Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Nghiên cứu ứng dụng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thực hành cho vđv cờ vua lứa tuổi 9 10 tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.46 KB, 38 trang )

1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết:
Thể dục thể thao (TDTT) là hoạt động khơng thể thiếu trong đời sống văn
hố xã hội loài người, ngay từ khi mới ra đời TDTT là một bộ phận hữu cơ của nền
văn hoá xã hội là phương tiện giáo dục thể chất. TDTT mang tính lịch sử, tính giai
cấp và bản sắc văn hố của mỗi dân tộc, vì vậy thơng qua TDTT chúng ta có thể
đánh giá được sự phát triển của nền văn hoá thực chất của mỗi quốc gia, mỗi địa
phương, dân tộc.
Cờ vua được phát triển ở Việt Nam từ những năm 1980. Cờ vua là mơn thể
thao ít địi hỏi cao về các tố chất thể lực song lại có u cầu cao về sự bền bỉ, mưu
trí, thơng minh, óc sáng tạo của người chơi. Cờ vua đã và đang chiếm một vị trí
quan trọng trong làng thể thao Việt Nam đạt được nhiều thành tích cao tại đấu
trường khu vực, Châu lục và thế giới. Những thành tích đạt được của mơn Cờ vua
đã góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao vị thế của đất nước và con người Việt
Nam trên thế giới.
Bên cạnh những tấm huy chương vàng đó chúng ta cần phải phát huy hết khả
năng của mình để dành nhiều thành tích hơn nữa. Ở Vĩnh Phúc Cờ vua được xem là
môn thể thao trọng tâm được lãnh đạo tỉnh đầu tư quan tâm, nhờ đó phong trào Cờ
vua trong tỉnh ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng gặt hái được nhiều
thành tích đáng kể từ đó đã thu hút được một số lượng đông đảo các số lượng VĐV
đặc biệt là VĐV lứa tuổi 9 - 10 tham gia tập luyện và thi vào các lớp năng khiếu
của tỉnh.
Vĩnh Phúc là tỉnh mới phát triển mặc dù mức độ tăng trưởng kinh tế còn
chưa cao bằng các tỉnh trong cả nước nhưng lại có phong trào TDTT khá phát triển
và gặt hái được nhiều thành tích đáng kể. Song qua quan sát các VĐV Vĩnh Phúc
thi đấu các giải trong nước và các VĐV Việt Nam thi đấu các giải quốc tế cho thấy
rằng các VĐV trẻ nước ta có khả năng chơi khai cuộc, xử lý ưu thế chơi chiến


2


thuật, chiến lược và kỹ thuật tính tốn khơng thua kém bất kỳ VĐV nào song kết
quả của VĐV nước ta không cao. Do vận dụng thực hành trong ván đấu chưa tốt.
Ta biết rằng trình độ thực hành nói chung và trình độ tập luyện của các VĐV nói
riêng có ảnh hưởng rất nhiều đến việc thi đấu. Vì vậy, có vận dụng tốt các hình
thức thi đấu thì trình độ thực hành của VĐV mới được tối đa.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tiêu chuẩn đánh giá trình độ thực hành
của vận động viên như: Hồng Hải (2004), Trương Thị Thu Trang (2009) song việc
nghiên cứu vấn đề này ở VĐV lứa tuổi 9 - 10 cịn hạn chế. Vì vậy để các VĐV Việt
Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng có thể đạt được những thành tích cao
hơn nữa thì các huấn luyện viên cần phải đặc biệt chú trọng đến việc phát triển
trình độ thực hành cho VĐV.
Xuất phát từ những lý do nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ứng dụng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thực hành cho VĐV Cờ
vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc”
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp tài liệu từ những nguồn tài liệu trong và
ngồi nước cũng như thực trạng cơng tác huấn luyện Cờ vua Việt Nam hiện nay đề
tài tiến hành lựa chọn test và xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá trình độ thực hành
cho VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc góp phần nâng cao chất lượng
công tác huấn luyện và đào tạo VĐV Cờ vua tỉnh Vĩnh Phúc.
Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết mục đích nghiên cứu đã đặt ra đề tài đã thực hiện 2 mục tiêu
sau:
- Mục tiêu 1: Nghiên cứu lựa chọn các test đánh giá trình độ thực hành cho
VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc.
- Mục tiêu 2: Nghiên cứu xây dựng và ứng dụng tiêu chuẩn đánh giá trình
độ thực hành cho VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc.


3

Đối tượng nghiên cứu: Các test và tiêu chuẩn đánh giá trình độ thực hành
của VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 – 10 tỉnh Vĩnh Phúc.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 60 VĐV lứa tuổi 9 –
10 tỉnh Vĩnh Phúc.


4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các quan điểm về đánh giá trình độ thực hành trong TDTT.
Trong thể thao hiện đại vấn đề đánh giá trình độ tập luyện của VĐV có một
vị trí hết sức quan trọng. Việc tiến hành đánh giá trình độ tập luyện một cách khoa
học bằng các phương pháp khách quan sẽ cho phép VĐV luôn nắm được những
thông tin cần thiết để điều khiển quá trình huấn luyện đồng thời nâng cao hiệu quả
của công tác tuyển chọn và đào tạo VĐV. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề trình độ tập luyện của VĐV.
Theo quan điểm của các tác giả trong nước:
Theo quan điểm của Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn cho rằng: “Trong lý
luận cũng như trong đào tạo VĐV người ta cịn thường gặp các khái niệm như:
Trình độ đào tạo hay trình độ tập luyện. Nói đến trình độ đào tạo là nhằm chỉ tất cả
các mặt đào tạo để làm cho VĐV có thể đạt được những thành tích thể thao kế tiếp
nhau trình độ đào tạo bao gồm trình độ đào tạo về thể lực, kỹ thuật, chiến thuật,
tâm lý và lý luận nhất định của VĐV”.
Theo Nguyễn Danh Thái: “Trình độ tập luyện của VĐV là trình độ điêu
luyện và sự vững vàng nhạy bén về tinh thần và ý thức để đáp ứng yêu cầu đạt
thành tích thể thao ngày càng cao”.
Theo quan điểm của Lê Văn Lẫm và cộng sự: “Trình độ tập luyện của VĐV
là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn huấn luyện thể
thao. Trình độ tập luyện thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể năng lực
hoạt động chung và chuyên môn của VĐV ở mức hoàn thiện các kỹ năng và kỹ xảo
thể thao phù hợp”.

