Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nghiên cứu ứng dụng phát triển cờ vua như một phương tiện phát triển trí lực cho học sinh lứa tuổi 7 8 trường tiểu học thị trấn lim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.05 KB, 43 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết:
Chúng ta biết rằng tương lai đất nước phụ thuộc vào thế hệ trẻ, để chuẩn
bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào tương lai của trí tuệ văn minh và hiện
đại thì công tác giáo dục và đào tạo phải liên tục đổi mới và nâng cao phương
pháp giảng dạy đặc biệt là đối với trẻ em.
Nghiên cứu về năng lực trí tuệ cũng như khả năng thông minh của con
người đã được nhiều nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu, điển hình
là các nhà khoa học H.Spencor, G.Gaulton … Ở Việt Nam vấn đề này cũng
giành được sự quan tâm đặc biệt của các nhà tâm lý học, các nhà giáo dục học,
có thể kể đến các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cao
như :Trần Trọng Thủy, Bùi Hiển, Hoàng Đức Nhuận … đặc biệt là PGS.TS
Nuyễn Trọng Bảo trong cuốn: “Gia đình, nhà trường , xã hội với việc phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ người tài”( Chương trình nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước KX-07, đề tài Kx-07-18) chủ biên PGS.TS Nguyễn
Trọng Bảo. Các tác giả đã có các nghiên cứu hết sức sâu sắc về trí thông minh,
vai trò của trí thông minh đối với năng khiếu, tài năng cũng như vai trò của trí
thông minh đến kết quả học tập của thanh thiếu niên.
Vấn đề này trong khoa học thể dục thể thao ở Việt Nam cũng đã được một
số tác giả quan tâm nghiên cứu như: PGS.TS Trịnh Trung Hiếu, TS Phạm Ngọc
Viễn…
Cờ Vua là một môn thể thao trí tuệ, có lượng vận động tâm lý tác động
trực tiếp vào quá trình tư duy, trong quá trình học, tập luyện Cờ Vua khả năng tư
duy logic và trực giác được phát triển, trí nhớ linh hoạt, bền vững hơn và dung
lượng ghi nhớ cũng lớn hơn. Khả năng tập trung chú ý được phát triển và hoàn
thiện. Cờ Vua giúp đẩy mạnh việc tập trung suy nghĩ, khả năng lựa chọn quyết
định góp phần tạo nên ý chí, tính quyết đoán và ổn định về cảm xúc.
Các nhà khoa học thế giới đã chứng minh được rằng chơi Cờ ở trẻ giúp
chống lại được sự trì trệ, chậm chạp của bộ não và giúp cho trí não
1
được thường xuyên làm việc, tư duy sắc sảo, logic hơn, kích thích sự


hưng phấn của não giúp cho não phát triển và hoàn thiện dần các chức
năng. Cờ cũng là môn thể thao hoàn toàn không bị va chạm hay chấn
thương cơ thể dẫn tới tàn tật hay nguy hiểm tới tính mạng.
Các chuyên gia Cờ vua đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử
thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có tư duy logic. Nó cũng đặc
biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi. Với những trẻ bị rối loạn
phát triển, Cờ Vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào
đó. Trẻ tự kỷ thường giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này,
còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động
giảm chú ý thì nhờ Cờ Vua mà cải thiện khả năng tập trung.
Hiện nay, Bộ môn Cờ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của các
trường tiểu học tại các nước phát triển (như Mỹ, Singapore…). Các
báo cáo nghiên cứu về lợi ích của Cờ Vua với giáo dục đã chứng minh
được rằng môn thể thao trí tuệ này giúp trẻ thông minh hơn bằng cách
phát triển các kỹ năng như: Sự tập chung, trí tưởng tượng theo logic,
khả năng tư duy cụ thể, khả năng đánh giá tình huống, khả năng phân
tích, khả năng tư duy trừu tượng, khả năng lập kế hoạch, khả năng cân
nhắc đồng thời nhiều vấn đề, khả năng sáng tạo, tính kỷ luật.
Các kỹ năng trên không cụ thể trong Cờ Vua, nhưng chúng xuất hiện ở tất
cả các phần trong mỗi ván Cờ. Cờ Vua được ví như một công cụ dạy
học đặc biệt, nó kích thích tư duy của con trẻ và giúp chúng hình
thành và phát triển các kỹ năng khi chơi Cờ. Kết quả là trẻ sẽ có được
tư duy tốt hơn, khả năng giải quyết vấn đề nhanh hơn và sự tự tin, độc
lập trong suy nghĩ của chính mình (theo Chess life tháng 11 năm
1982, nguồn Dean J. Ippolito).
Cờ Vua giúp trẻ xây dựng mối quan hệ cá nhân và tinh thần trường lớp
khi chúng cùng nhau tham gia một đội để giao đấu với trường khác. Cờ Vua
2
cũng dạy cho trẻ tinh thần thể thao – cách để chiến thắng một cách đẹp nhất và
không bao giờ bỏ cuộc trong thi đấu.

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng việc học, chơi Cờ Vua là phương
tiện có hiệu quả để nâng cao năng lực trí lực nói chung cho các VĐV Cờ Vua,
các công trình nghiên cứu của các tác giả Alecxeiev, Mankin … đã cho thấy
hiệu quả của việc học, chơi Cờ Vua tới sự phát triển trí tuệ của trẻ em.
Xuất phát từ nhứng lý do nêu trên, chúng tôi xin nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ứng dụng Cờ Vua như một phương tiện phát triển trí lực cho
học sinh lứa tuổi 7 - 8 trường tiểu học Thị trấn Lim”
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở phân tích tổng hợp nhứng cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài tiến
hành lựa chọn và ứng dụng chương trình giảng dạy Cờ Vua nhằm phát triển trí
lực cho học sinh lứa tuổi 7 - 8 trường tiểu học Thị trấn Lim.
Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên trong quá trình nghên cứu, đề tài
đã thực hiện các mục tiêu sau:
Mục tiêu 1: Nghiên cứu lựa chọn nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy Cờ Vua cho học sinh lứa tuổi 7 - 8 trường tiểu học Thị Trấn Lim.
Mục tiêu 2: Xác định hiệu quả của tập luyện Cờ Vua tới sự phát triển trí
lực của học sinh lứa tuổi 7 - 8 trường tiểu học Thị trấn Lim.
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của tập luyện Cờ Vua có hệ thống tới
sự phát triển trí lực của học sinh lứa tuổi 7 – 8 trường Tiểu học Thị trấn Lim,
Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 40 học sinh lứa
tuổi 7-8 trường tiểu học Thị trấn Lim, Bắc Ninh.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 7-8.
1.1.1 Cơ sở tâm lý lứa tuổi 7-8.
Điều kiện sống và hoạt động của trẻ trong những năm học ở trường học có
những biến đổi cực kì quan trọng, do đó tâm lý của trẻ cũng thay đổi và có
những đặc điểm riêng như sau:
a. Sự phát triển trí tuệ và hoạt động học tập:

