Mở Đầu
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, hình
thành và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Thực tế đã khẳng định hoạt
động TDTT có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội; TDTT không những mang
lại vinh quang cho Tổ quốc mà còn là phương tiện thỏa mãn nhu cầu tinh thần của
toàn dân và toàn xã hội.
Thông qua hoạt động TDTT giúp người tập tăng cường được sức khỏe,
phát triển các tố chất vận động, rèn luyện được đạo đức, tâm lý, góp phần phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm đến công tác
TDTT. Nghị quyết IV TW Đảng khóa VII đề cập: "TDTT là biện pháp hàng đầu
tăng cường sức khỏe, nâng cao đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật ". Sự coi
trọng và quan tâm đến công tác TDTT và phát triển thể chất cho nhân dân không
chỉ những năm gần đây mà thể hiện ngay những ngày đầu đất nước độc lập, đất
nước đang phải đương đầu với nhiều khó khăn, chống giặc đói, giặc ngoại xâm
Chính phủ đã phát động phong trào "Khỏe vì nước" trong nhân dân.
Sự phát triển phong trào TDTT là điều kiện thuận lợi cho giáo dục con
người toàn diện. Con người có đủ các phẩm chất: Trí dục, mỹ dục, thể dục và lao
động. Bơi lội là một trong những môn thể thao có ý nghĩa thực dụng quan
trọng, là một trong những môn thể thao trọng điểm có ý nghĩa giáo dục các
phẩm chất của con người. Mặt khác,do điều kiện địa lý đất nước ta có trên
3000km đường biển, nhiều sông ngòi, ao hồ và đặc biệt thiên nhiên vô cùng khắc
nghiệt, hàng năm mưa bão, lũ lụt thường xuyên xảy ra, đòi hỏi phải chế ngự. Vì
vậy, Bơi lội cần được phổ cập rộng rãi trong mọi ngành, nghề, đối tượng để góp
phần phục vụ cho việc xây dựng xã hội.
Bơi lội là một môn thể thao cơ bản không thể thiếu trong các kỳ Olimpic,
tại các Đại hội thể thao ở khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, Bơi lội đã và
đang ngày càng được phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ các
tỉnh, thành phố, ngành cho tới các quận, Thị xã, thị xã. Đặc biệt phong trào tập
luyện Bơi lội được đặt nền móng vững chắc khi Trung ương Đảng phát động
phong trào TDTT toàn quốc từ năm 1958 (lúc đó gọi là phong trào thể dục vệ
sinh) đã chọn môn Bơi lội làm một trong những môn thể thao chủ yếu để tập
trung phát triển, đến nay đã hình thành một số đơn vị điểm về bơi lội trong toàn
quốc.
1
Sơn Tây là một Thị xã nằm ở phía Tây của Hà Nội. Sơn Tây có diện tích tự
nhiên 113,5km
2
, dân số khoảng 818.831 người, với 6 xã và 9 phường. Sơn Tây là
một Thị xã công nghiệp phát triển chưa mạnh, thu nhập của người dân dựa vào
cây lúa, cây hoa màu, chăn nuôi, thả cá, và nghề truyền thống, kinh doanh vừa và
nhỏ, kinh tế còn kém phát triển. Song các cấp lãnh đạo chính quyền Thị xã luôn
tạo điều kiện phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa. Trong đó TDTT là một trong
những ngành được quan tâm đầu tư về các mặt để hoạt động và phát triển. Sơn
Tây từ một Thị xã có phong trào TDTT yếu kém của thành phố Hà Nội cũng đã
vươn lên thành Thị xã có phong trào TDTT khá phát triển. Tuy nhiên, phong trào
TDTT của Thị xã phát triển phần nào còn mang tính tự phát, chủ yếu phụ thuộc
vào sự ham thích của người tập, mà chưa có định hướng cụ thể về các môn thể
thao có tính thực dụng đối với Thị xã.
Bơi lội là môn thể thao có tính quần chúng để tập luyện, đặc biệt phát triển
ở các vùng chiêm trũng ở đồng bằng Bắc Bộ như Sơn Tây. Tuy vậy trong những
năm qua Thị xã Sơn Tây chưa chú trọng đến phát triển môn thể thao này mặc dù
nó tác dụng thiết thực và có điều kiện phát triển tốt.
Mặt khác ,nghiên cứu các biện pháp phát triển phong trào Bơi lội đã có
nhiều tác giả :Nguyễn Văn Nhân “ Nghiên cứu một số biện pháp phát triển phong
trào môn Bơi Lội ở huyện Hưng Nghĩa tỉnh Nam Định ”. Nguyễn Minh Đức “
Nghiên Cứu các biện pháp phát triển phong trào môn Bơi Lội trên địa bàn huyện
Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên ” . Lê Trọng Hải “ Nghiên Cứu hiện trạng và các giải
pháp phát triển phong trào môn Bơi Lội ở thành phố Hải Phòng ” . Nguyễn
Văn Nguyện “ Nghiên Cứu các biện pháp phát triển phong trào môn Bơi Lội tại
huyện Cẩm Giàng – tỉnh Hải Dương ” Tuy nhiên ,chưa có công trình nào
nghiên cứu về phát triển TDTT ở thị xã Sơn Tây ,chưa có tác giả nào nghiên cứu
về phát triển phong trào tập luyện môn Bơi Lội tại đây.
Chính vì vậy, xuất phát từ thực trạng trên với mong muốn của bản thân,
muốn góp sức vào sự nghiệp phát triển TDTT trên địa bàn Thị xã nói chung và
phát triển tập luyện môn Bơi lội nói riêng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu các biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội
trên địa bàn Thị xã Sơn Tây - thành phố Hà Nội".
* Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi xác định mục đích làm rõ thực trạng và
các yếu tố làm hạn chế phong trào tập luyện môn Bơi lội trên địa bàn Thị xã Sơn
2
Tây. Từ đó đề xuất các biện pháp nhằm phát triển hơn nữa phong trào tập luyện
môn Bơi lội trên địa bàn Thị xã Sơn Tây. Góp phần vào công cuộc phát triển sự
nghiệp TDTT của đất nước trong tình hình mới hiện nay.
* Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đã nêu chúng tôi tập trung tìm hiểu các mục
tiêu sau
+ Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng phong trào TDTT nói chung và
phong trào môn Bơi lội nói riêng trên địa bàn Thị xã Sơn Tây - thành phố Hà
Nội
-Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn TDTT của thị xã Sơn Tây
- Thực trạng phong trào TDTT trên địa bàn thị xã Sơn Tây
- Thực trạng thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật TDTT của thị xã Sơn Tây .
