƣớc công nghiệp mới nhờ vào xuất khẩu, tiêu biểu phải kể đến là những nền
kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á nhƣ: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore…
1.2.3. Góp phần giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân
Khi một quốc gia tiến hành xuất khẩu thì quốc gia đó không chỉ phải
đảm bảo lƣợng hàng hóa tiêu dùng trong nƣớc mà còn phải đáp ứng đƣợc nhu
cầu của khách hàng ở các nƣớc khác. Mà tổng dung lƣợng thị trƣờng của toàn
8

thế giới lớn hơn rất nhiều so với thị trƣờng trong nƣớc, do đó cần phải mở

rộng sản xuất. Khi sản xuất đƣợc mở rộng thì cũng cần sử dụng nhiều nhân
công hơn, nhờ đó giải quyết đƣợc công ăn việc làm.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp và đáp ứng phong phú thêm nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Nhƣ vậy nhờ có xuất khẩu mà có thể ổn định và nâng cao
đời sống cho toàn xã hội.
1.2.4. Tăng cường lợi thế cạnh tranh, nâng cao vị thế của đất nước
Xuất khẩu giúp phân công lao động hiệu quả giữa các quốc gia cũng
nhƣ phân bổ hợp lý nguồn lực trong và ngoài nƣớc, từ đó giúp một đất nƣớc
có thể tập trung vào những ngành mình có lợi thế. Xuất khẩu còn có thể kết
nối nền sản xuất của quốc gia cùng với sự phát triển quốc tế, giúp nền kinh tế
trong nƣớc có thể chuyển biến linh hoạt để thích nghi với nền kinh tế toàn
cầu.
Bản chất của xuất khẩu chính là mở rộng thị trƣờng, chiếm lĩnh thị
phần, cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm với các quốc gia khác. Sản phẩm có thể
đƣợc xuất khẩu nghĩa là sản phẩm đó đã đƣợc sự công nhận của khách hàng
quốc tế.
Bên cạnh đó, một quốc gia xuất khẩu lớn không chỉ có tiềm năng về
kinh tế mà còn có vị thế lớn trên trƣờng chính trị. Ƣu thế về xuất khẩu dẫn
đến những ƣu thế về kinh tế, và ƣu thế về kinh tế lại dẫn tới những ƣu thế về
chính trị.
1.2.5. Góp phần thúc đẩy và mở rộng quan hệ quốc tế
Xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Hoạt động
xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác luôn có quan hệ mật thiết
gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các
9

mối quan hệ kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác
phát triển nhƣ du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… Ngƣợc
lại, sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu,

tạo ra cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Hoạt động xuất khẩu cũng ảnh hƣởng tới quan hệ của các quốc gia trên
thế giới. Khi muốn có xuất khẩu, các nƣớc thƣờng phải đặt quan hệ cũng nhƣ
nghiên cứu kỹ càng về nƣớc đối tác về tất cả các vấn đề chính trị, pháp luật,
văn hóa…Các nƣớc có kim ngạch thƣơng mại hai chiều lớn thƣờng phải là
những nƣớc có mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, tốt đẹp.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định xuất khẩu là hoạt động không thể thiếu đối
với mỗi quốc gia cũng nhƣ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi nền
kinh tế, là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
2. Thủ công mỹ nghệ và hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
2.1. Khái niệm và đặc điểm nhóm hàng thủ công mỹ nghệ
2.1.1. Khái niệm
Hiện nay các học giả còn có nhiều quan niệm khác nhau về thủ công
mỹ nghệ. Tại Hội thảo chuyên ngành quốc tế do UNESCO tổ chức về “Thủ
công mỹ nghệ và thị trƣờng thế giới: Thƣơng mại và ngôn ngữ văn hóa” tại
Manila, Philipin tháng 10 năm 1997, sản phẩm thủ công mỹ nghệ đƣợc hiểu
là “những sản phẩm đƣợc làm bởi các nghệ nhân, hoặc hoàn toàn bằng tay,
hoặc có sự trợ giúp của các dụng cụ cầm tay, thậm chí là những phƣơng tiện
máy móc, nhƣng đóng góp từ lao động trực tiếp của ngƣời thợ thủ công phải
là nhân tố chính và quan trọng nhất”. Cũng theo Hội thảo này, sản phẩm thủ
công mỹ nghệ không chịu một sự hạn chế nào về các quy định chất lƣợng, và
đƣợc chế tạo từ nguồn nguyên liệu thô, có sẵn từ thiên nhiên. Sự độc đáo đặc
biệt của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ xuất phát từ các đặc điểm khác biệt
10