Khi đến trường hoạt động trí tuệ của trẻ căng thẳng hơn, các em phải làm
việc có kế hoạch chính xác, đúng với yêu cầu của giáo viên và nhà trường. Bởi
vì đối với học sinh tiểu học các nhiệm vụ học tập đã được đặt ra rất cụ thể và
còn phải có sự cố gắng của cả thầy và trò mới có thể hoàn thành được. Mặt khác
các em đến trường học tập không còn giống lứa tuổi trước đó, ở các lớp mẫu
giáo các em đến trường “ chơi để mà học ” và “ học để mà chơi ”, sự thúc ép
tiếp nhận tri thức mới không phải là bắt buộc, còn toàn bộ khối lượng kiến thức
thuộc nội dung chương trình học tập ở bậc phổ thông là bắt buộc, do đó đòi hỏi
các em phải có tính kỉ luật cao hơn ở mẫu giáo và phải có sự phân tích, tổng hợp
tinh tế trong quá trình học tập mới hoàn thành công việc học tập.
Trí tuệ của trẻ em được phát triển trong mối tác động qua lại giữa nội
dung của tri thức đã thu nhận được với các hình thức lao động trí óc (thông qua
lượng tri thức cần trang bị) ngày càng phức tạp và năng lực hoạt động trí tuệ độc
lập sáng tạo. Từ đó hình thành xu hướng học tập, thái độ trách nhiệm với học
tập, động cơ học tập… Những điều đó giữ vai trò quan trọng trong việc chín
muồi về trí tuệ của học sinh.
Việc lĩnh hội tri thức đòi hỏi phải có sự phát triển tương ứng của các quá
trình trực tiếp: Cảm giác, tri giác và quan sát. Do đó đối với học sinh lứa tuổi
này trong quá trình giảng dạy cần phải sử dụng nhiều phương pháp trực quan,
nội dung không phức tạp và hình thức phải rõ ràng.
4
b, Chú ý:
Chú ý là điều kiện để nắm vững tri thức. Ở lứa tuổi này chú ý không chủ
định chiếm ưu thế so với chú ý chủ định, ý chí chưa phát triển và hệ thống tín
hiệu thứ hai chưa điều chỉnh hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất một cách
đầy đủ. Do đó giáo viên cần tổ chức giảng dạy hợp lý để lôi cuốn sư chú ý của
học sinh đồng thời tăng cường sự chú ý có chủ định để các em quen dần với
việc bắt buộc mình phải chú ý.
Chú ý chưa bền vững và dễ phân tán là do tính hưng phấn còn cao và hời
hợt. Vì vậy, cần có hình thức tuyển chọn hợp lý, không để cho trẻ bị phân tán sự

chú ý bởi những tác động bên ngoài khác. Chính vì vậy, trong quá trình giảng
dạy phải lựa chọn những bài tập phù hợp với khả năng của các em.
c, Trí nhớ:
Trí nhớ lứa tuổi này phong phú và hoàn thiện trong quá trtình nắm vững
bài học, trí nhớ trực quan, hình tượng phát triển hơn trí nhớ logic. Vì vậy, trong
quá trình giảng dạy cho các em, giáo viên không nhất thiết phải giảng giải một
cách sâu sắc bản chất của một bài học mà cần tạo cho các em khả năng nhanh
chóng hoàn thành bài tập, kích thích sự hứng thú trong học tập một cách thường
xuyên.
d, Tưởng tượng:
Tưởng tượng lứa tuổi 7 - 8 phát triển hơn trẻ mẫu giáo song còn nghèo
nàn, tản mạn và ít có tổ chức.
Tưởng tượng tái tạo của các em được phát triển trong quá trình học tập.
Với những tri thức và kỹ năng các em mới tiếp thu được làm cho tưởng tượng
của các em trở nên hoàn thiện và vẫn giữ được tính cụ thể, sinh động phản ánh
hiện thực một cách trung thực hơn.
e, Tư duy:
Tư duy của các em lứa tuổi 7 - 8 là tính cụ thể và tính xúc cảm. Tính cụ
thể trong tư duy của các em chứng tỏ hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất
chiếm ưu thế rõ rệt so với hệ thống tín hiệu thứ hai. Vì vậy, trẻ thường gặp khó
5
khăn trong việc khái quát hóa, hình tượng hóa từ các sự vật, các hiện tượng và
các hiện tượng cụ thể. Tính xúc cảm trong tư duy của trẻ rất nhạy bén với những
điều chúng suy nghĩ thông qua những tác động cụ thể của các yếu tố trực quan
từ thực tế mà trẻ quan sát thấy. Học sinh ở lứa tuổi này hiểu mối quan hệ nhân
quả còn chật hẹp do tư duy của các em còn cụ thể. Do đó, giáo viên cần đưa ra
bài tập cho các em phải phù hợp với khả năng tư duy của trẻ, tránh bắt chước.
f, Tri giác:
Tri giác là một quá trình nhận thức, phản ánh trọn vẹn các thuộc tính của
sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan.

Ỏ lứa tuổi này, tri giác còn vội vàng thiéu chính xác, trẻ không dựa vào
những dấu hiệu, những đặc điểm ngẫu nhiên hoặc chỉ nhìn vào một vài chi tiết
có màu sắc nên rất dễ sai lầm khi thực hiện.
Trong quá trình giảng dạy cho trẻ cần phải hướng vào những đặc điểm cơ
bản của từng loại bài tập và phải phân biệt ra từng loại nhằm phát triển tri giác
có chủ định của trẻ. Đối với trẻ 7 - 8 tuổi tri giác không gian kém, chỉ với phạm
vi gần và đối tượng có độ lớn vừa phải mới phản ánh tương đối chính xác, cho
nên trong quá trình giảng dạy cần cho trẻ tập trong phòng vừa phải.
g, Xúc cảm:
Lứa tuổi này xúc cảm phụ thuộc vào đặc điểm của hệ thần kinh. Quá
trình hưng phấn mạnh hơn ức chế nên trẻ dễ mệt mỏi ảnh hưởng đến quá trình
cảm xúc của trẻ.
Cảm xúc của các em thường được bộc lộ ra ngoài, các em chưa biết che
dấu cảm xúc, chỉ cần qua vẻ mặt có thể nhận biết được tình cảm của các em. Trẻ
vui vẻ thoải mái khi được khen và hay tự ái khi bị phê bình, nghi ngờ ham tìm
hiểu những vấn đề xung quanh cũng như dễ nản lòng khi gặp khó khăn. Trong
học tập và vui chơi trẻ dễ bị xúc động, vui buồn nhất thời, những tâm trạng đó
xuất hiện ở tẻ rất ngắn và chuyển hóa sang nhau rất nhanh. Trong quá trình huấn
luyện cho trẻ cần phải thận trọng nhận xét, phê bình trẻ, cần biết động viên khen
6
thưởng kịp thời, có như thế mới kích thích dược tính hưng phấn của các em,
giúp các em say mê vào công việc mình đang làm.
1.1.2. Cơ sở sinh lý lứa tuổi 7-8.
Học sinh lứa tuổi 7 - 8 các quá trình thần kinh đã có sức mạnh và ổn định
nhất định, các phản xạ có điều kiện tương đối bền vững, các loại ức chế bên
trong thể hiện rõ rệt, ở lứa tuổi này ức chế có điều kiện tăng lên nhưng vẫn còn
tương đối yếu, ảnh hưởng điều chỉnh của vỏ não còn yếu dẫn đến sự tập trung
chú ý chưa bền, sự lan tỏa hưng phấn dễ xuất hiện, tính linh hoạt của các quá
trình thần kinh tăng lên. Tuy nhiên các bài tập các em nhận thức đã hình thành
thì rất bền vững vì vậy rất khó sửa chữa những sai lầm, những vấn đề chính xác