-Thực trạng các giải thi đấu TDTT của thị xã Sơn Tây
- Thực trạng công tác đào tạo VĐV ở thị xã Sơn Tây , thành phố Hà Nội
+ Mục tiêu 2: Nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển phong trào
tập luyện môn Bơi lội trên địa bàn Thị xã Sơn Tây - thành phố Hà Nội.
3
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vai trò, vị trí của TDTT trong sự nghiệp phát triển đất nước
TDTT là một bộ phận trong nền văn hoá của mỗi dân tộc, trong nền văn
minh của nhân loại. Ngày nay, hoạt động TDTT quần chúng cũng như thể thao
thành tích cao ngày càng trở thành nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân,
không chỉ là những hình thức giải trí, nghỉ ngơi, nâng cao sức khoẻ, mà còn là
niềm tự hào cho mỗi dân tộc, làm tăng thêm tình hữu nghị, mối giao lưu giữa các
quốc gia, khu vực trên thế giới Do đó TDTT đã trở thành hoạt động sôi nổi
trên hầu hết các quốc gia, khu vực trên thế giới.
TDTT không những góp phần củng cố môi trường hoà bình mà còn tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước; phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần vào việc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội (Báo cáo chính trị của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII).
Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người;trước hết là nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh. TDTT làm phong phú đời sống của
nhân dân, nâng cao năng suất lao động và củng cố quốc phòng.
1.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác TDTT và TDTT
quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm hướng tới những mục
tiêu cao cả của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, ổn định,
dân giàu nước mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định trong
giai đoạn mới:
“ Xây dựng nền TDTT có tính dân tộc khoa học và nhân dân gìn giữ bản sắc
dân tộc và truyền thống đồng thời nhanh chóng tiếp thu có chọn lọc những thành
4
tựu khoa học hiện đại phát triển toàn diện cả TDTT quần chúng và thể thao
thành tích cao trong hoạt động chuyên nghiệp ”
“Phát triển thể dục thể thao là trách nhiệm của toàn đảng toàn xã hội
trong thực hiện công tác xã hội hoá TDTT nhưng vẫn đảm bảo sự quản lý của
nhà nước”
Mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về TDTT phục vụ cho sự nghiệp phát
triển TDTT của đất nước, tăng cường tính hữu nghị đoàn kết giữa các nước
trong khu vực và các dân tộc trên thế giới (Trích chỉ thị 36/CT-TW Hà Nội,
ngày 23/04/1999 )
Mục tiêu cơ bản, lâu dài công tác TDTT là:’’ hình thành nền TDTT phát
triển tiến bộ góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh
thần của nhân dân và phấn đấu đạt được vị trí xứng đáng trong các hoạt động
TDTT quốc tế và trong khu vực Đông Nam Á.”
Báo cáo chính trị Ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã nêu rõ “các vấn đề
chính sách xã hội phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá” văn kiện đại hội Đảng
toàn quốclần thứ X đã nhấn mạnh: Đẩy mạnh các hoạt động TDTT về cả quy mô
và chất lượng. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia hoạt động
và phát triển sự nghiệp TDTT. Phát triển rộng rãi TDTT quần chúng cho mọi đối
tượng, mọi địa bàn, trên cơ sở đó xây dựng lực lượng thể thao thành tích cao cho
đất nước. Từng bước xây dựng mô hình kinh tế dịch vụ TDTT phù hợp với cải
cách kinh tế thị trường mở cửa tiến bộ xây dựng nền công nghiệp thể thao bao
gồm: thiết kế xây dựng các công trình thể thao, sản xuất và lưu thông hàng hoá
dụng cụ thể dục thể thao, dịch vụ thể thao giải trí
Để phát huy vai trò, trách nhiệm của toàn cộng đồng trong việc tổ chức
thực hiện công tác xã hội hoá. Tháng 7/2005 tại Hà Nội, chính phủ đã tổ chức hội
nghị xã hội hoá toàn quốc. Tại đây, quan điểm và định hướng chung về xã hội hoá
thuộc lĩnh vực TDTT đã nêu rõ. Xã hội hoá TDTT là một quá trình tạo ra các cơ
chế, chính sách và các điều kiện cần thiết để phát huy các tiềm năng trí tuệ và vật
chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội, chăm lo phát triển sự nghiệp TDTT.
Đồng thời tạo điều kiện cho toàn xã hội được hưởng thụ các thành quả TDTT ở
5
mức độ ngày càng cao. Là quá trình chuyển đổi phương thức quản lý với cơ chế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đa dạng hoá các chủ thể tham gia
hoạt động TDTT nhằm huy động tiềm năng nguồn lực và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực trong xã hội.
Việc hình thành và phát triển được các điều kiện để đảm bảo cho TDTT
như hệ thống tổ chức quản lý TDTT các cấp, các hệ thống đào tạo cán bộ và
VĐV, hệ thống cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của TDTT ở Trung ương và tỉnh,
thành, ngành là tạo ra được các cơ sở pháp lý để đảm bảo cho TDTT phát triển.
Đó là cơ sở pháp lý để các ngành, các cấp phát triển phong trào TDTT nói
chung và tập luyện môn bơi lội nói riêng.
1.3. Vai trò, vị trí, tác dụng của môn bơi lội trong việc phát triển con
người
Bơi lội là một môn thể thao hoạt động trong môi trường nước. Tập luyện
bơi lội thường xuyên có thể nâng cao năng lực điều hoà thân nhiệt để thích ứng
với sự biến đổi nhiệt độ ở môi trường bên ngoài. Vận động trong môi trường nước
có ảnh hưởng tốt tới việc nâng cao chức năng một số bộ phận của cơ thể như: hệ
tim mạch, hệ hô hấp. Tăng quá trình trao đổi chất.
Khi bơi trong nước cơ thể ở vị trí nằm ngang, dưới tác động sức ép của
nước, máu lưu thông dễ dàng hơn. Nước lại có áp xuất lớn vào bề mặt cơ thể, mặt
khác khi bơi con người phải chịu một lực cản rất lớn của nước. Do vậy trong tập
luyện Bơi lội con người sẽ thích ứng dần, làm cho các chức năng vận động cơ thể
được hoàn thiện nâng cao.
Tập luyện bơi còn làm tăng hồng cầu, từ đó làm tăng khả năng hấp thụ oxy,
giúp cho cơ thể hoạt động bền bỉ, dẻo dai hơn. Tập luyện bơi lội thường xuyên
giúp cho các tố chất thể lực, như sức nhanh, sức mạnh, mềm dẻo của cơ thể
được tăng cường. Đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh, các cấp tập luyện bơi lội sẽ
giúp cho quá trình phát triển cơ thể tốt hơn tạo cho nền tảng sức khoẻ cho học tập
và làm việc sau này. Tập luyện bơi lội giúp cho người tập phát triển ý trí dũng
cảm tinh thần vượt khó khăn, tinh thần đồng đội, ý thức tổ chức kỹ thuật và các
phẩm chất tâm lý tốt đẹp khác.