Theo quan điểm của các tác giả nước ngồi:
Theo quan điểm của Aulic I.V (1982) thì: “Việc đánh giá trình độ tập luyện
thì khơng phải là mục đích tự thân, là nhiệm vụ hàng thứ hai, nó là một phương tiện


5
kiểm tra cần có để phục vụ cho các vấn đề chính, đó là vấn đề phương pháp tập, tạo
điều kiện đạt được những thành tích thể thao cao”. Tuy nhiên khi phân tích khái
niệm về trình độ tập luyện ông nhận xét: “Có một yếu tố cơ bản của trình độ tập
luyện khơng được Novicov và Matveev nói tới đó là thành tích thể thao. Vì vậy
theo ơng “Trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng vủa VĐV để đạt được thành
tích nhất định trong mơn thể thao lựa chọn và năng lực này còn được biểu hiện cụ
thể về mức độ chuẩn bị về kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, đạo đức, ý chí và trí tuệ.
Trình độ tập luyện càng cao thì VĐV càng có thể làm trọn được một nhiệm vụ nhất
định với hiệu quả mỹ mãn hơn”.
Theo quan điểm của Navicov A.D và Matveev L.P thì trình độ tập luyện
thường liên quan phần lớn đến những thay đổi thích ứng sinh học (hình thái và
chức năng) xảy ra trong cơ thể VĐV dưới tác động của LVĐ tâm lý và nhữg thay
đổi đó biểu hiện ở sự phát triển năng lực của VĐV từ đó các ơng đưa ra khái niệm:
“Trình độ tập luyện là thước đo mức thích ứng của cơ thể đối với hoạt động cụ thể
đạt được thông qua tập luyện”.
Theo quan điểm của Dietrich Harre: “Trình độ tập luyện của VĐV thể hiện ở
sự nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của LVĐ, LVĐ thi đấu và các biện
pháp bổ trợ khác. Các năng lực thể thao bao gồm các năng lực thể chất, năng lực
phối hợp vận động, năng lực trí tuệ, kỹ xảo, kỹ thuật, năng lực chiến thuật và phẩm
chất tâm lý”. Các thông tin về trình độ tập luyện của VĐV được thể hiện ở các cuộc
thi đấu và kiểm tra thành tích (test kiểm tra). Các tiêu chuẩn cơ bản có thể sử dụng
trong việc đánh giá trình độ tập luyện và dự báo tiềm năng của VĐV đó là:
+ Tiêu chuẩn về trình độ thành tích.
+ Tiêu chuẩn về nhịp độ phát triển của thành tích.

+ Tiêu chuẩn về sự ổn định thành tích và khả năng tăng cường
+ Tiêu chuẩn về khả năng chịu LVĐ.


6
Các tiêu chuẩn trên thể hiện các mặt khác nhau của việc đánh giá năng lực
thể thao.
M. IaNbatnhicova đã đề cập tới việc nghiên cứu trình độ tập luyện một cách
sâu rộng thơng qua việc mơ hình hố các mặt khác nhau của thành tích thể thao,
các chỉ số của mơ hình được soạn thảo đối với cả những VĐV trẻ đã cho phép xác
định đúng đắn phương pháp giảng dạy - huấn luyện, do đó mà nâng cao cơng tác
tuyển chọn và đào tạo trong các trường thể thao thiếu niên và nhi đồng. Trong tác
phẩm nghiên cứu của mình ơng cịn trình bày mười ngun tắc có tính chất chủ đạo
trong việc tiến hành kiểm tra tổng hợp sư phạm và y sinh đối với việc đánh giá
trình độ tập luyện cho VĐV trẻ.
Ngồi ra có thể nói trình độ tập luyện là khả năng cơ thể nhằm giải quyết
một nhiệm vụ cụ thể nào đó nhất định. Trình độ tập luyện có thể xác định thơng
qua các phương pháp sư phạm - tâm lý - y sinh học. Tuy nhiên trình độ tập luyện là
một khái niệm đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể. Trình độ tập luyện trong
một hoạt động nhất định thường mang tính chun mơn rất cao. Để xác định trình
độ tập luyện của VĐV của các môn thể thao khác nhau cần phải lựa chọn các bài
tập chuyên biệt trong mơn thể thao được nghiên cứu. Trình độ tập luyện có thể xác
định bằng trạng thái phát triển thành tích thu được. Theo các quan điểm nghiên cứu
và định nghĩa trên của các tác giả trong và ngoài nước chúng tơi thấy rằng trình độ
tập luyện của VĐV được các nhà khoa học nhìn nhận và xem xét theo các luận điểm
sau:
- Trình độ tập luyện được thể hiện ở mặt: Kỹ chiến thuật, thể lực, tâm lý,
chức năng, khi VĐV thực hiện các hoạt động chun mơn.
- Trình độ tập luyện chủ yếu là những biến đổi thích nghi về hình thái cũng
như chức năng diễn ra trong cơ thể dưới tác động của tập luyện.

- Trình độ tập luyện bao gồm nhiều thành phần, nhiều mặt và chịu nhiều ảnh
hưởng của LVĐ.