của chúng nhƣ: tính hữu dụng, thẩm mỹ, nghệ thuật, sáng tạo, tính văn hóa,
trang trí, tính chức năng, bản sắc dân tộc, sự hàm chứa ý nghĩa, hay các biểu
tƣợng mang tính tôn giáo và xã hội.
Alaa Qattan (2009) trong báo cáo cho Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ có tựa đề “Handicrafts market demand analysis” (Phân tích nhu cầu thị

trƣờng thủ công mỹ nghệ) đƣa ra khái niệm: “Thủ công mỹ nghệ là những sản
phẩm đòi hỏi kỹ năng và tay nghề cao, có thể dùng để trang trí hay cho các
mục đích khác nhƣng phải đƣợc chế tác hoàn toàn bằng tay hoặc chỉ sử dụng
các công cụ giản đơn. Kinh nghiệm và kỹ năng của ngƣời thợ thủ công là tiêu
chuẩn hàng đầu để đánh giá một sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Những sản
phẩm nhƣ vậy cũng thƣờng mang ý nghĩa về mặt văn hóa và (hoặc) tôn giáo.
Những sản phẩm đƣợc sản xuất với số lƣợng lớn hoặc bằng máy không đƣợc
coi là thủ công mỹ nghệ.”
Trên thực tế, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không đƣợc phân chia
một cách rạch ròi theo mã HS
6
. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau về nhóm hàng này. Tại Việt Nam, luận án Tiến sỹ kinh tế của
Bạch Thị Lan Anh
7
(2010) đã tổng hợp một vài quan điểm về thủ công mỹ
nghệ ở nƣớc ta:
Theo Dƣơng Bá Phƣợng
8
(2001), thủ công mỹ nghệ là một trong năm
nhóm nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam (gồm: [i] thủ công mỹ nghệ,
[ii] công cụ sản xuất, [iii] mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thƣờng, [iv] mặt
hàng phục vụ sản xuất và đời sống, [v] mặt hàng đƣợc chế biến từ lƣơng thực
thực phẩm).


6
Hệ thống hài hòa phân loại và mã hóa hàng hóa của Tổ chức Hải quan thế giới (The
Harmonized Commodity Description and Coding Systems, World Customs Organisation)
7

/>luan-an-tien-si-cap-truong&portal=gsneu, truy cập ngày 11/5/2011
8
Viện Khoa học xã hội Việt Nam
11

Còn Bùi Văn Vƣợng
9
(2002) đã liệt kê ra danh mục 34 nghề đƣợc xếp
vào nhóm nghề thủ công mỹ nghệ:
Bảng 1.1: Danh mục nhóm nghề thủ công mỹ nghệ
1. Nghề gốm
2. Nghề chạm khắc đá
3. Nghề đúc đồng
4. Nghề rèn
5. Nghề dệt (vải, lụa)
6. Nghề đóng thuyền
7. Nghề kim hoàn
8. Nghề dệt chiếu
9. Nghề may mặc
10. Nghề thêu – ren – đăng ten
11. Nghề chạm khắc gỗ
12. Nghề làm nón
13. Nghề làm giày dép
14. Nghề dệt thảm
15. Nghề làm giấy (giấy dó)
16. Nghề in (mộc bản)
17. Nghề khảm trai
18. Nghề làm tranh dân gian
19. Nghề sơn, sơn mài
20. Nghề thủy tinh

21. Nghề ngọc (trai, đá quý)
22. Nghề làm quạt giấy
23. Nghề làm trống
24. Nghề làm đồ chơi
25. Nghề làm con rối, múa rối
26. Nghề làm ô, dù, lọng
27. Nghề mây tre đan
28. Nghề làm đàn, sáo, nhị
29. Nghề làm trang phục sân khấu
30. Nghề mộc
31. Nghề kiến trúc
32. Nghề tiện (gỗ)
33. Nghề làm lƣợc
34. Nghề làm hƣơng nến
Nguồn: Bùi Văn Vượng (2002)