6
Bơi lội còn được các chuyên gia thể thao thế giới đánh giá là một trong
những hoạt động vui chơi giải trí được mọi người yêu thích nhất trong thế kỷ
XXI. Nó sẽ tạo tác dụng tích cực làm phong phú cuộc sống văn hoá tinh thần cho
loài người. Môn Bơi lội là một môn có giá trị thực dụng rất cao trong lao động và
sản xuất. Trong điều kiện sông nước hoặc trong việc phòng chống lụt, bão, lũ
đều phải có những kỹ năng bơi lội mới có thể khắc phục được trở ngại để nâng
cao năng suất và bảo vệ thành quả lao động xã hội. Cũng cần chỉ ra rằng, nắm bắt
được kỹ thuật bơi lội sẽ có thể bảo vệ được tính mạng con người và trong lĩnh vực
quốc phòng Bơi lội còn là khoa mục quân sự quan trọng, thường xuyên tập luyện
bơi lội có thể rèn luyện sức khoẻ và khắc phục mọi trở ngại trong chiến đấu, từ đó
góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bơi lội là một trong những môn thể thao cơ bản lại có số bộ huy chương rất
lớn trong các đại hội Olympic. Mặt khác, các cuộc thi đấu bơi lội là cầu nối về
chính trị, ngoại giao giữa các nước, tăng cường tính hữu nghị, sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc trên hành tinh của chúng ta. Vì vậy, nhiều quốc gia trên thế
giới ngày càng chú trọng phát triển môn bơi lội, nhiều nước đã cho xây dựng rất
nhiều bể bơi, nhiều dụng cụ tập luyện mới được xây dựng và sáng tạo. Đứng về
thể thao thành tích cao, nhiều quốc gia ngày càng có nhiều trung tâm đào tạo vận
động viên được đào tạo bài bản từ khâu tuyển chọn đến khâu huấn luyện tạo ra
ngày càng nhiều vận động viên xuất sắc cho đội tuyển quốc gia. Chính vì lẽ đó
thành tích của thể thao thế giới ngày càng được nâng cao đóng góp to lớn vào việc
phát triển môn thể thao hiện đại của thế giới.
1.4. Các yếu tố chi phối tới sự phát triển môn Bơi lội
1.4.1. Yếu tố nhận thức về TDTT của con người
Chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng vấn đề nhận thức của con người và cho
rằng “chỉ có giác ngộ cách mạng mới có hành động cách mạng” còn các nhà tâm
lý học thì cho rằng “nhận thức đúng thì mới tạo ra được động cơ hoạt động đúng
đắn”.
Vì vậy, muốn có phong trào TDTT nói chung và môn Bơi lội nói riêng hoạt
động sâu rộng và đạt hiệu quả thì điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức về vị
7
trí, vai trò tác dụng cũng như giá trị đích thực của TDTT nói chung và môn bơi lội
nói riêng để từ đó tạo ra động cơ đúng đắn để tập luyện.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã phát triển mạnh mẽ sự
nghiệp văn hoá giáo dục TDTT thông qua hoạt động tuyên truyền. Nhờ đó, nhận
thức của người dân đối với TDTT nói chung và đối với môn Bơi lội nói riêng đã
nâng cao lên một bước. Song trong đông đảo quần chúng nhân dân ta hiện nayvới
đời sống còn nghèo và tập chung lo cái ăn, cái mặc hàng ngày nên sự nhận thức
về vai trò,ý nghĩa của TDTT còn nhiều mặt hạn chế.Ngay cả một số lãnh đạo
cũng chưa thực sự có nhận thức đầy đủ về giá trị, vai trò và tác dụng của TDTT
đối với sức khoẻ, sản xuất và quốc phòng.
Vì vậy, nâng cao nhận thức cho mọi người dân trong cả nước về TDTT nói
chung và môn Bơi lội nói riêng đang là một vấn đề hết sức bức thiết với cán bộ và
những người làm công tác TDTT của Việt Nam.
1.4.2. Trình độ phát triển kinh tế ảnh hưởng tới sự phát triển TDTT và
Bơi lội
Yếu tố kinh tế – xã hội có một tầm quan trọng để tạo ra cơ sở vật chất,
phương tiện và các điều kiện khác như: Thời gian, chế độ dinh dưỡng và đảm bảo
cho tập luyện TDTT như chúng ta đã biết, nếu như tập luyện bơi lội mà không có
bể bơi, dụng cụ bổ trợ, đời sống kinh tế còn thấp, không có thời gian rảnh rỗi, thì
khó có thể phát triển phong trào bơi lội rộng khắp được. Vì vậy, nền kinh tế kém
phát triển sẽ kìm hãm rất lớn tới sự phát triển văn hoá ,giáo dục và TDTT; Ngược
lại, khi nền kinh tế tăng trưởng tốt thì tạo cơ sở cho nền giáo dục và TDTT phát
triển.
Trong những năm gần đây nhờ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước nên trình độ kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển lớn lao.
Bình quân thu nhập đầu người đạt trên 760USD/người/năm. Nhờ nền kinh tế phát
triển nên đầu tư cho TDTT cũng tăng lên, trên đất nước ta đã xây dựng được hàng
vài chục sân bãi, bể bơi mới, từ đó đã tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển Bơi
lội.
1.4.3. Yếu tố địa lý ảnh hưởng tới sự phát triển môn Bơi lội.
8
Như chúng ta đã biết điều kiện địa lý là một yếu tố quan trọng chi phối các
hoạt động của con người.Nhiều nước ở vùng Bắc cực khí hậu lạnh rất khó cho
việc phát triển bơi lội. Một số nước xích đạo khác tuy có khí hậu nóng bức song
lại thiếu nguồn nước như vùng sa mạc Sahara, Iran, Irắc, Mông Cổ cũng rất khó
khăn trong việc phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội.
Việt Nam có bờ biển dài trên 3000km và có nhiều điều kiện thuận lợi cho
phát triển môn Bơi lội. Bởi vì nước ta có thời tiết 4 mùa quanh năm, lại có nhiều
ao, hồ, sông, suối Tất cả những điều kiện địa lý trên thiên nhiên ban cho rất
thuận lợi cho việc phát triển phong trào tập luyện bơi lội.