7
- Yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện là thành tích thể thao của VĐV được
nâng cao thơng qua quá trình đào tạo huấn luyện.
Do vậy chúng ta thấy rằng quan niệm về trình độ thực hành trong TDTT
được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau rất phong phú và đa dạng.
1.2. Cơ sở lý luận của phương pháp đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ
vua.
Cờ vua là mơn thể thao có đặc trưng là ít địi hỏi cao về thể lực, song lại có
u cầu cao về sự bền bỉ, mưu trí thơng minh, óc sáng tạo ở người chơi. Với đặc
điểm Cờ vua là một mơn thể thao trí tuệ, LVĐ trong Cờ vua là LVĐ tâm lý tác
động vào VĐV từ đó gây ra những biến đổi trong cơ thể, chính vì vậy mà khả năng
chun mơn được hình thành tâm lý và các cơ chế sinh lý, sinh hoá khác cũng cần
ổn định hơn.
Theo I.M. Xêtrênôp và rất nhiều nhà khoa học khác đã nghiên cứu chứng
minh rằng khi con người tham gia hoạt động thể lực cũng như trí lực đều xảy ra
hiện tượng mệt mỏi và hồi phục. Cờ Vua tuy là mơn thể thao hoạt động trí lực,
nhưng cũng giống như các môn thể thao khác đều phải tuân thủ theo các quy luật
chung của hoạt động thể thao. Vì vậy nguyên lý cơ bản để xem xét đánh giá trình
độ tập luyện phải là nguyên tắc tổng hợp. Nghĩa là xem xét một cách toàn diện tất
cả các hoạt động của cơ thể. Trạng thái sức khỏe, tâm lý, trình độ kỹ - chiến thuật,
trình độ thể lực…
Đánh giá trình độ VĐV Cờ vua là một vấn đề hết sức quan trọng trong huấn
luyện, việc làm này phải được tiến hành tại những thời điểm quan trọng trong các
giai đoạn huấn luyện. Thực chất quá trình đào tạo VĐV Cờ vua là q trình điều
khiển, tác động có hướng đích của HLV tới VĐV của mình nhằm đạt được các
thành tích thể thao cao và cao nhất. Một trong những khâu quan trọng nhất của việc

điều khiển quá trình huấn luyện nhiều năm là hệ thống kiểm tra tổng hợp nhằm
đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua trong tất cả các giai đoạn của quá


8
trình giảng dạy - huấn luyện. Hệ thống kiểm tra tổng hợp có hiệu quả giúp cho các
HLV đánh giá khách quan tính đúng đắn của hướng huấn luyện đã chọn, thường
xuyên theo dõi tình trạng và động thái của trình độ thực hành VĐV, kịp thời điều
chỉnh quá trình giảng dạy - huấn luyện. Ý nghĩa của việc kiểm tra tổng hợp trong
quá trình huấn luyện Cờ vua - đặc biệt là trong giai đoạn huấn luyện ban đầu là hết
sức to lớn. Vì đạt được các thành tích thi đấu Cờ vua tương đối cao so với lứa tuổi
và hồn thành các tiêu chuẩn đẳng cấp khơng phải bao giờ cũng chứng tỏ VĐV Cờ
vua đó sẽ phát triển tốt trong giai đoạn huấn luyên tiếp theo. Vì vậy hệ thống các
thử nghiệm kiểm tra và các tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở khoa học có tầm
quan trọng đến mức được coi là những mối định hướng xác định để tổ chức hợp lý
quá trình giảng dạy huấn luyện của các VĐV Cờ vua thuộc các lứa tuổi đẳng cấp
khác nhau để kiểm tra tổng hợp, cần sử dụng các phương pháp kiểm tra sư phạm và
y sinh.
+ Kiểm tra sư phạm là cơ sở để có thơng tin về tình trạng và hiệu quả hoạt
động của VĐV Cờ vua. Nó được sử dụng để đánh giá hiệu quả của các phương
tiện, phương pháp huấn luyện, để xác định động thái của trạng thái xung sức thể
thao và dự báo các thành tích. Nhiệm vụ của kiểm tra sư phạm là: Thống kê lượng
vận động tập luyện và thi đấu, xác định các mặt khác nhau của trình độ huấn luyện
của các VĐV Cờ vua, xác định các khả năng để đạt được thành tích thể thao dự
kiến, đánh giá hành vi của VĐV Cờ vua trong các cuộc thi đấu. Các phương pháp
chủ yếu của kiểm tra sư phạm là quan sát sư phạm và các thử nghiệm kiểm tra (lập
test) về những mặt khác nhau của trình độ huấn luyện của các VĐV Cờ vua - đặc
biệt là các VĐV Cờ vua trẻ.
+ Các phương pháp kiểm tra y - sinh nhằm đánh giá tình trạng sức khoẻ,
mức độ phát triển thể chất, tuổi sinh học, trình độ huấn luyện về mặt chức năng của

VĐV.


9
Trình độ tập luyện là mức độ thích nghi của cơ thể với một hoạt động cụ thể
nào đó đạt được bằng hoạt động tập luyện đặc biệt, trình độ tập luyện liên quan đến
những biến đổi về cấu tạo và chức năng xảy ra trong cơ thể dưới tác động tích cực
của lượng vận động tập luyện.
Trình độ tập luyện có thể được xác định thơng qua các phương pháp sư
phạm, tâm lý và y - sinh học. Tuy nhiên, trình độ tập luyện là một khái niệm tổng
hợp, đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể, vì vậy nguyên lý cơ bản để xem
xét trình độ tập luyện phải là nguyên tắc tổng hợp. Nghĩa là phải xem xét một cách
toàn diện tất cả các mặt hoạt động của cơ thể: Trạng thái sức khoẻ, trạng thái tâm
lý, trình độ kỹ-chiến thuật, trình độ thể lực.
Trình độ tập luyện thể hiện trong một hoạt động nhất định, vì vậy trình độ
tập luyện mang tính chun mơn rất cao. Để xác định trình độ tập luyện của các
VĐV Cờ vua cần phải lựa chọn tổ hợp các chỉ tiêu tâm - sinh lý chuyên biệt đặc
trưng trong mơn thể thao Cờ vua.
Trình độ tập luyện của VĐV có thể cao, trung bình hoặc thấp, trạng thái đó
phụ thuộc vào quá trình tập luyện. Tập luyện Cờ vua nhằm đạt được thành tích thể
thao cao nhất vào thời điểm nhất định. Trạng thái của VĐV Cờ vua trong giai đoạn
có trình độ, tập luyện cao nhất được gọi là trạng thái sung sức thể thao. Trạng thái
sung sức thể thao trong Cờ vua thể hiện ở sự phối hợp hoạt động tối đa giữa các hệ
cơ quan trong cơ thể, khả năng chức phận của cơ thể được phát triển tối đa và khả
năng huy động hoàn toàn các nguồn dự trữ trong cơ thể. Trạng thái sung sức thể
thao đạt được nhờ các lượng vận động tập luyện lớn, vì vậy nó khơng duy trì được
lâu dài; Tuy nhiên cơ thể có thể đạt được trạng thái sung sức thể thao nhiều lần
trong một năm.
Trình độ tập luyện cũng như biểu hiện cao nhất của nó là trạng thái sung sức
thể thao, có thể xác định thơng qua các chỉ tiêu tâm - sinh lý nhất định. Đó là đặc