9
Giám đốc Trung tâm tạo mẫu làng nghề Việt Nam
12

Nhƣ vậy có thể thấy định nghĩa về thủ công mỹ nghệ của UNESCO và
Alaa Qattan mang tính khái quát hóa cao nhƣng cũng vì vậy lại gây ra một số
khó khăn khi xác định sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong thực tế. Còn cách
phân chia của Bùi Văn Vƣợng tuy mang tính diễn giải cụ thể nhƣng có thể sẽ
vấp phải tình trạng liệt kê không đầy đủ. Hơn nữa, cách liệt kê quá chi tiết
nhƣ vậy không thực sự thuận tiện cho việc nghiên cứu. Vì thế, nhóm tác giả
đã dựa trên cách phân loại nhóm ngành thủ công mỹ nghệ trong Chiến lƣợc
xuất khẩu quốc gia ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam
10

để xếp các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ vào 8 nhóm chính và đƣa ra cách hiểu sau: Thủ công mỹ
nghệ là những sản phẩm đƣợc chế tác dựa trên toàn bộ (hoặc phần lớn) là lao
động trực tiếp của ngƣời thợ thủ công, bên cạnh giá trị sử dụng của một hàng
hóa thông thƣờng còn mang những giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, đặc
trƣng cho mỗi vùng lãnh thổ hay quốc gia sản xuất ra chúng. Sản phẩm thủ
công mỹ nghệ bao gồm: [i] Nhóm sản phẩm mây tre cói thảm; [ii] Nhóm sản
phẩm gốm sứ; [iii] Nhóm sản phẩm gỗ mỹ nghệ; [iv] Nhóm sản phẩm sơn
mài, [v] Nhóm sản phẩm đá quý, kim loại quý; [vi] Nhóm sản phẩm từ giấy,
[vii] Nhóm sản phẩm thêu ren, dệt thủ công; [viii] Nhóm sản phẩm khác.
Cách hiểu trên sẽ đƣợc sử dụng thống nhất trong toàn bộ đề tài này.
2.1.2. Đặc điểm
J Sai Deepak
11
(2008) đã phân biệt giữa thủ công mỹ nghệ truyền thống
(traditional handicrafts) với thủ công mỹ nghệ công nghiệp (industrial
handicrafts) và đƣa ra hai đặc điểm nổi bật nhất của thủ công mỹ nghệ truyền
thống là: [i] tính thẩm mỹ và tính biểu tƣợng văn hóa (sản phẩm mang đặc
trƣng văn hóa của vùng lãnh thổ sản xuất ra chúng); [ii] tính sáng tạo cá nhân.
Trong đó, tính biểu tƣợng văn hóa thể hiện mối quan hệ giữa sản phẩm thủ


10
Cục xúc tiến thƣơng mại và Trung tâm thƣơng mại quốc tế thực hiện năm 2006
11
Giáo sƣ trƣờng Luật Sở hữu trí tuệ bang Tây Bengal, Ấn Độ
13

công mỹ nghệ với mỗi nền văn hóa riêng biệt là đặc trƣng rõ rệt nhất để phân
biệt giữa thủ công mỹ nghệ truyền thống và thủ công mỹ nghệ công nghiệp.

Còn trên Thƣ viện học liệu mở Việt Nam
12
, năm đặc điểm của hàng thủ
công mỹ nghệ đã đƣợc nhắc tới, đó là: [i] Tính văn hóa; [ii] Tính mỹ thuật;
[iii] Tính đơn chiếc; [iv] Tính đa dạng; [v] Tính thủ công.
Trong phạm vi của nghiên cứu này, khi xây dựng mô hình định lƣợng
phân tích các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu ngành hàng thủ công
mỹ nghệ ở chƣơng 2, nhóm tác giả đã sử dụng bộ số liệu xuất khẩu thủ công
mỹ nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Do đặc thù của
một số doanh nghiệp nên đặc điểm về tính đơn chiếc (tính cá biệt và sắc thái
riêng của mỗi sản phẩm) không đƣợc thể hiện thật sự rõ nét. Ngoài ra, trong
nghiên cứu này, chúng tôi cũng không đặt ra vấn đề phân biệt giữa thủ công
mỹ nghệ truyền thống và thủ công mỹ nghệ công nghiệp mà chỉ xét tới những
đặc điểm nổi bật nhất sau của sản phẩm thủ công mỹ nghệ:
2.1.2.1. Tính thủ công
Đặc điểm về tính thủ công đƣợc thể hiện ngay trong tên gọi của nhóm
sản phẩm này: thủ công mỹ nghệ. Mặc dù ngày nay sản phẩm thủ công mỹ
nghệ có thể đƣợc sản xuất trong các doanh nghiệp với sự trợ giúp của hệ
thống máy móc thiết bị hiện đại hơn, nhƣng đóng góp từ lao động trực tiếp
của ngƣời thợ thủ công vẫn chiếm một phần không nhỏ. Chính vì đặc điểm
này mà thủ công mỹ nghệ đƣợc coi là nhóm sản phẩm có độ thâm dụng lao
động trên mỗi sản phẩm rất cao.
2.1.2.2. Tính mỹ thuật
Giống nhƣ tính thủ công, đặc điểm về tính mỹ thuật cũng đƣợc thể hiện
ngay trong tên gọi của nhóm sản phẩm này: thủ công mỹ nghệ. Bên cạnh giá