1.4.4. Chế độ chính sách ảnh hưởng tới sự phát triển TDTT và Bơi lội
Các nhà quản lý học TDTT cũng như các nhà xã hội học TDTT của nước
ngoài như: Lê Nguyên Chấn (Trung Quốc), Pônhicốp (Nga) cho rằng yếu tố ảnh
hưởng tới sự phát triển nền thể thao của mỗi nước có liên quan tới chế độ chính trị
và trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Điều đó cho thấy sự phát triển
môn Bơi lội, một môn thể thao quan trọng của nền thể thao mỗi nước cũng không
tránh khỏi quy luật đó. ở Việt Nam mỗi người dân đều được làm chủ và bình đẳng
với nhau không phân biệt tôn giáo, dân tộc nam nữ trong chế độ xã hội chủ nghĩa
không còn chế độ người bóc lột người, sức lao động được giải phóng. Từ đó tạo
cơ hội cho mọi người đều được tham gia mọi hoạt động xã hội trong đó có TDTT.
Đặc biệt trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản và Chính phủ rất coi
trọng công tác TDTT nên đã có nhiều chủ trương đúng đắn để phát triển TDTT.
Đồng thời đã thông qua quy hoạch phát triển TDTT đến năm 2020. Tất cả môi
trường chính trị đã tạo điều kiện cho thể thao Việt Nam phát triển thuận lợi.
Tóm lại: phong trào TDTT nói chung và môn bơi lội nói riêng được Đảng
và Nhà nước ta hết sức coi trọng và đã có những chủ trường chính sách đúng đắn
để từng bước đưa nền thể thao Việt Nam cũng như nền Bơi lội Việt Nam phát
triển hoà nhập với các nước trong khu vực, châu lục và trên thế giới.
Để phát triển mạnh mẽ hơn nữa phong trào TDTT nói chung và môn Bơi
lội nói riêng nước ta đòi hỏi phải khắc phục các trở ngại khó khăn và các ảnh
9
hưởng xấu của các yếu tố trên đồng thời phát huy triệt để các mặt tích cực các yếu
tố có lợi. Đó cũng chính là những vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết.
10
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu:
Qua việc đọc, tham khảo sách báo chúng tôi tiến hành phân tích tổng hợp
các nội dung có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận và để nghiên cứu và lựa chọn
các biện pháp để phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội trên địa bàn thị xã
Sơn Tây – thành phố Hà Nội.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn -toạ đàm
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn và tọa đàm với các nhà lãnh đạo công tác
TDTT ,các giáo viên ,huấn luyện viên về tình hình phát triển phong trào hoạt
động Bơi Lội ở thị xã Sơn Tây - thành phố Hà Nội .
Chúng tôi tiến hành theo 2 hình thức :
- Phỏng vấn trực tiếp
- Phỏng vấn gián tiếp ( phiếu hỏi )
Nội dung phỏng vấn tập trung vào các vấn đề như: cơ sở vật chất, đội ngũ
cán bộ chuyên môn, sự phát triển phong trào TDTT Trên cơ sở đó để thu thập
được các số liệu phục vụ việc giải quyết các nhiệm vụ của đề tài.
2.1.3. Phương pháp điều tra sư phạm
Bằng hình thức hỏi, trao đổi trực tiếp ,gián tiếp ,chúng tôi tiến hành thu
thập số liệu về các buổi tập luyện của quần chúng nhân dân ,vận động viên, các
cuộc kiểm tra , thi đấu Bơi Lội ở cơ sở, cũng như các mặt hoạt động khác của
phong trào TDTT tại Thị xã Sơn Tây.
2.1.4. Phương pháp toán học thống kê:
Chúng tôi sử dụng các thuật toán thống kê nhằm giúp xử lý các số liệu
nghiên cứu và có thể phân tích đánh giá kết quả nghiên cứu một cách khách quan
khoa học, giúp cho các kết luận có độ tin cậy và sức thuyết phục cao.
2.2 Tổ chức nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu
11
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 4/2010 đến tháng 5/2011 và
được chia làm 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 4/2010 đến tháng 6/2010 gồm các công việc như
sau:
Lựa chọn đề tài nghiên cứu, xây dựng và bảo vệ đề cương nghiên cứu.
- Giai đoạn 2: Được tiến hành từ tháng 6/2010 đến tháng 2/2011:
Là giai đoạn tiến hành giải quyết những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận
của đề tài .Trong giai đoạn này chúng tôi đã tiến hành khảo sát ,điều tra thực trạng
cơ sở vật chất ,phong trào tập luyện TDTT nói chung và Bơi lội nói riêng .Thu
thập số liệu ,nghiên cứu đề xuất các biện pháp
- Giai đoạn 3: Từ tháng 02/2011 đến tháng 06/2011:
Phân tích các kết quả nghiên cứu , viết hoàn thành đề tài, chuẩn bị bảo vệ
kết quả nghiên cứu trước hội đồng khoa học .
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu:
Cán bộ và phong trào tập luyện TDTT ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
- Tại địa bàn thị xã Sơn Tây – thành phố Hà Nội.
12
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng phong trào TDTT nói chung và
phong trào môn Bơi lội nói riêng trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà
Nội
3.1.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn TDTT của thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội
Đội ngũ cán bộ chuyên môn TDTT là yếu tố tác động trực tiếp đến sự phát
triển phong trào TDTT . Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn TDTT của thị xã
Sơn Tây được tìm hiểu thông qua điều tra phỏng vấn. Chúng tôi thu nhận được số
liệu và thể hiện ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn TDTT ở thị xã Sơn Tây –
thành phố Hà Nội
TT Loại hình cán bộ Số lượng Tỷ lệ % Trình độ đào tạo
ĐH CĐ TC
1 Cán bộ quản lý 4 33 1 2 1
2 Huấn luyện viên 1 8 1 0 0
3 Cán bộ chuyên môn 3 25 1 2 0
4 Cán bộ khác 4 33 0 2 2
Tổng số 12 100 3 6 3
Qua kết quả bảng 3.1 cho ta thấy : đội ngũ cán bộ TDTT của thị xã Sơn
Tây là 12 người, với trình độ đào tạo: Đại học 3, Cao đẳng 6, Trung cấp 3 .Trong
đó cán bộ quản lý có 4 người chiếm 33% có 01 cán bộ có trình độ đại học. Đây
chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo trực tiếp quản lý phong trào TDTT ở thị xã.