mà các em đã tiếp thu và củng cố vững chắc.
Các cơ quan thực vật ở trẻ 7 - 8 tuổi đã có bước phát triển nhất định, cơ
tim phát triển tương đối yếu, lực co bóp của tim yếu, sự điều hòa thần kinh của
hệ thống tim mạch tương đối phát triển hơn nhưng chưa hoàn thiện. Sự phát
triển cũng như chức năng của phổi mạnh hơn, nhanh hơn so với sự phát triển
của tim. Quá trình hồi phục chậm, khả năng thích nghi với khối lượng vận động
kém. Nếu khối lượng lớn thì các em sẽ nhanh chóng bị mệt mỏi.
1.2. Các quan điểm khoa học mới về trí lực (trí tuệ).
Trí lực (năng lực trí tuệ) – theo từ điển Wikipedia tiếng Việt thì, trí tuệ
của con người được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho tới nay cuối
thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI thì khoa học tâm lý đại cương đã giải quyết những
vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực này. Vấn đề còn tranh cãi hiện nay là thuật ngữ và
khái niệm khoa học.
Riêng sự tranh luận về tính chất của ba cấp độ: trí tuệ, trí khôn và trí
thông minh có phải là năng lực suy nghĩ của con người hay là vấn đề rộng rãi
hơn cho tới nay vẫn còn chưa kết luận. Theo Nguyễn Khắc Viện: Trí tuệ bao
gồm nhiều nghĩa:
Khả năng hiểu biết, suy luận sáng tạo, khả năng hành động thích nghi với
biến động của hoàn cảnh về hành động gọi là trí khôn, thiên về tư duy trừu
7
tượng gọi là trí tuệ. Trí khôn thực tiễn giúp cho thích nghi với tình huống cụ thể
gọi là trí làm. Trí tuệ trừu tượng gọi là trí nghĩ.
Thông minh cũng được hiểu là trí tuệ. Song ở mức phát triển cao, cốt lõi
của trí thông minh chính là phẩm chất tư duy tích cực, độc lập, linh hoạt, sáng
tạo.
Như vập các thuật ngữ “ trí tuệ”, “trí khôn”, “trí thông minh” là các hàm
lượng từ thấp đến cao của trí tuệ con người. Theo kết quả nghiên cứu của GS.
Trần Trọng Thủy nên phân loại trí tuệ theo các dạng sau:
Loại thứ nhất: Coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học tập của cá
nhân.

Theo quan niệm này, các nhà tâm lý học cho rằng: cần tìm hiểu trí tuệ
trong mối quan hệ với hoạt động học tập của học sinh.
Chẳng hạn B.G.Ananhiep coi trí tuệ là một đặc điểm tâm lý phức tạp của
con người, mà kết quả học tập và lao động phụ thuộc vào đó.
Còn V.V.Bogoxlopxki cho rằng năng lực trí tuệ là năng lực chung bao
gồm một hệ thống những thuộc tính trí tuệ của cá nhân giúp cho việc lĩnh hội tri
thức dễ dàng và có hiệu quả.
Loại thứ hai: Coi trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng.
Quan niệm này bắt nguồn từ việc hiểu trí thông minh là năng lực phát
triển tư duy trừu tượng (L.Terman, 1937). Theo cách hiểu như vậy thì chức năng
của trí tuệ là sử dụng có hiệu quả các khái niệm và tượng trưng (kí hiệu).
Quan niệm này đã thu hẹp cả khái niệm lẫn phạm vi của trí tuệ. Trên
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khi nghiên cứu
trí thông minh của con người, các nhà tâm lý học Mácxit đã đề xuất các phương
pháp luận sau đây:
• Tính độc lập tương đối của trí thông minh đối với các thuộc tính của
nhân cách.
• Sự hình thành và thể hiện của trí thông minh trong hoạt động.
8
• Tính ước chế (quy định) của những điều kiện văn hóa, lịch sử đối với
những thể hiện của trí thông minh.
• Chức năng thích ứng tích cực của trí thông minh, vì vậy khi nghiên
cứu trí tuệ cá nhân, nhiều người đã thừa nhận và dựa vào định nghĩa
sau: “Trí thông minh đó là một cấu trúc đông tương đối độc lập của
các thuộc tính nhận thức của nhân cách, được hình thành và thể hiện
trong hoạt động do những điều kiện văn hóa, lịch sử quy định và chủ
yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung
quanh cho sự cải tạo có mục đích hiện thực ấy” (V.M.Blaykhe,
Leburilachuc, 1978).
Theo David Wechsler, thì trí tuệ (trí thông minh) là năng lực chung của

nhân cách được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán,
thông hiểu một cách đúng đắn và trong việc làm cho môi trường thích nghi với
khả năng của mình.
Hay nói một cách khác trí tuệ là khả năng hoạt đông tư duy cao đảm bảo
cho cá nhân nắm vững kiến thức khoa học và giải quyết hoạt động với các
phương án tối ưu hợp với tình huống, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động. Và
ông cũng cho rằng: Trí tuệ thể hiện trong khả năng nhận thức (tri thức), cũng
như kỹ năng kỹ xảo vận động.
Loại thứ ba: Coi trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân.
Đây là kiểu định nghĩa được phổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu
tán thành. Chẳng hạn, David Wechsler nhà tâm lý học Mỹ nổi tiếng, tác giả của
một trong những phương pháp nghiên cứu trí thông minh lừng danh, đã xem trí
tuệ, trí thông minh và năng lực chung của cá nhân được thể hiện trong hoạt động
có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn giúp con
người thích nghi với môi trường.
X.L Rubinstein cũng khẳng định rằng: Trí tuệ chỉ có thể được vạch ra
trên bình diện của những mối quan hệ qua lại có hiệu lực cụ thể của cá nhân với
môi trường xung quanh.
9
Tính chất phổ biến của quan điểm này đối với việc định nghĩa khái niệm
đó bên ngoài sự tác động qua lại của cá nhân với môi trường xung quanh. Tuy
nhiên sự tác động qua lại đó phải được xem xét như là một sự thích ứng tích cực
có hiệu lực, chứ không phải là một sự thích nghi đơn giản.
Thực ra các quan điểm trên không mâu thuẫn nhau. Điều khác biệt giữa
chúng chỉ là mối quan hệ đều xuất phát từ một dáu hiệu nào đó được cho là quan
trọng nhất. Năng lực nhận thức, năng lực học tập, năng lực tư duy trừu tượng xét
cho cùng đều là nhằm mục đích tạo ra sự thích ứng, tích cực, sáng tạo, có hiệu
quả trong sự tác động qua lại của cá nhân với môi trường xung quanh. Nhận
thức tốt sẽ có cơ sở thích ứng năng lực tư duy trừu tượng cũng được hình thành
dần và phát triển trong học tập, trong hoạt động.

1.3. Sự phát triển trí tuệ và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ.
1.3.1. Sự phát triển trí tuệ.
Chúng ta hiểu trí tuệ là yếu tố đa nhân tố của năng lực tư duy. Theo X.L
Rubinotein và B.G Ananhep cho rằng: Để phát triển trí tuệ một năng lực tâm lý
phức tạp của con người đảm bảo sự thành công của mọi hoạt động sống và lao
động nghề nghiệp, nhất thiết phải bằng con đường hoạt động thực tiễn, thông
qua nó để hình thành và phát triển trí tuệ của con người.
Theo N.A. Mensinxcaia và nhóm cộng tác: Sự phát triển trí tuệ được gắn
liền với hai hiện tượng:
Thứ nhất: Cần phải có sự tích lũy tri thức, đó là những điều kiện cần thiết
để tư duy sáng tạo.
Thứ hai: Những thao tác trí tuệ, những thủ thuật tư duy phải thành thạo
và đã được củng cố vững chắc. Đó là những nét đặc trưng của sự phát triển trí
tuệ. Nói một cách khác sự phát triển trí tuệ mang tính chất của phản ánh mức độ
cao trong não và sự phản ánh đó được nâng lên mức tinh tế và nhuần nhuyễn về
phương thức.
Trong khi bàn về con đường phát triển trí tuệ L.V Zancốp cho rằng: Sự
phát triển trí tuệ là sự thống nhất trong một hệ thống chức năng nhất định của
10
các phương thức phản ánh, sự tiến bộ và phát triển trí tuệ là tổ hợp các biến đổi
dương tính của hệ thống chức năng phản ánh và năng lực tư duy nói chung.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ.
Vấn đề yếu tố ảnh hưởng đến phát triển năng lực trí tuệ rất quan trọng
trong khoa học tâm lý và được nhiều tác giả nghiên cứu. Đúc kết các dòng quan
điểm khoa học tiến bộ về vấn đề có liên quan, các nhà tâm lý học Mácxit cho
rằng: Trí tuệ được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố
trong đó có thể kể đến ba yếu tố cơ bản sau:
1.3.2.1. Yếu tố bên trong ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ.
G.X.Catchiue và Mensinxcaia cho rằng: Sự phát triển trí tuệ được quyết
định không những từ bên ngoài mà còn từ bên trong, tức là nó còn tùy thuộc vào

những đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm tâm lý cá nhân của học sinh.
Chúng ta không thể phủ nhận ý nghĩa của một điều kiện tư nhiên như đặc
điểm cơ thể trẻ em khi mới sinh, trước hết là hệ thần kinh trung ương đến sự
phát triển trí tuệ của trẻ em.
Các nhà tâm lý tư sản lạ cho rằng: Bẩm sinh và di truyền là yếu tố quyết
định đến sự phát triển trí tuệ của trẻ, đặc biệt là năng khiếu.
Nhà tâm lý học Mỹ R.Toocdai nói: Trẻ em thừa hưởng những gen của các
năng lực trí tuệ tốt sẽ trở thành những người có trí tuệ cao, thậm chí không cần
sự giảng dạy đặc biệt.
Theo R.Toocdai yếu tố môi trường, dạy học chỉ đóng vai trò thứ yếu, ông
viết: “một số học sinh không thể vượt qua một trình độ nhất định, mặc dù giành
rất nhiều thời gian để làm việc đó. Chúng không thể sẵn sàng giải một bài toán
có tính chất phức tạp và trừu tượng ở một mức độ nhất định”.
Quan điểm trên của các nhà tâm lý học tư sản tuy coi yếu tố di truyền
quyết định sự phát triển, song quan điểm đó có điểm tiến bộ mà chúng ta cần
chú ý: “cái bẩm sinh”, “cái vốn có” của trẻ. Yếu tố đó đóng vai trò tiền đề vật
chất trong sự phát triển năng lực trí tuệ của trẻ thì phải chú ý đến đặc điểm tự
11
nhiên của chúng. N.X.Laytex viết: “sự phát triển trí tuệ chân chính rõ ràng
không phải là cái gì nằm ngoài năng khiếu”.
1.3.2.2. Yếu tố giảng dạy, giáo dục và rèn luyện.
Hiện nay, lý thuyết hiện đại và con người cho ta thấy những yếu tố di
truyền không quyết định sự phát triển về mặt tâm lý của con người. Cuộc sống
cho ta thấy, con người khi mới ra đời cực kỳ bất lực, trẻ sơ sinh vẻn vẹn chỉ có
những bẩm sinh khả dĩ để người lớn chăm sóc cho nó sống nổi và cũng chính
như vậy mà sau này đứa trẻ có thể có tất cả.
Điều kiện sống của đứa trẻ ảnh hưởng đến sự phát triển của nó thông qua
con đường tự giác và tự phát.
- Ảnh hưởng tự giác: Phải nói đến vai trò của dạy học ở nhà trường và cha
mẹ của học sinh.

- Ảnh hưởng tự phát: Là quá trình đứa trẻ tiếp xúc với nền văn hóa khoa
học kỹ thuật… của nhân loại, giao tiếp với người lớn qua phim ảnh, báo chí…
dần dần đứa trẻ tích lũy được một số kinh nghiệm giúp cho nó phát triển tư duy,
hình thành một số năng lực để giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
Theo V.A.Krucchexki: “Không có sự phát triển hoàn hảo nếu không có
dạy học”. Các nhà tâm lý học Nga đã chứng minh được rằng: Bằng cách biến
đổi nội dung và phương pháp dạy học tức là những tri thức và những phương
thức hoạt động truyền thụ cho trẻ em thì có thể thay đổi một cách căn bản sự
phát triển tâm lý của trẻ em nói chung và trí tuệ nói riêng.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ, các nhà
tâm lý học Nga cũng giành cho việc dạy học chiếm vai trò chủ đạo, cả hai quá
trình này có liên quan chặt chẽ với nhau.
1.3.2.3. Yếu tố hoạt động của cá nhân.
Trí tuệ được hình thành dần dần trong hoạt động của mỗi cá nhân. Sự
phát triển trí tuệ gắn chặt chẽ với hoạt động nhận thức của con người, Có thể nói
hoạt động nhận thức là tiền đề, đồng thời là kết quả của kỹ năng trí tuệ đó là
12
quan điểm đúng đắn có cơ sở khoa học khi xem xét con người với tư cách chủ
thể hoạt động.
Hoạt động là quá trình đứa trẻ tác động vào đối tượng qua đó tiếp thu
thuộc tính của đối tượng, những tri thức, kinh nghiệm của cá nhân lại tàng trữ
trong phương tiện sinh hoạt, công cụ lao động, nền văn hóa vật chất…
Mặt khác, chính trong hoạt động mà trẻ bộc lộ khả năng, năng lực của
bản thân và cũng chính trong quá trình đó, nhiều khả năng mới được tạo ra, củng
cố và tăng lên. Trong sự phát triển trí tuệ, hoạt động học tập của cá nhân có một
vai trò to lớn.
Theo kết quả nghiên cứu nhiều năm của PGS. Lê Văn Hồng thì hoạt động
học tập chiếm vai trò to lớn trong việc phát triển trí tuệ chừng nào hoạt động
hoạt động đó đảm bảo được các tính chất sau đây:
Thứ nhất là: Đối tượng của hoạt động học không phải là cái gì khác ngoài

tri thức và những kỹ năng – kỹ xảo tương ứng với nó. Có thể nói, cái đích mà
hoạt động học tập hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng – kỹ xảo của xã hội
thông qua sự tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo này sẽ không thể hiện được nếu
người học chỉ là khách thể bị động của những tác động sư phạm, nếu những tri
thức, kỹ năng – kỹ xảo chỉ được truyền cho người học theo cơ chế “máy phát”
(người dạy) “máy nhận” (người học) muốn học có kết quả người học phải tích
cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ
của bản thân mình
Thứ hai là: Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý
thức nhằm tiếp thu tri thức, kỹ năng – kỹ xảo. Hoạt động học trước hết là hoạt
động tiếp thu những tri thức, kỹ năng – kỹ xảo tiếp thu cả nội dung và hình thức
của chúng.
Sự tiếp thu đó có thể diễn ra trong hoạt động thực tiễn, nó thường diễn ra
sau khi chủ thể hoạt động trong một tình huống cụ thể. Do đó sự tiếp thu thường
gắn vào từng hoàn cảnh cụ thể, phụ thuộc vào từng múc đích riêng lẻ mà hành
động hướng tới. Những tri thức, kỹ năng – kỹ xảo tiếp thu trong từng tình huống
13
đó mang tính chất kinh nghiệm, giúp họ hành động có kết quả trong một tình
huống xác định. Cứ như thế, kinh nghiệm dần được tích lũy. Nhưng những kinh
nghiệm đó thường không hệ thống, chưa được khái quát và thường không lý giải
được đầy đủ cơ sở khoa học của chúng. Đó là con đường kinh nghiệm trong việc
tiếp thu tri thưc, kỹ năng – kỹ xảo.
Trái lại sự tiếp thu tri thưc, kỹ năng – kỹ xảo trong hoạt động học tập là sự
tiếp thu có tính tự giác cao. Đối tượng tiếp thu trở thành mục đích của hoạt động
học tập. Những tri thức đó đã được chọn lọc, tinh chế và tổ chức lại một hệ
thống nhất định bằng cách vạch ra cái bản chất, phát hiện những mối liên hệ
mang tính quy luật, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật và
hiện tượng. Những hiểu biết đó không chỉ đúng và thích hợp cho một tình huống
nào đó mà nó đúng và thích hợp cho mọi hoàn cảnh tương tự. Do đó hoạt động
dạy phải tạo được ở người học những hoạt động thích hợp với mục đích của việc