12
truy cập ngày 11/5/2011
14


trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ luôn là điều đƣợc đánh giá cao ở các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ. Các sản phẩm luôn là sự kết hợp giữa phƣơng pháp thủ
công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của mỗi nghệ nhân. Chính đặc điểm
này đã làm gia tăng giá trị của dòng sản phẩm thủ công mỹ nghệ và gây đƣợc
sự chú ý của khách hàng ở nƣớc ngoài, nhất là những quốc gia phát triển và
có thu nhập bình quân đầu ngƣời cao.
2.1.2.3. Tính văn hóa
Với đặc thù là dòng sản phẩm đƣợc tạo nên dựa trên phần lớn là lao
động trực tiếp của ngƣời nghệ nhân nên mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều
mang những đặc điểm đặc trƣng cho văn hóa của vùng lãnh thổ mà ngƣời
nghệ nhân đó sinh sống. Nhiều sản phẩm thủ công còn là những biểu tƣợng
cho nền văn hóa và tôn giáo của các vùng đất. Đây cũng là một đặc tính làm
cho hàng thủ công mỹ nghệ có sức hấp dẫn cao với khách hàng nhất là khách
quốc tế. Đặc điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với định nghĩa về thủ công mỹ
nghệ mà nhóm nghiên cứu đã đƣa ra ở trên, đó là những sản phẩm không chỉ
mang những giá trị sử dụng của một hàng hóa thông thƣờng, mà còn mang
nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, đặc sắc.
2.2. Hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
2.2.1. Các hình thức xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ có thể đƣợc xuất khẩu dƣới hai hình thức
chính: xuất khẩu tại chỗ và xuất khẩu ra nƣớc ngoài
2.2.1.1. Xuất khẩu tại chỗ
Trong hình thức này, sản phẩm thủ công mỹ nghệ đƣợc du khách quốc
tế mua ngay tại quốc gia sản xuất sản phẩm giống nhƣ một hình thức hàng lƣu
niệm. Theo Alaa Qattan (2009), khi đƣợc bán dƣới hình thức hàng lƣu niệm,
sản phẩm thủ công mỹ nghệ có xu hƣớng đƣợc đơn giản hóa, nhằm hƣớng
15

vào phân khúc thị trƣờng có thu nhập trung bình và thấp, thích hợp với việc

làm đồ lƣu niệm tại các khu du lịch.
2.2.1.2. Xuất khẩu ra nước ngoài
Trong hình thức này, sản phẩm thủ công mỹ nghệ đƣợc bán cho đối tác
nƣớc ngoài bằng cách mang hàng sang tận nƣớc nhập khẩu bằng các phƣơng
tiện vận tải khác nhau và chịu sự ràng buộc của một số thủ tục xuất nhập khẩu
nhất định. Đây là hình thức xuất khẩu phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các hình thức xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
Quy trình của một sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ ngƣời thợ thủ công
tới tay ngƣời tiêu dùng ở nƣớc ngoài đƣợc thể hiện trong sơ đồ sau đây:












Sơ đồ 1.1: Các kênh phân phối hàng thủ công mỹ nghệ
Nguồn: Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (2006)
Thợ thủ công
mỹ nghệ
Ngƣời tiêu
dùng
Nhà
xuất khẩu
Đại lý mua

ATO , Tổ
chức từ
thiện
Nhà nhập
khẩu bán
buôn
Nhà bán lẻ lớn,
chiết khấu
Cửa hàng bách
hóa
Cửa hàng
hợp đồng
Ngƣời bán lẻ
theo danh mục
Ngƣời bán lẻ
qua mạng
Ngƣời bán lẻ
độc lập