điểm cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan trong cơ thể. Chúng được nghiên


10
cứu trong trạng thái nghỉ, trong hoạt động định lượng và thực hiện hoạt động tối đa.
Trình độ tập luyện của VĐV Cờ vua thể hiện ở sự nâng cao năng lực chuyên môn
nhờ ảnh hưởng của lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu và các biện
pháp bổ trợ khác nhau.
Trong các giai đoạn huấn luyện khác nhau, nhiệm vụ của cơng tác đánh giá
trình độ VĐV Cờ vua cũng khác nhau.
+ Trong giai đoạn tuyển chọn ban đầu, việc đánh giá - dự báo trình độ VĐV
Cờ vua đó chính là q trình phát triển năng khiếu thể thao. Phát hiện năng khiếu
thể thao trước hết dựa vào việc dự báo với một xác xuất cao đáng tin cậy về một
VĐV có thể có khả năng hồn thành giai đoạn huấn luyện Cờ vua có thành tích tốt
đến mức sẽ thu nhận vào giai đoạn huấn luyện Cờ vua sau này.
+ Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình huấn luyện việc đánh giá - dự báo
trình độ VĐV Cờ vua nhằm mục đích xác định thành tích cao nhất mà bản thân
VĐV có thể đạt được, và khoảng thời gian để đạt được thành tích đó. Để tiến hành
đánh giá trong giai đoạn này, cần thiết phải thu nhận các thông tin tiếp theo ở VĐV
thơng qua việc phân tích các yếu tố xác định thành tích thể thao như:
- Tiêu chuẩn trình độ của thành tích: Dựa vào tiêu chuẩn này có thể kết luận
rằng VĐV có cơ sở thành tích rộng rãi và đầy đủ trong các yếu tố xác định thành
tích của môn Cờ vua. Bởi vậy, cần phải dựa theo các quan điểm sư phạm thể thao,
y học thể thao và tâm lý học thể thao để xác định rằng VĐV đó có đầy đủ các trị số
thành tích thể thao cao trong các yếu tố xác định thành tích.
- Tiêu chuẩn về nhịp độ phát triển thành tích: Dựa vào tiêu chuẩn này phải
cần xác định xem VĐV Cờ vua có thể thực hiện các yêu cầu của lượng vận động
một cách có hiệu quả hay khơng? Và đặc biệt là các yếu tố xác định thành tích của
VĐV đó phát triển nhanh như thế nào? Điều đó bao gồm nhịp độ phát triển, các
thành tích thể thao cũng như các yếu tố xác định nó, bao gồm chất lượng của khả



11
năng thích ứng của các hệ thống chức năng và nhịp độ phát triển các cấu trúc năng
lực tiếp đó cũng như các đặc điểm cấu trúc có thể nhất định.
- Tiêu chuẩn về sự ổn định thành tích với khả năng tăng trưởng thành tích:
Tiêu chuẩn này có thể giải thích rằng VĐV Cờ vua có cơ sở ổn đinh thành tích đối
với các thành tích thi đấu cao. Điều đó được hiểu là mức độ thể hiện của các yếu tố
xác định thành tích cho phép VĐV Cờ vua hồn thành nhanh chóng và liên tục các
thành tích của mình và cần phải lập được thành tích tốt nhất của bản thân trong các
cuộc thi đấu quan trọng. Vì điều đặt ra rõ ràng trong thể thao cũng như trong Cờ
vua, thành tích thể thao cao nhất ở các thời điểm đã được xác định trước (các đại
hội Olympic, các cuộc thi đấu vô địch thế giới). Nên sự ổn định thành tích có ý
nghĩa đặc biệt to lớn các kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng, tiêu chuẩn này có vị
trí lớn với ý nghĩa là cơ sở trung tâm của quá trình đánh giá.
- Tiêu chuẩn về khả năng chịu đựng lượng vận động: Dựa vào tiêu chuẩn
này, cần phải giải thích được VĐV Cờ vua có thể giải quyết được các yêu cầu trong
tập luyện, trước hết là các lượng vận động, ở mức độ nào. Thể hiện đầu tiên của
khả năng này là việc thực hiện một cách có hiệu quả cường độ vận động được nâng
cao thường xuyên và một khối lượng vận động được tăng lên liên tục. Việc dự báo
thành tích ở đây, dựa trên cơ sở mong muốn rằng, sự tăng lượng vận động tập
luyện một cách thường xuyên sẽ dẫn đến những thích ứng tập luyện rõ ràng, vững
chắc, và điều đó thể hiện nâng cao năng lực hoạt động của các chức năng tâm - sinh
lý và sự nâng cao thường xuyên thành tích thi đấu.
Cờ vua là mơn thể thao trí tuệ đặc trưng của mơn thể thao này là sự căng
thẳng lớn về cảm xúc mà giữa người chơi phải khắc phục trong thi đấu. Chính bởi
lẽ đó mà lượng vận động trong tập luyện và thi đấu Cờ vua thể hiện rõ nét đặc thù
chuyên môn, khác với nhiều môn thể thao khác.