tiếp thu. Sự tiếp thu như thế chỉ có thể diễn ra trong hoạt động học tập được điều
khiển một cách có ý thức của người lớn.
Có thể nói hai yếu tố trên là điều kiện để phát triển trí tuệ và đồng thời là
mục đích nguyên tắc khoa học để tổ chức quá trình sư phạm giảng dạy.
1.3.3. Đặc điểm tác dụng môn Cờ Vua.
Cờ Vua là môn thể thao trí lực có tác dụng phát triển tư duy lôgic, luyện
trí thông minh, giáo dục những phẩm chất tốt đẹp như tính tổ chức kỷ luật, kiên
cường bình tĩnh, luyện mưu trí, óc sáng tạo, luyện cách nhìn xa trông rộng biết
phân tích, tổng hợp tình hình một cách khách quan khoa học, rèn luyện cách làm
việc có kế hoạch, tính quyết đoán và táo bạo trong xử lý tình huống.
Cờ Vua ngày càng đóng vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại. Theo các
nhà nghiên cứu, thời kỳ cách mạng khoa học - kỹ thuật đòi hỏi lao động trí óc
cao trong mọi lĩnh vực, thì vấn đề phát triển khả năng phân tích của con người
để sử lý và rút ra những điều cần thiết trong khối lượng thông tin đồ sộ và tổng
quát là điều có ý nghĩa đặc biệt. Phần lớn các thế cờ xuất phát đều mang tính
tình huống riêng biệt. Nghĩa là, không thể tìm ra một lời giải duy nhất tuyệt đối
14
đúng. Do đó, người chơi luôn rơi vào tình huống thay đổi liên tục, đòi hỏi phải
tập trung tư duy sáng tạo để giải quyết hợp lý như trường hợp giải các bài toán
khác nhau.
Cờ Vua là một môn thể thao trí tuệ, lượng vận động trong Cờ Vua chủ
yếu là lượng vận động tâm lý, tác động trực tiếp vào quá trình tư duy của người
tập. Tập luyện và thi đấu Cờ Vua giúp cho phát triển hài hòa các phẩm chất tâm
lý của mỗi cá nhân. Trong quá trình học - tập luyện Cờ Vua, khả năng tư duy
lôgic và trực giác được phát triển, trí nhớ linh hoạt hơn, bền vững hơn và dung
lượng ghi nhớ lớn hơn. Cờ Vua giúp đẩy mạnh việc tập trung suy nghĩ, khả năng
lựa chọn quyết định, góp phần tạo nên ý chí, tính quyết đoán và ổn định về cảm
xúc. Một điều rất quan trọng là Cờ Vua giáo dục cho con người thái độ tự phê.
Hầu như ở mọi người trong một mức độ nào đấy, thường tự cho mình là trung
tâm, thậm chí trong trường hợp khi mắc lỗi, vẫn có thiên hướng không công

nhận hoặc biện minh cho lỗi lầm của mình. Để hoàn thiện trình độ của mình,
VĐV luôn phải phân tích các ván cờ đã thi đấu, tìm ra những sai lầm mắc phải,
rút kinh nghiệm cho các ván đấu sau. Như vậy, Cờ Vua giúp con người nhìn
nhận bản thân, thừa nhận những sai lầm và sửa được những sai lầm mắc phải.
Laxker - Cựu vô địch Cờ Vua thế giới đã viết: “Trên bàn cờ không có chỗ cho
kẻ lười biếng và giả dối. Vẻ đẹp sự phối hợp trong Cờ Vua thể hiện ở chỗ là
chính nó luôn luôn chân thật. Sự thật thẳng thắn trong Cờ Vua mở mắt cho
những kẻ giả dối” .
1.3.4. Lợi ích của Cờ Vua đối với trẻ em.
Các nhà khoa học thế giới đã chứng minh được rằng chơi Cờ ở trẻ
giúp chống lại được sự trì trệ, chậm chạp của bộ não và giúp cho trí
não được thường xuyên làm việc, tư duy sắc sảo, logic hơn, kích thích
sự hưng phấn của não giúp cho não phát triển và hoàn thiện dần các
chức năng. Cờ cũng là môn thể thao hoàn toàn không bị va chạm hay
chấn thương cơ thể dẫn tới tàn tật hay nguy hiểm tới tính mạng.
15
Các chuyên gia dạy Cờ đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử
thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có tư duy logic. Nó cũng đặc
biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi. Với những trẻ bị rối loạn
phát triển, Cờ Vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào
đó. Trẻ tự kỷ thường giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này,
còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động
giảm chú ý thì nhờ Cờ Vua mà cải thiện khả năng tập trung.
Hiện nay, Bộ môn Cờ đã được đưa vào chương trình giảng dạy của các
trường tiểu học tại các nước phát triển (như Mỹ, Singapore…). Các
báo cáo nghiên cứu về lợi ích của Cờ Vua với giáo dục đã chứng minh
được rằng môn thể thao trí tuệ này giúp trẻ thông minh hơn bằng cách
phát triển các kỹ năng như:
1. Sự tập chung: Trẻ được dạy về tác dụng của việc quan sát cẩn thận và
tập trung khi chơi Cờ. Bởi nếu trẻ không quan sát được điều gì đang

xảy ra thì dù rất thông minh chúng cũng không thể phản ứng một cách
nhanh nhẹn với những tình huống đó.
2. Trí tưởng tượng theo logic: Trẻ luôn được khuyến khích để tưởng
tượng về kết quả của mỗi nước đi trước khi nó diễn ra. Trẻ nhỏ rèn
luyện khả năng hình dung bằng cách tưởng tượng nước đi của các
quân trong đầu, đầu tiên là một nước, sau đó là một vài nước và cứ thế
tăng lên.
3. Khả năng tư duy cụ thể:Trẻ được dạy suy nghĩ kỹ trước khi đi một
nước Cờ. Chúng được dạy để tự hỏi bản thân câu hỏi: “Nếu mình đi
nước này, đối phương sẽ đi như thế nào và mình sẽ trả lời ra sao? ”.
Dần dần, Cờ Vua sẽ giúp trẻ phát triển tính kiên nhẫn và chịu khó tư
duy hơn.
4. Khả năng đánh giá tình huống: Trẻ khi học Cờ Vua sẽ được dạy rằng
chúng không nên làm theo những điều đầu tiên đến trong suy nghĩ của
chúng. Chúng được học cách đưa ra hàng loạt các giải pháp cho cùng
16
một vấn đề và cân nhắc lợi hại của những giải pháp đó và chọn cho
mình một phương án tối ưu nhất để thực hiện.
5. Khả năng phân tích: Trẻ sẽ học cách đánh giá kết quả của những hành
động và sự việc cụ thể. Liệu rằng sự việc này sẽ có lợi hay không có
lợi với mình? Các quyết định sẽ tốt hơn khi được tư duy một cách
logic.
6. Khả năng tư duy trừu tượng: Trẻ được dạy cách tư duy suy xét từ các
chi tiết nhỏ, sau đó hình dung bức tranh toàn cảnh trong mỗi ván cờ.
Chúng cũng học cách sử dụng giải pháp của tình huống này áp dụng
và sáng tạo cho các tình huống tương tự khác.
7. Khả năng lập kế hoạch: Trẻ nhỏ khi học Cờ được rèn luyện để đưa ra
các mục tiêu dài hạn và học cách tiến hành các bước để đạt được mục
tiêu của mình. Chúng cũng được học cách phân tích, đánh giá, và lập
lại kế hoạch khi tình huống thay đổi.