13
Cán bộ chuyên môn TDTT, huấn luyện viên gồm có 04 người, trong đó chỉ
có 01 người làm công tác huấn luyện chiếm 8% . Đây là lực lượng cán bộ chủ yếu
cho sự phát triển các môn thể thao mũi nhọn của thị xã. Đây chính là các cán bộ
trực tiếp tổ chức và hướng dẫn về chuyên môn TDTT. Tuy nhiên, số lượng chưa
đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn của phong trào TDTT. Qua trao đổi với cán
bộ quản lý,chúng tôi được biết có 01 người được đào tạo về chuyên môn Bơi lội,
song công việc của người về hoạt động chuyên môn chỉ mang tính thời vụ và
phải đảm nhiệm thêm một số công việc khác Điều đó đã làm ảnh hưởng rất lớn
đến việc tổ chức phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội trên địa bàn thị xã
Sơn Tây .
Cán bộ khác chiếm 33% với 4 người trong đó có 2 cao đẳng và 2 người có
trình độ trung cấp. Đây là những người làm công tác văn phòng, hành chính, thủ
quỹ, bảo vệ . Họ chỉ là đối tượng hoạt động gián tiếp mà không trực tiếp tham
gia vào công tác chuyên môn TDTT.
Kết quả nghiên cứu về đội ngũ cán bộ chuyên môn trên địa bàn Thị xã Sơn
Tây cho chúng ta thấy sự hạn chế về số lượng cán bộ là một nhân tố có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc phát triển phong trào TDTT tại đây.
3.1.2. Thực trạng về phong trào tập luyện TDTT trên địa bàn thị xã Sơn
Tây
Sự phát triển của phong trào TDTT được đánh giá thông qua các chỉ số cơ
bản, đó là số lượng người tham gia tập luyện thi đấu, số lượng các môn thể thao
được quần chúng nhân dân tham gia tập luyện hàng ngày.
Để tìm hiểu sự phát triển phong trào TDTT cũng như sự phát triển của các
môn thể thao trong thị xã ,chúng tôi tiến hành thu thập số liệu. Kết quả được thể
hiện ở bảng 3.2
14
Bảng 3.2 thực trạng phong trào tập luyện TDTT của thị xã Sơn Tây
TT
Các môn thể
thao
SL
(ng)
Tỷ lệ
%
Loại hình tổ chức tập luyện
Số gia đình
thể thao
Số đội thể
thao
Số điểm
nhóm,CLB
SL % SL % SL %
1 Bóng Đá
345 16 0 0 10 23 6 19
2 Bóng Chuyền
170 8.0 0 0 5 11 3 10
3 Cầu Lông
185 8.0 2 25 7 16 4 13
4 Bơi Lội
175 7.9 1 5 2 5.0 2 6.4
5 Điền Kinh
245 11 0
0
3 7.0 2 6.4
6 Bóng Bàn
95 4.2 1 5 2 5.0 2 6.4
7 Vật
135 6.0 0 0 1 0.2 1 0.3
8 Võ
245 11 1 5 2 0.5 2 6.4
9 Bóng Chuyền
200 9.0 0 0 4 9.0 3 10
10 TD DưỡngSinh
230 10
0
0 4 9.0 3 10
11 Cờ Tướng
85 4.0 0 0 1 0.2 1 0.3
12 Cờ Vua
60 3.8 0 0 1 0.2 1 0.3
13 Bắn Nỏ
45 2.0 0 0 1 0.2 1 0.3
14 Tổng 2215 100 5 100 43 100 31 100
15
Qua bảng 3.2 ta thấy phong trào tập luyện TDTT ở thị xã Sơn Tây rất
phong phú tập trung chủ yếu vào các môn thể thao hiện đại, dễ tập luyện và không
đòi hỏi nhiều về cơ sở vật chất kỹ thuật với 13 môn thể thao và 2215 người tham
gia hoạt động tập luyện TDTT . Trong đó bao gồm nhiều đối tượng khác nhau.
Học sinh sinh viên, lực lượng vũ trang, công nhân viên chức và quần chúng nhân
dân của các cơ quan trong thị xã với 5 gia đình thể thao ;43 số đội thể thao và 31
điểm tập và câu lạc bộ TDTT.cụ thể :
+ Môn Bóng đá là môn có số lượng người tham gia hoạt động tập luyện rất
nhiều với 345 người chiếm tỷ lệ 16% người tham gia tập luyện và quan tâm yêu
thích nhất lực lượng chủ yếu là học sinh ,thanh thiếu niên
+ Môn Bóng chuyền là Môn thể thao đối kháng được nhiều đối tượng tham
gia tập luyện, với số lượng người tập là 170 người ở 03 điểm nhóm tập luyện.
+ Môn Cầu lông là môn thể thao được nhiêù học sinh,thanh thiếu niên và
cán bộ công nhân viên chức tham gia hoạt động ; đây là môn thể thao rất dễ tập
luyện và phù hợp với mọi đối tượng tham gia hoạt động.Môn Điền kinh chiếm
7.9% tổng số người với 245 người tập và 3 đội thể thao chiếm tỷ lệ 7.0% tổng số
đội
+ Môn Bơi lội có số lượng người tập luyện là 175 người chiếm 7.9% với 2
đội thể thao và 2 điểm tập luyện chính; là một môn thể thao có ý nghĩa thực tế
trong phòng chống tai nạn thiên nhiên,song số người tham gia tập luyện chưa
nhiều , đó là vấn đề chúng ta phải suy nghĩ. Một số môn thể thao như: Bóng
bàn ,bóng chuyền hơi ,thể dục dưỡng sinh, Vật ,cờ vua, cờ tướng cũng có số
người tham gia hoạt động tương đối phát triển
+ Môn Võ có số lượng người tham gia tập luyện 245 người chiếm 11%
tổng số người tập, số gia đình tập luyện môn thể thao này là 1 gia đình chiếm 5%
với 2 đội và 2 điểm tập. Võ là một môn thể thao có số lượng người tập tương đối
nhiều hơn các môn TT khác vì thị xã có nhiều địa điểm tập như trung tâm Võ cổ
truyền Bảo Long và các môn phái võ khác phát triển.
Tóm lại: Qua điều tra phong trào hoạt động và tập luyện TDTT ở thị xã
Sơn Tây cho chúng ta thấy phong trào hoạt động TDTT ở đây đã có chiều hướng
16
đi lên tương đối mạnh, nhưng sự phát triển đó chưa đồng đều. Phong trào TDTT
quần chúng đã có sự phát triển nhưng số lượng còn hạn chế, chất lượng chưa cao.
3.1.3. Thực trạng trang thiết bị ,cơ sở vật chất kỹ thuật TDTT của thị
xã Sơn Tây.