16

Trong phạm vi của nghiên cứu này, hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ
nghệ chỉ đƣợc hiểu theo hình thức thứ hai (xuất khẩu ra nƣớc ngoài).
2.2.2. Đặc điểm của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
2.2.2.1. Đặc điểm về nước xuất khẩu
Những nƣớc xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu là những
quốc gia có truyền thống trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, có đội
ngũ lao động thủ công đông đảo, tay nghề cao. Minh chứng rõ rệt nhất cho
luận điểm này là theo báo cáo của Alaa Qattan (2009), Trung Quốc, Ấn Độ và
Việt Nam là những nhà xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ chính của thế

giới. Đây đều là những quốc gia có nguồn lao động thủ công dồi dào, có
nhiều làng nghề thủ công truyền thống với đội ngũ nghệ nhân giỏi, có tay
nghề.
Ngoài ra với nƣớc xuất khẩu, do hàng thủ công mỹ nghệ đƣợc sản xuất
chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nƣớc nên giá trị ngoại tệ thực thu
về cho quốc gia khá cao
13
. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ có
thể không lớn nhƣ một số nhóm hàng khác nhƣng do không phải nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào nên thực tế giá trị gia tăng của dòng sản phẩm này lại
khá lớn.
2.2.2.2. Đặc điểm về nước nhập khẩu
Nhƣ đã trình bày trong phần đặc điểm của nhóm hàng thủ công mỹ
nghệ, đây là dòng sản phẩm mang nhiều giá trị thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử,
đặc sắc. Giá trị lao động trực tiếp của ngƣời thợ thủ công tích lũy trong mỗi
sản phẩm là rất lớn. Vì vậy có thể nói nhóm sản phẩm này phù hợp với những
thị trƣờng có mức thu nhập cao hơn là những thị trƣờng có mức thu nhập
trung bình và thấp.


13
Một số trƣờng hợp lên đến 80 – 100%
17

Mặt khác, cũng chỉ ở những nƣớc phát triển, ngƣời tiêu dùng mới xuất
hiện nhu cầu quan tâm đến truyền thống văn hóa, nghệ thuật của nƣớc ngoài.
Và cũng chỉ ngƣời tiêu dùng ở các quốc gia phát triển mới có nhu cầu trang trí
nhà cửa sao cho tiện nghi và sinh động hơn bằng những sản phẩm không chỉ
hữu dụng mà còn giàu tính thẩm mỹ và văn hóa.
Minh chứng cho những luận điểm trên, vẫn theo báo cáo của Alaa

Qattan (2009), Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hồng Kông là những nhà nhập khẩu
chủ yếu của sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
3. Mô hình trọng lƣợng trong thƣơng mại quốc tế
Mô hình trọng lƣợng
14
(gravity model) đƣợc sử dụng rất phổ biến trong
phân tích các hiện tƣợng kinh tế liên quan tới dòng chảy của các luồng hàng
hóa và dịch vụ. Mô hình này đƣợc đƣa ra lần đầu tiên bởi Jan Tinbergen
15
vào
năm 1962, sử dụng ý tƣởng định luật vạn vật hấp dẫn của Isacc Newton. Theo
đó, trao đổi thƣơng mại giữa hai quốc gia A và B đƣợc biểu diễn theo công
thức sau:

Trong đó:
: kim ngạch thƣơng mại hai chiều giữa nƣớc A và nƣớc B
: lần lƣợt là quy mô của hai nền kinh tế A và B
: Khoảng cách giữa hai quốc gia A và B
: hằng số hấp dẫn


14
Mô hình này còn đƣợc dịch dƣới tên mô hình hấp dẫn. Trong đề tài này, nhóm nghiên
cứu sử dụng thống nhất tên gọi mô hình trọng lƣợng.
15
Nhà kinh tế học ngƣời Hà Lan, giải thƣởng Nobel kinh tế năm 1969.
18

Nhƣ thế có thể thấy theo mô hình trọng lƣợng cơ bản, kim ngạch
thƣơng mại giữa hai quốc gia sẽ tỷ lệ thuận với quy mô của hai nền kinh tế và

tỷ lệ nghịch với khoảng cách giữa hai nƣớc. Khi sử dụng cho các phân tích
kinh tế lƣợng, mô hình này còn có thể viết ở các dạng sau:

Lấy logarit tự nhiên hai vế của phƣơng trình, mô hình đƣợc viết ở dạng:

Trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu của nƣớc i sang nƣớc j trong thời kỳ t
: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nƣớc i và nƣớc j trong thời kỳ t
: Dân số của nƣớc i và nƣớc j trong thời kỳ t
: Khoảng cách giữa nƣớc i và nƣớc j
: nhiễu tự nhiên
Nhƣ vậy, trong mô hình trọng lƣợng, có ba nhóm yếu tố tác động tới
kim ngạch xuất khẩu của hai quốc gia là: nhóm yếu tố cung ( ),
nhóm yếu tố cầu ( ) và nhóm yếu tố hấp dẫn, cản trở ( )
Những tác động của ba nhóm yếu tố đó tới thƣơng mại giữa hai nƣớc
đƣợc thể hiện trong sơ đồ dƣới đây:

19


Sơ đồ 1.2: Mô hình trọng lƣợng trong thƣơng mại quốc tế.
Nguồn: Đào Ngọc Tiến (2008)
Dƣới đây nhóm nghiên cứu sẽ giới thiệu khái quát về từng nhóm yếu tố
và tác động của chúng tới kim ngạch thƣơng mại giữa hai quốc gia.
3.1. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cung
Có hai yếu tố thƣờng đƣợc xét đến trong mô hình trọng lƣợng với tƣ
cách là yếu tố ảnh hƣởng đến cung hàng hóa xuất khẩu, đó là: Yếu tố thu
nhập (đƣợc biểu hiện bằng GDP hoặc GNP của nƣớc xuất khẩu), Yếu tố dân
số (đƣợc biểu hiện bằng số dân (population) hoặc số ngƣời trong độ tuổi lao
động (labor force) của nƣớc xuất khẩu).

Nƣớc xuất
khẩu
Nƣớc nhập
khẩu
Các yếu tố ảnh hƣởng đến luồng thƣơng mại quốc tế
Các yếu tố ảnh
hƣởng đến cung
Các yếu tố ảnh
hƣởng đến cầu
Các yếu tố cản trở,
hấp dẫn
Năng lực
sản xuất
của nƣớc
xuất khẩu
Chính sách
khuyến khích/
quản lý xuất
khẩu
Chính sách
khuyến khích,
quản lý nhập
khẩu
Sức mua của
thị trƣờng
nƣớc nhập
khẩu
“Khoảng
cách”
giữa hai

nƣớc
Đẩy
Hút
Biên giới nƣớc
xuất khẩu
Biên giới nƣớc
nhập khẩu
20

3.1.1. GDP (GNP) của nước xuất khẩu
GDP (GNP) của nƣớc xuất khẩu đại diện cho năng lực sản xuất của
nƣớc đó. Khi giá trị này tăng lên cũng đồng nghĩa với việc lƣợng cung hàng
hóa của nƣớc đó tăng lên và do đó tiềm năng xuất khẩu đƣợc mở rộng.
Theo Nguyễn Thị Hà Trang và Nguyễn Thị Minh Tâm
16
(2010), hầu
hết các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây đều đã chỉ ra tác động cùng chiều
của GDP (GNP) nƣớc xuất khẩu tới kim ngạch thƣơng mại giữa hai nƣớc.
Tuy nhiên mức độ ảnh hƣởng cũng khác nhau với từng quốc gia. Mức độ ảnh
hƣởng đó sẽ rõ rệt hơn ở những quốc gia lấy xuất khẩu làm động lực (nghĩa là
giữa xuất khẩu với thu nhập quốc dân có mối liên hệ chặt chẽ).
3.1.2. Dân số của nước xuất khẩu
Số dân (population) hoặc số ngƣời trong độ tuổi lao động (labor force)
của nƣớc xuất khẩu cũng là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng tới khả năng xuất
khẩu của một quốc gia. Tuy nhiên tác động này có thể diễn ra theo nhiều
chiều hƣớng khác nhau.
Trƣớc hết, số dân hay số ngƣời trong độ tuổi lao động cho biết nguồn
cung lao động của nƣớc xuất khẩu. Nếu nguồn cung này dồi dào thì khả năng
sản xuất sẽ đƣợc gia tăng và tiềm năng xuất khẩu đƣợc mở rộng.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, số dân của một nƣớc cũng cho biết