12
Để đánh giá trình độ tập luyện của VĐV Cờ vua cần thiết phải được nghiên
cứu trong các trạng thái khác nhau như: Trạng thái nghỉ, khi hoạt động định lượng
mang nét đặc thù chuyên môn và khi thực hiện hoạt động tối đa.
1.3. Phương phápđánh giá trình độ của VĐV Cờ Vua.
Việc đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua là cơ sở cho quá trình dự
báo trình độ VĐV Cờ vua. Dự báo VĐV Cờ vua là một trong những công việc cần
tiến hành trong quá trình đào tạo VĐV Cờ vua, nghĩa là phải tìm ra những khả năng
cá nhân có liên quan đến trình độ thể thao của VĐV Cờ vua. Trong công việc huấn
luyện thường xuyên của HLV Cờ vua, việc tìm kiếm các đặc điểm cá nhân đó về cơ
bản là việc dựa vào việc phân tích kết quả thi đấu ở các giải cũng như kinh nghiệm
dự báo các lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó có các mơn thể thao khác.
Việc dự báo trình độ của VĐV Cờ vua địi hỏi sự phân tích tồn bộ hoạt động trong
lĩnh vực chuyên môn - nghề nghiệp. Đánh giá đúng những thử nghiệm - kiểm tra
mà đòi hỏi người học phải thực hiện, người ta gọi đó là đánh giá các phương giá dự
báo.
Do đặc điểm hoạt động thi đấu Cờ vua luôn liên qua chặt chẽ với môi trường
cảm xúc - ý chí nên khi tiến hành đánh giá trình độ chun mơn cho hoạt động thi
đấu đó, mà còn cần tiến hành nghiên cứu và đánh giá đúng, chính xác cả những đặc
điểm tâm lý của VĐV Cờ vua (Cotơv - 1998).
Hiện nay, ở các nước có phong trào Cờ vua phát triển mạnh trên thế giới
như: Anh, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Liên Xô (cũ) - Một cường quốc về Cờ vua đều
tiến hành đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua một cách hết sức chặt chẽ
theo những phương pháp và những quy trình đã được chuẩn y, kiểm nhiệm trong
thực tiễn, trong công tác đào tạo VĐV Cờ vua.
Các phương pháp đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua hiện đang sử
dụng là:
- Đánh giá trình độ thực hành qua thành tích thi đấu



13
- Đánh giá trình độ thực hành bằng chỉ số Reiting.
- Đánh giá trình độ thực hành bằng test sư phạm
- Đánh giá trình độ thực hành dựa vào kinh nghiệm huấn luyện.
* Phương pháp đánh giá trình độ thực hành qua thành tích thi đấu.
Trình độ thực hành của VĐV không chỉ thể hiện ở trạng thái nghỉ ngơi hoặc
trong hoạt động định lượng (hoạt động không lớn lắm) mà nó cịn được thể rõ nhất
trong hoạt động tối đa. Khi VĐV thực hiện lượng vận động tối đa sẽ thể hiện tính
thơng tin cao nhất, đó chính là các phản ứng thích nghi của cơ thể với hoạt động tối
đa. Chúng thể hiện rõ nhất ở trình độ thực hành của VĐV.
Phản ứng chuẩn cơ thể đối với hoạt động tối đa đến giới hạnh có thể được
nghiên cứu và xác định trong điều kiện tập luyện, thi đấu cũng như trong thí
nghiệm đặc biệt. Hoạt động tối đa thực hiện đến mức mệt mỏi hoàn toàn, chỉ có
trong điều kiện như vậy mới có thể xác định được mức dự tính chức năng và khả
năng sử dụng chúng của cơ thể.
Thực hiện các hoạt động tối đa cho phép chúng ta xác định được các yếu tố
trong đó có các mơn thể thao khác nhau. Vì vậy hoạt động tối đa phải mang tính
chun mơn cao.
Một trong những hướng nhằm đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua
trong hoạt động tối đa đó chúng là thông qua hoạt động thi đấu. Bởi lẽ, LVĐ lớn
nhất trong Cờ vua là LVĐ thi đấu (thi đấu Cờ vua truyền thống, thi đấu thời gian
dài, hoặc thi đấu Blid “mà” đồng loại thi đấu trong thời gian ngắn khơng nhìn bàn
cờ với nhiều đấu thủ cùng một lúc) đó chính là ván đấu có hạn định thời gian, có
kiểm tra nước đi (khống chế số lượng nước đi trong phạm vi thời gian).
* Phương pháp đánh giá trình độ thực hành bằng chỉ số Reiting.
Thực tế cho thấy rằng trong cuộc thi đấu Cờ vua chỉ có sự tham gia số ít
VĐV thì việc xác định trình độ của họ là điều khơng mấy khó khăn với câu hỏi ai
là người mạnh hơn trong hai người (tức là trình độ cao hơn) được giải quyết rất đơn



14
giản. Các VĐV phải thường xuyên gặp nhau trong các cuộc thi đấu, điều đó có
nghĩa là VĐV liên tục thắng đó là VĐV mạnh hơn hay có trình độ cao hơn; Song
nếu như họ luân phiên lúc người này thắng lúc người kia thắng thì có thể coi trình
độ của họ là ngang nhau. Nhưng trường hợp đặc biệt, luôn gây tranh cãi là khi các
ván đấu của họ ln kết thúc hồ cờ.
Hiện nay, khơng phải là hiếm khi mà là đồng thời trên một vài quốc gia, một
vài khu vực tiến hành tổ chức các giải thi đấu, thậm chí có thể liền một lúc ở một
vài thành phố của một quốc gia. Và trên thực tế cho thấy ở hàng loạt các cuộc thi
đấu lớn của thế giới đều có sự tham gia của hàng nghìn VĐV, mà nhiều người
trong số họ chỉ biết nhau chứ không được thi đấu với nhau trực tiếp. Trong những
trường hợp đó việc so sánh trình độ của họ quả là điều khó khăn.
Trình độ VĐV Cờ vua là một đại lượng định tính nên để có thể đánh giá một
cách chính xác và khách quan thì cần phải thơng qua một đại lượng định lượng.
Chính điều này làm nảy sinh ý đồ sử dụng toán học để giải quyết vấn đề khó khăn
này. Những nỗ lực đầu tiên nhằm xây dựng một hệ thống đánh giá sức mạnh của
VĐV Cờ vua đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ Xĩ. Và thực tế cuối những năm
50 của thế kỷ này, hàng loạt các hệ thống đánh giá chính thức được đưa vào thử
nghiệm. Hầu hết nền tảng của hệ thống đánh giá đó đều xuất phát từ hệ số riêng
biệt của mỗi VĐV được xác định từ trước - nói một cách khác là căn cứ vào chỉ số
Reiting (từ gốc tiếng anh “Raiting” nghĩa là đánh giá, xếp loại trình tự) Reiting là
chỉ số đánh giá về thực chất trình độ VĐV Cờ vua thường xuyên tham gia các cuộc
thi đấu khác khoảng thời gian và hệ số này luôn bị thay đổi từ cuộc thi đấu đó. Sau
nhiều năm theo dõi và phân tích kiểm nghiệm hàng loạt các hệ thống đánh giá đều
cho thấy chúng khơng có sự khác biệt lớn lắm về bản chất. Vì vậy 1970, Liên Đồn
Cờ vua thế giới (FIDE) đã quyết định sử dụng hệ thống đánh giá theo hệ số được
giáo sư A.Elô (người Mỹ) đề xướng.
Những đặc điểm cơ bản của hệ thống này là:



15
Nếu như hệ số “cũ” của VĐV (hệ số đã có trước khi tham gia cuộc) được gọi
là HC. Thì hệ số mới được gọi là Hm (hệ số sẽ có được ngay sau khi kết thúc cuộc
thi) sẽ được xác định theo công thức:
Hm = Hc + K (Đ - Đmc)
Trong đó:
- Đ : Số điểm mà VĐV đó thực sự đạt được trong cuộc thi đó.
- Đmc: Số điểm mà mong muốn đạt được trong cuộc thi đó.
- K: Hệ số phát triển = 10
Số điểm mong muốn đạt được này phụ thuộc vào hệ số của VĐV đó là hệ số
của các đấu thủ mà VĐV đó gặp. Nếu số điểm đạt được cùng với số điểm mong
muốn chỉ số Reiting của VĐV đó sau cuộc thi sẽ khơng thay đổi. Cịn nếu VĐV đó
thu nhận nhận số điểm thực tế nhiều hơn hay ít hơn số điểm mong muốn thì tất
nhiên chỉ số Reiting của VĐV sẽ bị thay đổi hoặc tăng lên hoặc giảm xuống. Từ
cơng thức tính nêu trên cho thấy rõ ràng một điểm trong cuộc thi tương ứng với 10
đơn vị Reiting. Như vậy, để có thể áp dụng được cơng thức này cần phải biết cách
xác định Đmc - Số điểm mong muốn đạt được trong một cuộc thi mà VĐV sẽ tham
gia.
Việc đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua theo phương pháp này ở
Việt Nam hiện nay chưa tiến hành, vì điều kiện thực tế hiện nay thang điểm xây
dựng cho VĐV Cờ vua Việt Nam chưa được chuẩn hố và khi đánh giá trình độ
thực hành theo cách này đòi hỏi các VĐV phải thường xuyên tham gia các giải thi
đấu. Mặt khác khi sử dụng chỉ số này nhằm đánh giá trình độ thực hành cho VĐV
Cờ vua trẻ là khó có thể thực hiện được nhất là trong giai đoạn huấn luyện ban đầu.
Bởi lẽ các VĐV trẻ ít có cơ hội được tham gia thường xuyên các giải đấu đỉnh cao.
Để đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua thơng qua hoạt động định
lượng mang tính chun mơn (thơng qua test sư phạm) người ta có thể sử dụng các
test như:



16
+ Test phân tích đánh giá lập kế hoạch
+ Test trí nhớ thực hành
+ Test khai cuộc
+ Test địn phối hợp
+ Test kỹ năng tính tốn
+ Test chiến thuật
+ Test chiến lược
+ Test tàn cuộc
+ Test thi đấu ván cờ tích cực.
+ Test xử lý ưu thế
+ Test thi đấu Blid (thực hiện ván đấu trong thời gian hạn hẹp từ 30 phút trở lại)
Để đánh giá trình độ thực hành của VĐV Cờ vua cũng cần thiết phải nghiên
cứu cả trong trạng thái nghỉ khi hoạt động định lượng mang nét đặc thù chuyên
môn và cả khi thực hiện hoạt động tối đa. Bản chất của hoạt động định lượng này
mang tính chuyên biệt về Cờ vua.
Mục đích của quá trình đánh giá về tâm lý nhằm thu nhận các thơng tin về
tốc độ của q trình tư duy và sự linh cảm trong đánh giá nhân tố thời gian. Để giải
quyết các vấn đề đó cần phải tìm ra phương pháp nghiên cứu tốc độ tư duy dưới
các dạng thức khác nhau. Muốn vậy cần phải nghiên cứu các mặt: Tốc độ tính tốn
các thành phần đơn lẻ, tốc độ tính tốn các biến thế phức tạp hơn mang tính tư duy
logic và tốc độ tính tốn các biến thế cấu thành đòi hỏi sự tập trung căng thẳng kéo
dài.
Để đánh giá tốc độ tính tốn các biến thế đơn lẻ, người ta xây dựng và chuẩn
bị phương pháp sau: VĐV phải tiến hành theo lệnh trừ 3 từ 1000 và sau đó lại theo
lệnh 2 lại thêm 7 vào số ghi cuối cùng khi trừ. Mỗi lần thực hiện theo lệnh (trừ và
cộng) kéo dài khoảng 1 phút và kéo dài trong 2 phút thực hiện bài test. Với cấu


17

trúc và thời gian tự kiểm tra như trên, ngay sau khi có lệnh dừng lại, người thực
hiện nhất thiết phải nêu rõ thời gian cảm nhận được để sử dụng bài test.
Trong q trình phân tích bài test, cần xác định số lần thực hiện các lần cộng
trừ, đánh giá độ chính xác khi thực hiện bài thử, tính số lần sai và độ chính xác của
việc xác định bằng linh cảm thời gian sử dụng. Sau đó VĐV tự xác định trong thời
gian 1 phút khi khơng có đồng hồ bằng bất kỳ phương tiện nào. Test chuẩn đánh
giá tốc độ và độ chính xác trong giải quyết các nhiệm vụ logic được tiến hành theo
mẫu “tương quan số lượng” được dùng trong tâm lý học thử nghiệm. ở đây đòi hỏi
phải xác định mối quan hệ về độ lớn theo các điều kiện định trước.
Khi tiến hành xác định tốc độ và độ chính xác trong tính toán các biến thế
cấu thành với sự căng thẳng giác quan. Test được ứng dụng là test “các đường rối”.
Để thực hiện bài test này đòi hỏi người thực hiện phải có sự tập trung cao độ tri
giác và sự chú ý.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 9 – 10.
1.4.1. Đặc điểm tâm lý.
Đối với lứa tuổi này bắt đầu cố gắng muốn tự tập, điều này có quan hệ đặc
biệt đến sự phát triển thái độ có ý thức đối với hoạt động của mình. Nguyện vọng
đó sẽ giúp các em tích cực hơn trong hoạt động, nâng cao ý thức trách nhiệm, phát
triển sự sáng tạo trong hoạt động. Tuy nhiên nếu giáo dục không đúng thì tính độc
lập trong tư duy của các em phát triển theo chiều hướng không đúng sẽ dẫn đến kết
quả khơng tốt (học địi, cáu kỉnh, thơ lỗ, hốn láo, hút thuốc lá, sống “vơ chính phủ”
và dễ dàng mắc phải những tệ nạn xã hội).
- Hứng thú của các em xuất hiện thêm nhiều nét mới. Hứng thú đã được xác
định rõ rệt hơn, mang tính chất bền vững, sâu sắc và phong phú hơn. Hứng thú của
các em rất năng động, các em sẵn sàng đi vào lĩnh vực tri giác mình u thích. Do
vậy việc giảng dạy TDTT cũng như các mơn học khác đóng vai trị chủ yếu trong
vấn đề này. Giờ học TDTT sẽ tạo cho các em hiểu được ý nghĩa, vai trò của TDTT
đối với cá nhân và xã hội, giúp các em tích cực tự giác tập luyện trong giờ học