8. Khả năng cân nhắc đồng thời nhiều vấn đề: Trẻ em được khuyến khích
không chú tâm quá nhiều vào một vấn đề, chúng được học cách cân
nhắc rất nhiều các vấn đề cùng một lúc.
9. Khả năng sáng tạo: Khi học Cờ, trẻ học cách đưa ra các giải pháp theo
tính chất thiên biến vạn hóa của từng ván Cờ, thay vì áp dụng một
cách cứng nhắc theo các quy tắc.
10. Tính kỷ luật: Những quy tắc trong khi chơi Cờ sẽ rèn luyện cho trẻ
tính kỷ luật cao. Ví dụ như khi chơi Cờ, trẻ phải đợi đến lượt của
mình mới được phép di chuyển quân.
Các kỹ năng trên không cụ thể trong Cờ Vua, nhưng chúng xuất hiện ở tất
cả các phần trong mỗi ván Cờ. Cờ Vua được ví như một công cụ dạy
học đặc biệt, nó kích thích tư duy của con trẻ và giúp chúng hình
thành và phát triển các kỹ năng khi chơi Cờ. Kết quả là trẻ sẽ có được
tư duy tốt hơn, khả năng giải quyết vấn đề nhanh hơn và sự tự tin, độc
17
lập trong suy nghĩ của chính mình (theo Chess life tháng 11 năm
1982, nguồn Dean J. Ippolito).
Cờ Vua giúp trẻ xây dựng mối quan hệ cá nhân và tinh thần trường lớp
khi chúng cùng nhau tham gia một đội để giao đấu với trường khác. Cờ Vua
cũng dạy cho trẻ tinh thần thể thao – cách để chiến thắng một cách đẹp nhất và
không bao giờ bỏ cuộc trong thi đấu.
1.4. Phương pháp và nguyên tắc giảng dạy Cờ Vua.
1.4.1. Phương pháp giảng dạy Cờ Vua.
Các nguyên tắc về phương pháp là hạt nhân cơ bản trong việc chọn lựa
những phương pháp để ứng dụng vào quá trình giảng dạy, truyền thụ kiến thức
cho đối tượng giáo dục. Nó được xây dựng trên cơ sở của các quy luật về tâm lý
giáo dục nói chung.
- Phương pháp dùng lời hay phương pháp mô tả bằng lời (kể chuyện,
miêu tả, giải thích, giảng bài, trò chuyện, nghiên cứu tài liệu).
- Phương pháp bài tập (giải các thế cờ theo chủ đề đã được chọn lựa riêng

nhằm tạo ra những kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn);
- Phương pháp trò chơi (chơi với bạn cùng nhóm những thế cờ đang học,
hoặc các trích đoạn của ván đấu, chơi nhiều bàn cùng một lúc, thi giải cờ thế);
- Phương pháp thi đấu (thi đấu các giải hạn chế thời gian, chơi Blid);
- Phương pháp phân tích ván đấu và các thế cờ điển hình (nghiên cứu các
ván đấu của các Đại kiện tướng, Kiện tướng, nghiên cứu các ván trong học tập
hoặc các giờ học theo nhóm, phân tích các tình thế điển hình trong khai cuộc,
trung cuộc và tàn cuộc ).
1.4.2. Các nguyên tắc về phương pháp trong giảng dạy Cờ Vua.
Qua nghiên cứu và kiểm nghiệm, thấy rằng khi tiến hành giảng dạy bằng
các phương pháp trên cần thiết phải tuân thủ các nguyên tắc mang tính lý luận
sau:
- Giảng dạy Cờ Vua gắn với giáo dục toàn diện.
18
Giảng dạy có nghĩa là truyền thụ một khối lượng kiến thức kỹ năng cần
thiết mang tính chuyên môn, và đưa ra những khả năng áp dụng những kiến
thức, kỹ năng đó vào thực tiễn.
Giáo dục toàn diện hướng học sinh đến việc làm quen với các chuẩn độ về
chính trị, thế giới quan, đạo đức, thẩm mỹ, các quy tắc và nhận thức phù hợp với
sự hình thành các quan điểm chính trị, các nét tính cách, các chuẩn mực hành vi
và tính sẵn sàng hoạt động theo xu hướng chuyên môn đòi hỏi.
Giáo dục con người phát triển toàn diện là một quá trình phức tạp và đa
dạng, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trong đó có sự ảnh hưởng của trí tuệ,
cảm xúc và ý chí.
Các hình thức tác động giáo dục là: Chủ động tạo ra theo chủ đích các
tình huống cụ thể, chẳng hạn, tham gia các cuộc tranh luận, phát biểu trong các
buổi họp lớp hoặc của tổ chức thể thao, nhận về mình trách nhiệm mang tính xã
hội; giao trách nhiệm cụ thể cho đối tượng giáo dục, trao cho họ một số nhiệm
vụ sư phạm trong quá trình học tập và rèn luyện tham gia tích cực vào công
tác đoàn thể xã hội.

Các hình thức tác động giáo dục trong phạm vi thực hành thể thao và
hoàn thiện trình độ điêu luyện trong các môn thi đấu khác nhau như: Tuân thủ
chính xác thời gian biểu các ngày, các giờ chơi trong đội tuyển và các cuộc thi
đấu; Chấp hành nghiêm ngặt chế độ thể thao trong thời gian thi đấu; Chế độ
thực hiện lượng vận động thể lực (các bài tập thể thao khác nhau, các buổi đi
dạo); Tham quan các di tích lịch sử và tham dự các hoạt động văn hóa.
Có thể đưa ra một số biện pháp tự giáo dục, tự học Cờ Vua như: Thực
hiện các nhiệm vụ và các bài tập ở nhà, công bố kịp thời các tư liệu có giá trị xã
hội, đọc và nghiên cứu các tài liệu, tự bình luận các ván cờ thi đấu của mình,
nắm bắt các kiến thức về lý thuyết khai cuộc, hoàn thành tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể.
- Nguyên tắc hệ thống.
19
Cơ sở của nguyên tắc này bao gồm các tài liệu giảng dạy và phương pháp
truyền thụ chúng.
Để đảm nguyên tắc này cần tuân thủ các quy tắc sau:
Quy tắc thứ nhất - Tùy thuộc vào lứa tuổi, đặc điểm tâm - sinh lý, mục
đích giờ học mà đưa ra những phương pháp, hình thức tổ chức, và lượng kiến
thức cho phù hợp.
Quy tắc thứ hai - Giáo viên cần trình bày bài giảng theo một trình tự
logic nhất định trên nguyên tắc sư phạm phổ biến “ từ đơn giản đến phức tạp, từ
đã biết đến chưa biết”.
Quy tắc thứ ba - Các tài liệu cần được trình bày thành từng phần, theo
một hệ thống nhất định, và phải có ví dụ minh họa cụ thể.
Quy tắc thứ tư - Mỗi giờ học ít nhất phải có một thời điểm mấu chốt để
giúp cho việc hiểu rõ chủ đề của bài học (chủ yếu là lý thuyết khai cuộc, các
nguyên tắc trong cờ tàn, chiến lược ở trung cuộc.v.v.).
- Nguyên tắc vừa sức.
Cơ sở của nguyên tắc này là cần phải tính đến những đặc điểm về cá nhân
như: Lứa tuổi, đặc điểm tâm - sinh lý, khả năng tiếp nhận kiến thức và các đặc