quy mô thị trƣờng của nƣớc đó. Dân số đông cũng có nghĩa là quy mô thị
trƣờng nội địa lớn, và do vậy có thể làm giảm sức ép mở rộng thị trƣờng và
bán hàng ra nƣớc ngoài của doanh nghiệp, nghĩa là làm giảm xuất khẩu.
Nhƣ vậy tác động của dân số nƣớc xuất khẩu tới kim ngạch thƣơng mại
giữa hai quốc gia là chƣa rõ ràng. Tác động đó có thể là cùng chiều, hoặc
ngƣợc chiều, tùy thuộc vào từng trƣờng hợp cụ thể.


16
Giải ba cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học Đại học Ngoại thƣơng năm 2010
21

Tóm lại, GDP (GNP) và dân số nƣớc xuất khẩu xuất hiện trong mô
hình trọng lƣợng với tƣ cách là các yếu tố tác động đến cung hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên có một số nghiên cứu, chẳng hạn nhƣ của Paulo Bastos và Joana
Silva (2010), khi xét đến luồng thƣơng mại chỉ xuất phát từ một nƣớc (tức
quốc gia xuất khẩu là duy nhất và cố định) thì nhóm yếu tố tác động đến cung
hàng xuất khẩu đã không đƣợc xét đến trong mô hình trọng lƣợng.
3.2. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cầu
Có hai yếu tố thƣờng đƣợc xét đến trong mô hình trọng lƣợng với tƣ
cách là yếu tố tác động đến cầu hàng hóa xuất khẩu, đó là: Yếu tố thu nhập
(đƣợc biểu hiện bằng GDP hoặc GNP của nƣớc nhập khẩu), Yếu tố dân số
(đƣợc biểu hiện bằng số dân hoặc số ngƣời trong độ tuổi lao động của nƣớc
nhập khẩu).
3.2.1. GDP (GNP) của nước nhập khẩu
GDP (GNP) của nƣớc nhập khẩu thể hiện quy mô của nền kinh tế và
mức thu nhập của quốc gia nhập khẩu. Chỉ số này càng cao thì khả năng chỉ
trả cho hàng hóa nhập khẩu càng lớn, và do đó giá trị xuất khẩu vào nƣớc đó
càng tăng.
Trong một số mô hình trọng lƣợng, để lƣợng hóa chính xác hơn tác

động của thu nhập của ngƣời dân ở quốc gia nhập khẩu tới kim ngạch thƣơng
mại giữa hai nƣớc, ngƣời ta có thể thay biến GDP bằng biến GDP bình quân
đầu ngƣời (đƣợc tính bằng ). Trong một số trƣờng hợp, ngƣời ta
cũng có thể thay số dân bằng số ngƣời trong độ tuổi lao động (labor force) và
sử dụng biến . Về thực chất, biến này cho biết năng suất
(productivity) của mỗi ngƣời trong độ tuổi lao động ở quốc gia nhập khẩu.
Mục đích của việc sử dụng biến này là nhằm hạn chế sai số khi sử dụng biến
22

GDP bình quân đầu ngƣời khi mà có một bộ phận dân số không có thu nhập
(ngƣời ngoài độ tuổi lao động).
3.2.2. Dân số của nước nhập khẩu
Cũng giống nhƣ dân số của nƣớc xuất khẩu, dân số của nƣớc nhập khẩu
cũng là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng tới kim ngạch thƣơng mại giữa hai quốc
gia. Tuy nhiên, tác động này cũng không rõ ràng và có thể diễn ra theo nhiều
chiều hƣớng khác nhau.
Trƣớc hết, dân số của nƣớc nhập khẩu biểu hiện quy mô của thị trƣờng
nƣớc nhập khẩu. Dân số càng đông thì nhu cầu của thị trƣờng nhập khẩu càng
đa dạng, và do đó nhu cầu với hàng hóa nói chung và hàng hóa nhập khẩu nói
riêng càng tăng.
Tuy nhiên, ngƣợc lại dân số của nƣớc nhập khẩu cũng cho biết nguồn
cung lao động ở nƣớc đó. Dân số càng đông thì nguồn cung lao động càng dồi
dào và nƣớc đó có thể sẽ có khả năng sản xuất đủ nhu cầu của mình mà không
cần nhập khẩu.
Nhƣ vậy tác động của biến dân số nƣớc nhập khẩu tới kim ngạch
thƣơng mại giữa hai quốc gia có thể là tác động cùng chiều hoặc ngƣợc chiều,
tùy thuộc vào từng trƣờng hợp cụ thể.
3.3. Nhóm các yếu tố hấp dẫn, cản trở
Theo sơ đồ 1.2 (Mô hình trọng lƣợng trong thƣơng mại quốc tế) ở phần
trên, nhóm các yếu tố hấp dẫn, cản trở gồm có: Các chính sách khuyến khích/