Trang thiết bị,cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của phong trào TDTT nói chung và phong trào tập luyện môn Bơi lội
nói riêng. Kết quả nghiên cứu nội dung này được trình bày ở bảng 3.3
Bảng 3.3. Thực trạng về trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật TDTT ở
thị xã Sơn Tây
TT
Tên công
trình
Đơn vị
Số
lượng
Mức độ sử dụng
Tốt Được Kém
1 Bóng đá Sân 10 1 6 3
Xuống cấp
2 Bóng chuyền Sân 5 2 2 1
Đã cũ
3 Võ Phòng 3 2 1 0
Đã cũ
4 Vật Phòng 1 0 1 0
Tự tạo
5 Cầu lông Sân 12 4 6 2
Xuống cấp
6 Bơi lội Bể 1 0 1 0
Đã cũ
7 Điền kinh Sân 1 0 1 0
Xuống cấp
8 Bóng bàn Bàn 4 2 1 1
Đã cũ
9 Sân vận động Sân 1 0 1 0
Mới
10 Nhà thi đấu Nhà 1 0 1 0
Đã cũ
+ Các số liệu thu được cho thấy: cơ sở vật chất, trang thiết bị tập luyện
TDTT ở Thị xã Sơn Tây còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Điều đó thể hiện :
+ Hầu hết các công trình, sân bãi tập luyện TDTT đều đã cũ, chất lượng
xuống cấp. Số lượng các sân bãi còn quá ít, không thể đáp ứng nhu cầu tập luyện
của nhân dân.cụ thể:
17
+ Bơi lội là một môn thể thao hoạt động dưới nước rất thuận lợi, song ở thị
xã Sơn Tây mới chỉ có 1 bể bơi, đã được xây dựng từ lâu đang xuống cấp nên chỉ
có thể đáp ứng được số lượng người tập ít. Phần lớn các đối tượng tự tập luyện
Bơi lội ở các ao, hồ, sông, ngòi là chính và tập luyện theo ý thích cá nhân. Qua
tìm hiểu, chúng tôi được biết trang thiết bị phục vụ cho tập luyện Bơi lội như
phao bơi, quần áo, kính bơi và các thiết bị hỗ trợ cho tập luyện hầu như không có.
Chính vì vậy đã làm hạn chế phong trào tập luyện môn Bơi lội của thị xã.
+ Bóng đá là một môn thể thao có số người tham gia tập luyện đông đảo
nhưng cũng chỉ có 10 sân trong đó có 1sân tốt ,6 sân sử dụng được và 3 sân loại
kém .những sân trên một phần do người tập tự tạo ra từ các sân kho của làng và
những bãi đất trống trong thôn xóm để lấy chỗ tập luyện .
Môn Bóng chuyền có số lượng 5 sân trong đó có 2 sân loại tốt, 2 sân loại sử
dụng được và 1 sân đã xuống cấp chưa được tu sửa. Các sân này có 1 sân do thị
xã xây dựng để tổ chức thi đấu các giải cấp thị xã. Còn lại các sân đều là do nhân
dân tận dụng các sân kho, bãi đất để vui chơi trong những giờ nghỉ, sân đảm bảo
thì chủ yếu nằm ở cơ quan hành chính hoặc đơn vị lực lượng vũ trang.
Cầu lông 12 sân với sân loại tốt 4 sân, loại sân sử dụng được 6 sân và 2 đã
xuống cấp. Các sân này chủ yếu nằm ở các cơ quan hành chính nhà nước hoạc ở
sân nhà. Dụng cụ như Vợt, Cầu, lưới đều là do cá nhân người tập luyện nhưng chỉ
những người có điều kiện kinh tế thì mới có thể đảm bảo tập luyện tốt, còn đại đa
số mọi người chỉ tập luyện trong điều kiện phải khắc phục và tập luyện mang tính
tự phát.
Môn điền kinh có 1 sân. Thị xã mới xây dựng được để phục vụ cho thi đấu
và huấn luyện VĐV nhưng trang thiết bị đang dần xuống cấp khi sử dụng cũng
gặp nhiều khó khăn.Trong môn thể thao này người dân chủ yếu sử dụng các sân
tập tự nhiên.
Môn Bóng bàn có 4 bàn tập nhưng chủ yếu đã cũ hoặc không đảm bảo yêu
cầu kỹ thuật. Số lượng bàn này chủ yếu chỉ tập chung ở một số cơ quan nhà nước
.
18
Môn Võ thuật có 3 phòng tập, 2 loại tốt và 1 phòng sử dụng được. Các
phòng này có 1 phòng tập của trung tập võ thuật cổ truyền Bảo Long, có dụng cụ
và trang thiết bị tập luyện tương đối tốt. Các phòng còn lại đã cũ và trang thiết bị
đã cũ hoặc không đảm bảo để tập luyện.
Mặc dù trong những năm qua thị xã Sơn Tây đã có nhiều cố gắng trong
công tác cải tạo xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tập
luyện TDTT. Nhưng do điều kiện kinh tế của thị xã còn gặp khó khăn nên việc
đầu tư cho hoạt động TDTT còn nhiều hạn chế, chưa thể đáp ứng đầy đủ ngay
được. Vì vậy có thể nói rằng trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật cho TDTT là
vấn đề bức xúc cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp lãnh đạp và sự ủng hộ
giúp đỡ của quần chúng nhân dân.
3.1.4. Thực trạng các giải thi đấu TT ở thị xã Sơn Tây – Thành phố Hà
Nội.
Trên thực tế muốn đưa các phong trào TDTT ngày một phát triển thì yếu tố
không thể thiếu được là phải thường xuyên tổ chức và tham gia các giải thể thao
nhằm nâng cao thành tích thể thao và phát triển phong trào tập luyện TDTT trong
quần chúng nhân dân. Qua điều tra tìm hiểu chúng tôi đã thu thập được những số
liệu của các giải thi đấu thể thao được tổ chức ở thị xã và thể hiện rõ ở bảng 3.4
Bảng 3.4. Thực trạng các giải thi đấu thể thao của thị xã Sơn Tây -
Thành Phố Hà Nội
TT
Các môn thể
thao
Số lượng
các giải
Số lượng
người
Cấp tổ chức
Xã
(Phường)
Thị xã
1
Bóng đá
2 130 1 1
2
Bóng bàn
2 150 0 2
3
Bóng chuyền
3 350 1 2
4
Cầu lông
3 245 1 2
5
Bơi lội
2 135 0 2
6
Điền kinh
2 105 1 1
7
Võ thuật
2 180 0 2
19
8
Vật
1 50 0 1
9
Bắn nỏ
1 40 0 1
10
Cờ tướng
1 35 0 1
11
Cờ vua
1 45 1 1
12 Tổng 21 1465 5 16
Qua bảng 3.4 cho thấy số lượng người tham gia các giải thể thao là 1465
người. Và càc giải được tổ chức hàng năm gồm 21 giải ,trong đó có 5 giải cấp
xã(phường), 16 giải cấp thị xã. Như vậy các giải hàng năm tổ chức được chưa cao
,chỉ tập trung tổ chức ở cấp thị xã .còn cấp xã (phường) các giải còn it ,như vậy sẽ
hạn chế sự giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về TDTT giữa các xã(phường), chưa có
sự quan tâm, đầu tư của các cấp lãnh đạo
Môn Bóng chuyền hàng năm được tổ chức 03 giải với tổng số 350 người
tham gia. Bóng chuyền trong thị xã chủ yếu là do tầng lớp thanh thiếu niên tập
luyện và thi đấu, gần như các phường đều có đội tuyển Bóng chuyền thi đấu trong
các ngày lễ hội.