18
chính khố và hoạt động ngoại khố. Song chất lượng giảng dạy và nhân cách giáo
viên có ảnh hưởng mạnh đến sự nảy sinh và phát triển hứng thú của các em đối với
môn học.
Một đặc điểm nữa là hứng thú nhận thức đối với môn học này ngày càng
phân hoá được thể hiện khi các em ham mê một lĩnh vực tri giác nào đó thì coi
thường các giờ học những mơn mà các em khơng thích. Do hứng thú của các em
phát triển rộng rãi nên thầy giáo và cha mẹ phải hướng và điều chỉnh hứng thú đó
sao cho phù hợp để hướng dẫn các em hoạt động có hiệu quả. Do vậy cần phải
thường xuyên quan sát và giáo dục cho phù hợp trên cơ sở dựa trên tính tích cực,
phát huy tính chất sáng tạo, biết điều chỉnh và tổ chức hoạt động cho các em tạo
điều kiện phát triển tốt khả năng của các em.
1.4.2. Đặc điểm sinh lý.
Hệ thần kinh: Não bộ đang thời kỳ bắt đầu hoàn chỉnh hoạt động của thần
kinh chưa ổn định, hưng phấn chiếm ưu thế. Vì vậy khi học tập các em dễ tập trung
tư tưởng, nhưng nếu thời gian kéo dài, nội dung nghèo nàn hình thức hoạt động
đơn điệu thì thần kinh sẽ sớm mệt mỏi và phân tán sự chú ý. Do hoạt động thần
kinh linh hoạt đó là điều kiện dễ dàng hình thành phản xạ có điều kiện. Do vậy nội
dung tập luyện phải phong phú, phương pháp giảng dạy tổ chức giờ học phải linh
hoạt, không cứng nhắc đơn điệu giảng giải và làm mẫu có trọng tâm chính xác
đúng lúc, đúng chỗ. Ngoài ra cần tăng cường hoạt động TDTT ngồi giờ và hình
thức vui chơi khác để làm phong phú khả năng hoạt động và phát triển các tố chất thể
lực một cách toàn diện.
Hệ vận động: Hệ xương chưa phát triển mạnh mẽ về chiều dài. Hệ thống sụn
và các khớp đang đòi hỏi điều kiện để phát triển. Do vậy giáo dục thể chất có tác
dụng tốt đến sự phát triển của hệ xương nhưng phải chú ý đến tư thế, đến sự cân
đối hoạt động để tránh sự phát triển sai lệch của hệ xương và kìm hãm sự phát triển


19

của chiều dài. Đặc biệt đối với các em gái xương chậu chưa phát triển nên dễ bị
lệch lạc nếu q trình hoạt động vận động khơng hợp lý.
Hệ cơ: của các em chưa phát triển, hệ cơ chủ yếu là phát triển về chiều dài
thiết diện cơ chưa phát triển nhưng đến tuổi 13 - 14 thì thiết diện cơ phát triển hơn.
Do sự phát triển không đồng bộ nên các em khơng phát huy được sức mạnh và
chóng mệt mỏi. Vì vậy trong giáo dục thể chất cần chú ý phát triển cơ bắp và phát
triển toàn diện.
Hệ tuần hoàn: Tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển mạch máu, sức
co bóp cịn yếu, khả năng điều hoà hoạt động của tim chưa ổn định nên hoạt động
q nhiều sẽ chóng mệt mỏi. Vì vậy, tập luyện TDTT thường xuyên sẽ ảnh hưởng
tốt tới sự hoạt động của hệ tuần hoàn, sự hoạt động của tim dần được thích ứng và
có khả năng chịu đựng khối lượng lớn sau này. Nhưng trong quá trình tập luyện
TDTT cần phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và nguyên tắc tăng dần yêu cầu, tránh
hoạt động quá sức và quá đột ngột.
Hệ hô hấp: Phổi của các em phát triển chưa hồn thiện, phế nang cịn nhỏ,
các cơ hơ hấp chưa phát triển, dung lượng phổi cịn bé. Vì vậy, khi hoạt động các
em thở nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi. Nên việc rèn luyện thể chất cho các
em phải toàn diện, phải chú ý phát triển các cơ hô hấp và hướng dẫn các em biết
cách thở sâu, thở đúng và biết cách thở trong hoạt động. Như vậy mới có thể làm
việc và hoạt động được lâu và có hiệu quả.
Nhận xét: Từ những kết quả nghiên cứu trên, cho phép đi đến một số nhận
xét sau:
- Trình độ thực hành của VĐV là trình độ thích ứng của cơ thể VĐV với hoạt
động TDTT nhờ một q trình huấn luyện có hệ thống. Trình độ thực hành là thước
đo hiệu quả huấn luyện.


20
- Trình độ thực hành của VĐV Cờ vua là khả năng thích ứng của cơ thể với
lượng vận động tâm lý mà biểu hiện chủ yếu bằng năng lực tư duy cao và có thành

tích thi đấu khả quan trong mỗi giai đoạn đào tạo.
- Việc nghiên cứu, đánh giá TĐTL VĐV Cờ vua nói chung và VĐV Cờ vua
lứa tuổi 9 - 10 nói riêng phải được tiến hành trên quan điểm nghiên cứu mang tính
tổng hợp, tồn diện theo tất cả các thành tố cấu thành của nó dưới góc độ sư phạm
là chính.