quản lý xuất khẩu (nhập khẩu) và “khoảng cách” giữa hai quốc gia.
3.3.1. Các chính sách khuyến khích/ quản lý xuất khẩu (nhập khẩu)
Những chính sách khuyến khích/ quản lý xuất khẩu (nhập khẩu) của
các quốc gia có tác động lớn đến trao đổi thƣơng mại giữa hai nƣớc. Trong
phạm vi của nghiên cứu này, nhóm tác giả đề cập tới tác động của hai chính
23

sách cơ bản là: Điều chỉnh rào cản thƣơng mại và tham gia vào các khu vực
mậu dịch tự do.
Việc điều chỉnh rào cản thƣơng mại có tác động trực tiếp tới kim ngạch
thƣơng mại giữa hai nƣớc. Khi những rào cản thƣơng mại (thuế quan và
những rào cản phi thuế quan) đƣợc gỡ bỏ hoặc nới lỏng thì trao đổi thƣơng
mại giữa hai quốc gia sẽ đƣợc tăng cƣờng và kim ngạch thƣơng mại gia tăng.
Và ngƣợc lại, khi những rào cản thƣơng mại đƣợc thiết lập chặt chẽ hơn thì
trao đổi thƣơng mại sẽ bị hạn chế và kim ngạch thƣơng mại hai chiều sẽ sụt
giảm.
Việc tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do có thể có có tác động
cùng chiều đến kim ngạch thƣơng mại giữa quốc gia đó với các quốc gia nội
khối. Tuy nhiên tác động này cũng khác nhau với từng quốc gia và từng khu
vực vì còn phụ thuộc vào các chính sách của mỗi khối kinh tế. Chẳng hạn
theo Céline Carrence (2003) (trích dẫn trong Nguyễn Thị Hà Trang và
Nguyễn Thị Minh Tâm (2010)), có những khối kinh tế thúc đẩy xuất khẩu
nhƣ NAFTA, ASEAN, CACM, nhƣng cũng có những khối kinh tế hạn chế
xuất khẩu nhƣ MECOSUR.
3.3.2. “Khoảng cách” giữa hai quốc gia
“Khoảng cách” giữa hai quốc gia ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm cả khoảng cách địa lý và một số cách biệt khác giữa hai quốc gia về kinh
tế, chính trị, văn hóa, Tuy nhiên, trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng
tôi chỉ đề cập tới khoảng cách địa lý, yếu tố có thể đƣợc lƣợng hóa một cách
đơn giản hơn cả.

Thông thƣờng, khoảng cách địa lý sẽ có tác động ngƣợc chiều đến xuất
khẩu. Vì khoảng cách địa lý càng xa đồng nghĩa với chi phí vận chuyển, và
24

rủi ro trên đƣờng vận chuyển càng lớn. Ngƣợc lại, khoảng cách càng gần thì
chi phí vận chuyển càng giảm và rủi ro càng đƣợc hạn chế.
Nhƣ vậy trên đây nhóm nghiên cứu đã giới thiệu khái quát về mô hình
trọng lƣợng và các biến số thƣờng xuất hiện trong mô hình trọng lƣợng với tƣ
cách là những yếu tố tác động tới kim ngạch thƣơng mại giữa hai quốc gia.
Nhờ vào việc xét đến tác động của nhiều nhóm yếu tố và khả năng lƣợng hóa
dễ dàng các yếu tố đó, mô hình trọng lƣợng đã và đang đƣợc sử dụng rất phổ
biến trong các phân tích về thƣơng mại quốc tế. Do vậy, nghiên cứu này của
chúng tôi cũng sẽ đặt nền tảng trên mô hình trọng lƣợng để xác định và đánh
giá các yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ
của Hà Nội giai đoạn 2005 – 2009.

×