điểm khác của học sinh.
Ở đây cần nhấn mạnh rằng giảng dạy vừa sức không có nghĩa là giáo viên
phải loại bỏ mọi khó khăn trong quá trình học tập của học sinh, mà điều chủ yếu
là tăng cường những cố gắng sáng tạo và giúp đỡ về mặt lý luận cũng như thay
đổi tốc độ hay nhịp độ giảng dạy, tạo cho người học phải thể hiện sự nỗ lực cố
gắng của mình trong việc tiếp nhận những yêu cầu mà giáo viên đặt ra.
Từ đó phải có cách đối xử phân biệt với từng cá nhân cũng như tìm hiểu
để biết những khả năng thiên bẩm của học sinh và tác động để hoàn thiện chúng.
- Nguyên tắc bền vững kiến thức, và khả năng ứng dụng thực tiễn.
Theo lý thuyết thông tin, trí nhớ của con người được chia thành: Trí nhớ
linh hoạt, trí nhớ thời gian ngắn và trí nhớ thời gian dài.
20
Trí nhớ linh hoạt có dung lượng và thời gian lưu giữ hạn chế. Bằng trí
nhớ linh hoạt con người rút ra được những gì cần thiết và truyền nó vào hai dạng
trí nhớ kia. Chính nhờ vào các cơ chế của trí nhớ linh hoạt người ta mới có thể
huấn luyện được lý thuyết Cờ Vua.
Trí nhớ trong thời gian dài lưu giữ các phương án khai cuộc đặc biệt
(riêng cho mình), các thông tin về cờ tàn, chiến lược trung cuộc và các phương
tiện chiến thuật, có thể sắp xếp vào trí nhớ trong thời gian dài cả “sự nhạy bén
về thế trận” và “linh cảm”.
Đối với giáo viên cần thiết phải biết là lượng thông tin luôn phụ thuộc vào
phương pháp truyền thụ nó. Vì vậy việc tiếp thu kiến thức vững chắc luôn ở
trong trạng thái tranh chấp liên tục với “sự dập tắt thông tin” trong các vùng của
vỏ não với quá trình “quên”, nên nhiều nhà sư phạm đã khẳng định rằng việc
học tập cờ hiệu quả nhất là ở những thời gian đầu tiên của giờ học.
Phương tiện để chống lại “sự quên” thông tin chính là liên tục ôn lại kiến
thức không chỉ trong giờ học đó, mà còn ở đầu giờ học mới. ở khía cạnh này,
kiến thức về lý thuyết khai cuộc và kiến thức về lý thuyết tàn cuộc có khả năng
dễ ghi nhớ nhất.
Quá trình phát triển năng lực và và kỹ năng diễn ra theo nhiều nấc - từ

hiểu biết ban đầu đến nắm chắc kiến thức và kỹ năng.
Khái niệm khả năng tính toán trong Cờ Vua theo nghĩa hẹp dựa trên quá
trình tư duy sau: Phân tích tổng hợp tình huống thi đấu, chắt lọc để thu nhận
những gì là quan trọng nhất, vứt bỏ những điều gì không cần thiết, kiểm tra lại
một cách có phê phán các kết quả trước đó.
Các hình thức giảng dạy đặc trưng giúp cho việc nắm bắt vững chắc kiến
thức, phát triển năng lực nghiên cứu các thế cờ có tính chất lý thuyết rõ ràng,
chăm chú tìm kiếm các cách đánh mới, thực hiện các ván đấu theo đề tài với
thời gian suy nghĩ được rút ngắn, kiểm nghiệm bằng thực tế những ý tưởng khai
cuộc mới, tìm cách chơi cho những thế cờ mà một bên có một chút ưu thế,
nghiên cứu tỉ mỷ các ván cờ của các Đại kiện tướng.
21
1.4.3. Trình tự giảng dạy trong Cờ Vua.
Để xác định trình tự giảng dạy trong Cờ Vua cần phải căn cứ vào mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ, thời gian và đối tượng giảng dạy mà đưa ra nội dung
cho phù hợp. Thông thường, nội dung giảng dạy trong Cờ Vua được sắp xếp
theo trình tự như sau (với mục đích phổ cập Cờ Vua là chính yếu):
1. Bàn cờ, quân cờ (Nội dung cơ bản có thể là: Bàn cờ hình vuông gồm
64 ô, các ô Đen Trắng xếp xen kẽ lẫn nhau, 32 ô màu sáng, 32 ô màu tối, 16
quân mỗi bên. Gồm một Vua, một Hậu, hai Xe, hai Tượng, hai Mã và tám Tốt.
Vị trí của chúng ).
2. Các nhân tố trên bàn cờ (Tương tự có thể giới thiệu từ: Tên gọi của ô
cờ, hàng ngang, cột dọc, đường chéo, cánh Hậu, cánh Vua trung tâm, trung tâm
mở rộng, đường giới tuyến, đường biên).
3. Luật di chuyển quân, các hình thức ăn quân (Thông thường trong giảng
dạy Cờ Vua người ta giới thiệu cách di chuyển quân theo trình tự như sau: Vua,
Xe, Tượng, Hậu, Mã, Tốt. ).
4. Kết thúc ván cờ (Thông thường bắt đầu từ: Nước chiếu Vua, cách
chống đỡ khi Vua bị chiếu, các tình huống và cục diện hòa cờ ).
5. Các thuật ngữ trong Cờ Vua (Cần phải giới thiệu mang tính đặc thù Cờ