Môn Bóng Đá hàng năm có 2 giải thi đấu với số lượng 130 người tham gia.
Các cuộc thi đấu cơ sở thường tổ chức giữa các khu phố, thôn với nhau, còn cấp
thị xã chỉ tổ chức vào các ngày lễ hội truyền thống, các đợt phục vụ nhiệm vụ
chính trị của địa phương nhằm mục đích tạo không khí sôi nổi trong các tầng lớp
nhân dân.
Môn Bơi lội hàng năm có 2 giải thi đấu với số lượng người tham gia thi đấu
là 135 người. Qua số lượng giải được tổ chức và số lượng người tham gia tập
luyện, thi đấu cho ta thấy Bơi lội là môn thể thao chưa được quan tâm của các cấp
lãnh đạo. Yếu tố này phần nào đã kìm hãm sự phát triển phong trào tập luyện môn
thể thao này trong thị xã
Môn Cầu lông hàng năm tổ chức được 3 giải, với 245 người tham gia thi
đấu với nhiều đối tượng tham gia như: Học sinh, sinh viên, người cao tuổi, lực
lượng vũ trang, cán bộ và thành tích thi đấu của môn thể thao này rất tốt.
20
Ngoài ra còn các môn thể thao khác như: Điền kinh,Võ,Vật, cờ tướng, cờ
vua, bắn nỏ đều được tổ chức với số lượng rất khiêm tốn.
Nhìn chung việc tổ chức các giải thể thao hàng năm ở thị xã Sơn Tây là
còn ít về số lượng, điều đó làm hạn chế phần nào sự phát triển các môn TT tại
đây.
3.1.5.Thực trạng công tác đào tạo VĐV ở thị xã Sơn Tây – TP Hà Nội
Thông qua báo cáo tổng kết năm 2010 công tác TDTT của thị xã và qua tìm
hiểu số liệu thực tế chúng tôi thấy việc đào tạo VĐV được tập chung ở một số
môn thể thao trọng điểm của thị xã: Bóng đá, Cầu lông, Bơi lội, Bóng bàn, Điền
kinh, Bóng chuyền. Số liệu được thông qua ở bảng 3.5
Bảng 3.5. Thực trạng công tác đào tạo VĐV thể thao ở thị xã Sơn Tây -
thành phố Hà Nội
Môn thể thao Thành phần vận động viên
VĐV nghiệp dư VĐV trẻ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Bóng đá
35 28,2 18 23,3
Bóng bàn
15 12,0 10 12,9
Bơi lội
12 10,0 9 12,0
Bóng chuyền
17 14,0 12 15,5
Cầu lông
21 17,0 13 16,8
Điền kinh
24 19,3 15 19,4
Tổng 124 100 77 100
Qua số liệu ở bảng 3.5 cho chúng ta thấy công tác đào tạo VĐV nghiệp dư
ở thị xã khá mạnh với 124 VĐV ở 06 môn TT cơ bản, trong đó môn Bóng đá 35
VĐV; môn Điền kinh có 24 VĐV; môn Cầu lông có 21 VĐV Bơi lội mặc dù là
môn thể thao trọng điểm, mang tính thực dụng cao nhưng chỉ có 12 VĐV chiếm
10% so với các môn TT khác.
Về công tác đào tạo VĐV trẻ của toàn thị xã, có 77 VĐV hàng năm vẫn
được duy trì đều đặn.Nhưng công tác đào tạo vẫn còn mang tính bán chuyên
nghiệp và việc đầu tư còn nhỏ giọt chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo cả về số
21
lượng và chất lượng. Trong đó Bơi lội có 9 VĐV và đội tuyển chỉ tập vào từ
tháng 5 đến hết tháng 8 với số lượng và thời gian tập luyện cũng như kinh phí quá
ít thì việc nâng cao chất lượng đào tạo cũng còn rất hạn chế.
Chế độ của VĐV trẻ bơi lội thì còn chưa đảm bảo, mỗi ngày tập luyện chỉ
được bồi dưỡng 30.000đ/ngày và được ưu tiên trong học tập. VĐV nghiệp dư thì
chỉ tập luyện chủ yếu vào các dịp hè và chế độ kinh phí của phường cấp cho nên
chế độ của các VĐV này chỉ mang tính chất động viên.
Lực lượng VĐV đào tạo chủ yếu là học sinh. Trong những năm qua phòng
văn hoá - thể thao của thị xã đã kết hợp với phòng giáo dục thị xã và các trường
học trong phát triển các hoạt động TDTT,nhưng chỉ trong từng thời kỳ mang tính
giai đoạn vào các đợt tập huấn thi đấu. Đây là một hạn chế ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác đào tạo VĐV tại Thị xã Sơn Tây.