21
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu nêu trên trong q trình nghiên cứu của
đề tài chúng tơi sử dụng các phương pháp sau:
2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Việc sử dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu là phục vụ chủ
yếu cho việc hình thành cơ sở lý luận của đề tài, từ đó định hướng cho các bước
nghiên cứu thực tiễn tiếp theo. Khi sử dụng phương pháp này qua nghiên cứu tổng
hợp các nguồn tài nguyên khác nhau để tìm ra các luận cứ khoa học phù hợp thực
tiễn, kết quả nghiên cứu của phương pháp này là hình thành cơ sở lý luận về đánh
giá trình độ thực hành cho VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi đã phân tích và tổng hợp trên 20 tài
liệu có liên quan. Các tài liệu tham khảo được chúng tơi trình bày tại phần “Danh
mục tài liệu tham khảo”.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn toạ đàm
Là phương pháp được chúng tôi sử dụng trong quá trình điều tra thực trạng
và sử dụng phương tiện phương pháp đánh giá trình độ tập luyện nói chung và trình
độ thực hành nói riêng cho VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc. Mặt khác
thơng qua hình thức dùng phiếu phỏng vấn chúng tơi có thêm cơ sở thực tiễn để lựa
chọn các test nghiên cứu ứng dụng trong quá trình nghiên cứu.
2.1.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Là phương pháp được chúng tôi sử dụng thơng qua các test nhằm đánh giá

trình độ thực hành của đối tượng nghiên cứu ở thời điểm xác định. Q trình kiểm
tra sư phạm được chúng tơi mô tả cụ thể ở phần giải quyết mục tiêu 2 của đề tài.
Đồng thời kết quả của việc sử dụng các phương pháp này cũng chính là việc giải
quyết mục tiêu 2 mà đề tài đã xác định.


22
2.1.4. Phương pháp toán học thống kê
Là phương pháp được chúng tơi sử dụng trong q trình xử lý số liệu đã thu
thập được trong quá trình nghiên cứu, các tham số đặc trưng mà chúng tôi quan tâm
là:
- Số trung bình cộng:
n

X =

∑x
i =1

i

n

- Độ lệch chuẩn:

σ=

n

∑(x


i

i =1

− x) 2

Với n < 30

- So sánh hai số trung bình bằng chỉ số t (Student)
t=

Với σ

2
C

xA − xB

σ c2 σ c2
+
n A nB

∑ (x − x
=

A

)2 + ∑ (x − x B )2


n A + nB − 2

Trong đó: x A : Số trung bình cộng của nhóm 1
x B : Số trung bình cộng của nhóm 2

- Hệ số tương quan cấp (r) của Brave-pison
r=

∑ ( x − x )( y − y )
∑ ( x − x) ∑ ( y − y)
i

i

2

i

2

i

- Thang điểm theo thang độ C (thang điểm 10).
C = 5 + 2Z trong đó Z =

xi − x
δ


23

Kết quả sử dụng các tham số đặc trưng trên chúng tơi trình bày trong chương
3 của đề tài.
2.2. Tổ chức nghiên cứu
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu từ tháng 03/2010 đến tháng 06 /2011 và được
chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 03/2010 đến tháng 04/2010: Xác định vấn đề nghiên
cứu, lập đề cương và bảo vệ đề cương.
- Giai đoạn 2: Từ tháng 05/2010 đến tháng 04/2011: Thu thập tài liệu liên
quan đến đề tài, giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 05/2011 đến tháng 06/2011: Viết hoàn thiện đề tài,
bảo vệ luận văn trước hội đồng khoa học.
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu
- Trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
- Trung tâm TDTT và trường năng khiếu TDTT tỉnh Vĩnh Phúc


24
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Nghiên cứu lựa chọn test đánh giá trình độ thực hành cho VĐV Cờ vua
lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ thực trạng hiện tại việc đánh giá trình độ thực hành của VĐV
Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay chỉ thơng qua kết quả thi đấu các
giải tồn tỉnh và giải quốc gia, do vậy đề tài tiến hành lựa chọn các test đánh giá
trình độ thực hành cho VĐV Cờ vua lứa tuổi 9 - 10 tỉnh Vĩnh Phúc theo các bước sau:
- Phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan;
- Phỏng vấn các giáo viên, HLV Cờ vua ;
- Xác định tính thơng báo của các test trên đối tượng nghiên cứu.
3.1.1. Cơ sở thực tiễn của việc lựa chọn các test đánh giá trình độ thực

hành của VĐV Cờ vua.
Thông qua việc tham khảo các tài liệu chun mơn, các cơng trình nghiên
cứu, chúng tơi đã xác định được 11 chỉ tiêu, test sử dụng để đánh giá trình độ thực
hành (dưới góc độ sư phạm) của VĐV Cờ vua, bao gồm:
1. Phân tích đánh giá lập kế hoạch (đ).
2. Trí nhớ thực hành (đ).
3. Khai cuộc (đ).
4. Địn phối hợp (đ).
5. Kỹ năng tính toán (đ).
6. Chiến thuật (đ).
7. Chiến lược (đ).
8. Tàn cuộc (đ).
9. Thi đấu ván cờ tích cực (đ).
10. Xử lý ưu thế (đ).
11. Thi đấu Blid (đ).


25

Với mục đích lựa chọn các test ứng dụng nhằm đánh giá trình độ thực hành
của VĐV Cờ vua, phù hợp với các điều kiện thực tiễn của địa phương, chúng tôi đã
tiến hành điều tra thực tiễn các test thường được áp dụng trong việc đánh giá trình
độ thực hành của VĐV Cờ vua.
Đối tượng phỏng vấn của chúng tôi là 20 HLV, giáo viên của các trung tâm
Cờ vua mạnh như: Hà Nội, Quân đội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Phịng, Bắc
Giang… những người trực tiếp làm cơng tác đào tạo VĐV năng khiếu Cờ vua trẻ.
Kết quả phỏng vấn thực tiễn việc đánh giá trình độ thực hành của VĐV trong
quá trình giảng dạy - huấn luyện cờ vua tại các trung tâm trên, được chúng tôi trình
bày ở bảng 3.1.



×