Vua như: Chiếu vĩnh viễn, temp, phong tỏa, Xucxvăng, Mát, Pát, blốc, seinốt,
blid, ưu thế. ).
6. Ký hiệu và cách ghi chép trong Cờ Vua (Các ký hiệu ghi trong biên bản
hoặc tài liệu, sách báo chuyên môn như: Nhập thành gần, nhập thành xa, nước đi
yếu, nước đi mạnh. Và cách thức ghi chép biên bản trong Cờ Vua (cách ghi
chép đầy đủ và cách ghi chép gắn gọn).
7. Giá trị tương đối của các quân và sự đổi quân (ở đây cần đưa ra: Khái
niệm hy sinh hay thí quân - thí quân là trường hợp bỏ một vài quân cờ nào đó
kém giá trị hơn hoặc không phụ thuộc vào mục đích chiến thuật của ván cờ để
dẫn đến tình huống có lợi hơn hẳn hoặc có thể dẫn tới thắng lợi ,các vấn đề về
đổi quân trong các giai đoạn của ván đấu ).
22
8. Cấu trúc ván cờ (Cần phải giới thiệu cho người học nắm vững được
rằng, ván cờ được chia làm 3 giai đoạn, đó là khai cuộc, trung cuộc, tàn cuộc.
Việc định ra gianh giới giữa khai cuộc, trung cuộc, tàn cuộc là rất khó. Cuộc đấu
xảy ra từ đầu đến cuối ván cờ có mối quan hệ tương hỗ với nhau ).
9. Tàn cuộc (Đây là điểm then chốt trong quá trình giảng dạy - huấn luyện
Cờ Vua cho người mới học chơi, mà cần phải bắt đầu giảng dạy từ tàn cuộc kỹ
thuật đến tàn cuộc chiến thuật - chiến lược. Với tàn cuộc chiến thuật - chiến lược
thì bắt đầu bằng tàn cuộc Tốt sau đó đến tàn cuộc Hậu, Xe, Tượng, Mã ).
10. Khai cuộc (Đơn giản nhất phải là: Giảng dạy các nguyên tắc trong
khai cuộc, các bẫy trong khai cuộc, các loại gam bít, các dạng thức khai cuộc cơ
bản: Khai cuộc thoáng, khai cuộc nửa thoáng, khai cuộc kín ).
1I. Trung cuộc (Tuỳ vào trình độ của học sinh mà đưa ra các mức độ khác
nhau về các tình thế điển hình trong giai đoạn trung cuộc).
1.5. Một số quan điểm khoa học trong trắc nghiệm trí tuệ.
Trắc nghiệm năng lực trí tuệ là một nội dung trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm tâm lý nói chung là công cụ tiêu chuẩn được phổ biến trên
toàn thế giới . Công cụ này giúp hệ thống biên tập từ dễ đến khó, sắp xếp phù
hợp với các lứa tuổi khác nhau, kết quả trung bình này là trình độ trí tuệ trung

bình của mỗi lứa tuổi, căn cứ vào độ tuổi để đánh giá mức độ trí tuệ của mỗi cá
nhân trong lứa tuổi đó.
Như vậy trắc nghiệm trí tuệ thực chất là công cụ kiểm tra trí tuệ đã đạt
đến mức nào. Thông qua trắc nghiệm trí tuệ để đo lường trí tuệ cao, thấp và qua
đó để định mức trí tuệ.
Ngày nay, không phải mọi người đều thừa nhận sự cần thiết sử dụng các
trắc nghiệm để nghiên cứu trí tuệ, nhưng không ai có cơ sở chuẩn nào để khước
từ các trắc nghiệm về trí tuệ. Đúng như B.Bitinax đã nhận định: Phủ nhận khả
năng đo lường năng lực trí tuệ có nghĩa là thừa nhận sự bất khả tri đối với loại
hiện tượng nào đó. Theo kết quả nghiên cứu về trí tuệ của nhiều tác giả trong và
ngoài nước, trắc nghiệm về các năng lực trí tuệ được chia thành 3 loại:
23
Một là trắc nghiệm trí thông minh: Năng lực trí tuệ chung, chúng có ý
nghĩa đánh giá tiềm năng trí tuệ hơn là những kiến thức học được trước đây
hoặc đã tích lũy được.
Hai là trắc nghiêm về năng lực: Đánh giá về các kiểu năng lực trí tuệ đặc
biệt như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tri giác không gian, năng lực cơ khí, năng
lực thực hành…Nó dự báo một cá nhân sẽ làm được gì sau này, khi đã được đào
tạo phù hợp và có động cơ đúng đắn. Các trắc nghiệm này dùng để khảo sát
những người xin việc và những người dự thi vào các trường đại học.
Ba là các trắc nghiệm về thành tích học tập, đánh giá các tri thức về môn
học nào đó: Loại trắc nghiệm này được dùng để kiểm tra đánh giá kết quả học
tập. Bất kỳ một trắc nghiệm tốt nào cũng phải đủ 3 tiêu chuẩn, phải là tin cậy,
phải là ứng nghiệm và phải được tiêu chuẩn hóa. Trong đó:
- Tính tin cậy: Khi ta dùng các hình thức khác nhau của cùng một trắc
nghiệm hoặc tiến hành cùng một trắc nghiệm nhiều lần trên cùng một đối tượng
thì kết quả thu được phải giống nhau.
- Tính ứng nghiệm: Trắc nghiệm phải đo được chính cái chúng ta định đo.
- Tính tiêu chuẩn hóa: Trắc nghiệm phải được thực hiện theo một thủ tục
tiêu chuẩn và phải có những quy chuẩn căn cứ theo một nhóm và nhóm này phải

đông đảo và mang tính chất giống với những người sau này đem ra trắc nghiệm
nghĩa là nó phải đại diện cho quần thể, các quy chuẩn của nhóm phải là một hệ
thống chuẩn có căn cứ để kiến giải các kết quả trắc nghiệm về bất kỳ một cá
nhân hay nhóm nào.
Vấn đề tri thức và trí thông minh
Trong khi phê phán các trắc nghiệm người ta thường hay nêu ra rằng
trong trắc nghiệm không phải các năng lực trí tuệ của con người được vạch ra,
mà là sự hiện hữu của những tri thức, kỹ năng – kỹ xảo của họ được vạch ra.
Việc loại trừ những kinh nghiệm cũ ( các tri thức, kỹ năng – kỹ xảo) ra
khỏi trí thông minh là không hiện thực. Các khả năng trí tuệ không thể được
24
vạch ra trong các bài tập, mà để giải quyết chúng lại không có tri thức tương
ứng, những kỹ năng – kỹ xảo đã hình thành.
Rõ ràng là không thể loại trừ ảnh hưởng của tri thức cũ, bởi vì giải quyết
ngay cả một nhiệm vụ mới về nguyên tắc cũng được giải quyết dựa trên kinh
nghiệm của quá khứ.
Quan điểm xử lý thông tin hiện đại không cho rằng tri thức là không quan
trọng. Hơn thế, nhiều nhà tâm lý học theo quan điểm xử lý thông tin còn cho
rằng sự quan tâm nên dành cho nền tảng tri thức được sinh ra bới các quá trình
trí tuệ.
Đề tài nghiên cứu “Ứng dụng Cờ Vua như một phương tiện phát triển
trí lực cho học sinh lứa tuổi 7 - 8 trường tiểu học Thị trấn Lim” thực hiện theo
chức năng, đánh giá và nghiên cứu trí tuệ của đối tượng học sinh trường tiểu học
Thị trấn Lim.
Các đề tài nghiên cứu về trí tuệ trong đối tượng học sinh ở nước ta qua
nghiên cứu tài liệu chúng tôi nhận thấy còn quá ít tác phẩm khoa học tương
xứng với tầm quan trọng của vấn đề trí tuệ.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên đây cho thấy trí tuệ
của con người là thuộc tính tâm lý phức hợp. Cấu trúc của nó bao hàm nhiều
khía cạnh tâm lý khác nhau như: năng lực tư duy, linh hoạt thần kinh, chú ý, trí

nhớ… Nhưng theo chúng tôi bản chất của trí tuệ tập trung ở hai yếu tố tâm lý là:
+ Sự thông hiểu (năng lực nhận thức)
+ Tư duy trừu tượng
Đó cũng là cơ chế biểu hiện của trí thông minh sáng tạo nói chung và
đồng thời là căn cứ để sáng tạo các phương pháp đo đạc của nhiều tác giả. Công
trình nghiên cứu của chúng tôi cũng dựa trên cơ sở khoa học ấy.
Tóm lại: Khi tham khảo tài liệu khác nhau, bước đầu đề tài đã xác định
được những căn cứ, cơ sở lý luận của đề tài cũng như cách thức tiến hành công
việc. Và dựa trên các nguồn tư liệu đó, đề tài đã lựa chọn chương trình giảng
dạy Cờ Vua nhằm phát triển trí lực và các test đáng giá năng lực trí lực để có thể
25

×