3.2. Mục tiêu 2: Nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển phong
trào tập luyện môn Bơi lội trên địa bàn thị xã Sơn Tây – thành phố Hà Nội.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng phong tràoTDTT nói
chung và phong trào tập luyện môn Bơi Lội nói riêng tại thị xã Sơn Tây – thành
phố Hà Nội cho thấy, mặc dù đã có những thành tích và kết quả đáng kể so với
trước đây, song nhìn chung, phong trào TDTT ở đây còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn
chế như đã phân tích tương đối cụ thể ở mục tiêu 1. Cần phải có những biện pháp
khắc phục những tồn tại nói trên một cách kịp thời mới có thể mong muốn đẩy
mạnh và nâng cao hơn nữa phong trào tập luyện TDTT, cũng như kết quả phát
triển môn Bơi Lội tại Thị xã Sơn Tây. Để có những biện pháp khách quan cho
việc phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội tại thị xã Sơn Tây, chúng tôi tiến
hành phỏng vấn đội ngũ cán bộ quản lý, huấn luyện viên, giáo viên trực tiếp hoạt
động TDTT ở thị xã Sơn Tây. Kết quả phỏng vấn được trình bày ở bảng 3.6
Bảng 3.6. Kết quả phỏng vấn các biện pháp phát triển phong trào tập
luyện môn Bơi lội thị xã Sơn Tây - Thành phố Hà Nội (n=30)
TT Nội dung các biện pháp
Số phiếu
phát ra
Số phiếu
thu về
Số phiếu
tán
thành
Tỷ lệ %
1 Tăng cường công tác tuyên 30 30 30 100
22
truyền, vận động và hướng
dẫn nhân dân tập luyện môn
Bơi Lội
2
Tăng cường cơ sở vật chất
dụng cụ ,bể bơi, hồ tắm phục
vụ cho tập luyện môn bơi lội
30 30 28 93
3
Tăng cường tổ chức các giải
thi đấu bơi lội ở các cấp
30 30 25 83
4
Tăng cường đào tạo đội ngũ
HLV, HDV Bơi Lội
30 30 30 100
5
Phối hợp với các ngành để
phát triển môn bơi lội
30 30 5 17
6
Tăng cường sự lãnh đạo của
UBND, phòng VH-TDTT thị
xã Sơn Tây
30 30 18 60
7
Phối hợp với các ngành có
liên quan để bảo vệ môi
trường nước ở các ao, hồ,
sông, suối không bị ô nhiễm
30 30 12 40
8
Tăng cường chế độ ưu đãi đối
với VĐV bơi lội
30 30 15 50
Kết quả phỏng vấn các biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bơi
lội có rất nhiều các biện pháp khác nhau, nhưng đa số các ý kiến cho rằng các
biện pháp sau là biện pháp cơ bản, cần thiết nhất để phát triển phong trào tập
luyện môn Bơi lội đó là:
1) Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn nhân dân tập
luyện môn Bơi lội.
2) Tăng cường đào tạo đội ngũ HLV, HDV Bơi lội.
3) Tăng cường cơ sở vật chất, dụng cụ,bể bơi,hồ tắm phục vụ cho tập luyện
môn bơi lội
4) Tăng cường tổ chức thi đấu các giải bơi lội ở các cấp
23
1. Biện pháp 1: Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng
dẫn nhân dân tham gia tập luyện bơi lội.
Cần tuyên truyền rộng rãi lợi ích, tác dụng của việctập luyện bơi lội kết hợp
với hướng dẫn các tầng lớp quần chúng tham gia tập luyện bơi lội làm cho phong
trào phát triển rộng rãi trong mọi đối tượng nhân dân lao động .
Có thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau để thực hiện công tác tuyên
truyền như:
+ Tổ chức các buổi nói chuyện thời sự về TDTT,có lồng ghép các nội dung,
lợi ích, tác dụng của môn Bơi lội.
+ Xây dựng các tờ rơi có nội dung về môn Bơi lội phân phát,quảng cáo tại
các điểm đông đúc dân cư.
+ Sử dụng các biển panô, quảng cáo về hoạt động Bơi lội tại các đường
phố, các khu dân cư.
+ Sử dụng các phương tiện truyền thanh công cộng để tuyên truyền về lợi
ích, tác dụng của bơi lội
Công tác tuyên truyền phải mạnh mẽ, kiên trì, thường xuyên với nội dung,
hình thức thích hợp, hấp dẫn để nhân dân nhận thức được tập luyện Bơi lội vì sức
khoẻ và xây dựng đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh, động viên tiềm năng và
nhiệt tình của quần chúng.
1. Biện pháp 2: Tăng cường đào tạo đội ngũ HLV, HDV Bơi lội.
Một trong những điều kiện để góp phần phát triển phong trào TDTT nói
chung và phong trào Bơi lội nói riêng là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ huấn luyện
viên, hướng dẫn viên,cán bộ chuyên môn về Bơi lội.
Phong trào tập luyện Bơi lội muốn phát triển đòi hỏi đội ngũ cán bộ, huấn
luyện viên, giáo viên đủ về số lượng và chất lượng.Vì vậy để đáp ứng nhu cầu
phát triển phong trào Bơi lội thị xã Sơn Tây cần phải có các hình thức bồi dưỡng,
đào tạo nghiệp vụ chuyên môn như:
- Mở các lớp hướng dẫn viên về Bơi lội
- Mở các lớp bồi dưỡng giáo viên, huấn luyện viên và trọng tài cấp cơ sở.
- Sử dụng các vận động viên bơi lội lớn tuổi làm công tác viên.
24
- Mời các chuyên gia về bơi lội để tổ chức các lớp huấn luyện viên, hướng
dẫn viên ngắn hạn.
- Cử cán bộ đi học kinh nghiệm ở những địa phương có phong trào bơi lội
phát triển để kịp thời nắm bắt những thay đổi về kỹ chiến thuật để nâng cao việc
huấn luyện.
- Kiến nghị với các cơ quan chức năng tăng cường bổ sung biên chế về cán
bộ chuyên môn.
3. Biện pháp 3: Tăng cường tổ chức thi đấu các giải Bơi lội ở các cấp.
Muốn đưa phong trào tập luyện môn Bơi lội phát triển thì nhất thiết phải
tăng cường số lượng các cuộc thi đấu từ cấp phường đến thị xã, các cơ quan, các
ngành trong thị xã như:
- Tổ chức các giải bơi trong các trường học, đoàn thanh niên, nông dân, dân
quân tự vệ, các ngành trong huyện.
- Tổ chức các giải bơi lội thị xã như: giải bơi vô địch thị xã, giải thi đấu
giữa các trường học trong thị xã, giải bơi vượt sông.
- Tham gia thường xuyên các giải, cuộc thi đấu ở thành phố, khu vực.
- Tổ chức thi đấu Bơi lội vào các đợt nghỉ hè, kỷ niệm các ngày lễ lớn
4. Biện pháp 4: Tăng cường cơ sở vật chất, dụng cụ, bể bơi, hồ tắm
phục vụ cho tập luyện môn Bơi lội.
- Nhằm tạo ra càng nhiều chỗ tập luyện và dụng cụ tập luyện phục vụ cho
đông đảo người tham gia tập luyện nâng cao hơn chất lượng luyện tập bơi lội
- Vận động các cơ quan đoàn thể, đảng uỷ – UBND, các nhà máy xí nghiệp
tài trợ cơ sở vật chất như tiền, vật tư, đất đai và công sức để xây dựng, cải tạo hồ
bơi đơn giản, mua sắm phao bơi phục vụ cho tập luyện.
- Vận động khuyến khích tư nhân để xây dựng bể bơi tư nhân, vận động các
cá nhân tham gia tập luyện Bơi lội.
- Đề nghị phòng VH–TDTT thị xã, UBND thị xã quan tâm , có kế hoạch
đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất để phát triển phong trào tập luyện môn bơi lội
trên địa bàn thị xã
25