Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

Luận văn: Quan hệ giữa cộng hòa nhân dân Trung Hoa và cộng hòa Ấn Độ từ năm 1991 - 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.05 KB, 169 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐÀO THỊ HUYỀN
QUAN HÖ GI÷A CéNG HßA NH¢N D¢N TRUNG HOA
Vµ CéNG HßA ÊN §é Tõ N¡M 1991 §ÕN N¡M 2014
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.03.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Văn Ngọc Thành
Hà Nội - 2015
2
BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT
APEC: Asia- Pacific Economic Cooperation (Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương)
ARF: ASEAN Regional Forum (Diễn đàn an ninh khu vực)
ASEAN: Association of South- East Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á)
ASEM: Asia - Europe Meeting (Hội nghị Á - Âu)
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
BCIM Nhóm các nước Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Mianmar
BRICS Nhóm các nước Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc
EU: Europan Union (Liên minh châu Âu)
FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT: General agreement on Tarifs and Trade
(Thỏa hiệp chung về thuế quan và mậu dịch)
GDP: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
G.8: Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới và Nga
IMF: International Monntary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)
LAC: Giới tuyến kiểm soát biên giới thực tế Trung - Ấn
LHQ: Liên Hợp Quốc


NAFTA: North American Free Trade agreement
(Khu vực tự do thương mại Bắc Mỹ)
OPEC: Organization of Petroleum exporting Countries
(Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa)
SCO: Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
TLTKĐB: Tài liệu tham khảo đặc biệt
TTXVN: Thông tấn xã Việt Nam
WB: World Bank (Ngân hàng thế giới)
WTO: World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
Trang 1
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3.2.Phạm vi nghiên cứu 6
4.Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 6
5.Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 7
5.1.Nguồn tài liệu 7
5.2.Phương pháp nghiên cứu 8
6.Đóng góp của đề tài 8
1.1.2.2. Giai đoạn từ 1962 đến cuối thập niên 80 18
1.2. Nhân tố quốc tế 23
1.2.1. Sự chuyển biến của môi trường khu vực và quốc tế sau Chiến tranh lạnh 23
Casơmia vừa là nhân tố bên ngoài vừa là nhân tố bên trong có ảnh hưởng lớn tới quan hệ
Trung Ấn. Casơmia là vùng tranh chấp từ lâu chủ yếu giữa Ấn Độ và Pakistan. Lãnh thổ
Casơmia trở thành điểm nóng khi Ấn Độ và Pakistan được tự trị vào tháng 8 - 1947.
Theo kế hoạch chia cắt lãnh thổ trong Luật Độc lập Ấn Độ năm 1947, Casơmia được tự
do lựa chọn hoặc sáp nhập vào lãnh thổ Ấn Độ hoặc Pakistan. Sau một cuộc trưng cầu

dân ý, Casơmia được sáp nhập vào lãnh thổ Ấn Độ. Islamabad lại cho rằng Casơmia
đáng lẽ phải thuộc về Pakistan vì người Hồi giáo chiếm đa số ở Casơmia. Pakistan cũng
cho rằng sau một loạt nghị quyết của Liên Hợp Quốc về vấn đề Casơmia, người dân ở
đây cần được bỏ phiếu để quyết định tương lai chính trị của họ. Tuy nhiên, Ấn Độ
không chấp nhận và đã đưa nhiều dẫn chứng khẳng định việc sáp nhập Casơmia vào Ấn
Độ là phù hợp. Kể từ đó, Casơmia trở thành một điểm nóng với hai cuộc chiến tranh lớn
giữa Ấn Độ và Pakistan vào năm 1947 - 1948 và năm 1965. Sau cuộc chiến tranh đầu
tiên kết thúc, một đường ranh giới đã được dựng lên chia cắt Casơmia thành hai vùng:
Casơmia - Ấn Độ, Casơmia - Pakistan. Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong vấn đề
Casơmia bởi vì dân số ở vùng đất này chủ yếu là người Hồi giáo (60% dân số, là bang
có đông người Hồi giáo nhất ở Ấn Độ). Hơn 60 năm qua, Quan hệ Pakistan và Ấn Độ
luôn ở trong tình trạng thù địch. Sự thù địch này bắt nguồn từ nguyên nhân tôn giáo và
lịch sử, leo thang thành một cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm. Cuộc tranh chấp này
càng phức tạp hơn khi có thêm những thế lực bên ngoài tham gia. Trung Quốc không chỉ
chiếm 5.180 km2 ở Casơmia sau khi được Pakistan nhượng lại từ năm 1963, mà còn hậu
thuẫn cho chính quyền Islamabad trong thế đối trọng với Niu Đê li. Sự hậu thuẫn này là
một trong những nguyên nhân khiến cho vấn đề Casơmia trở nên phức tạp. Việc tìm
kiếm một giải pháp hòa bình cho vùng đất bạo lực này không thể thiếu sự tham gia của
Trung Quốc. Có thể thấy, vấn đề Casơmia là một nhân tố quan trọng chi phối quan hệ
Trung - Ấn hiện nay 29
1.2.2. Sự tác động của xu hướng toàn cầu hoá 31
1.3.1. Ấn Độ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc 36
Tiểu kết chương 1 49
Như vậy, quan hệ Trung - Ấn là mối quan hệ giữa hai cường quốc láng giềng đang trỗi
dậy. Vì thế, quan hệ này chịu nhiều tác động từ những chuyển biến mạnh mẽ của hoàn
cảnh quốc tế như: toàn cầu hóa, khu vực hóa; cách mạng khoa học - công nghệ; nhân tố
các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU, Nga và Pakixtan và tác động của những nhân tố
bên trong như: vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh thổ; vấn đề Casơmia Trong số đó thì
những nhân tố bên trong, đặc biệt là những vấn đề lịch sử, luôn có tính quyết định nhất
đối với mối quan hệ đặc biệt này. Những nhân tố bên ngoài cũng hết sức quan trọng. Sự

tương tác giữa những nhân tố đó sẽ tạo ra những thuận lợi hoặc thách thức và quyết định
đến chiều hướng phát triển của quan hệ Trung - Ấn trong tương lai. Do đó, quan hệ
Trung - Ấn vừa phát triển tích cực để tạo môi trường thuận lợi giải quyết tranh chấp,
tránh sự lợi dụng của bên ngoài, vừa cạnh tranh để chiếm lợi thế trong việc giải quyết
tranh chấp. Điều này giải thích vì sao cả hai nước luôn nỗ lực cải thiện quan hệ, gia tăng
ảnh hưởng với các quốc gia trong khu vực. Đây vừa là cơ hội thuận lợi to lớn để các
quốc gia trong khu vực tăng cường quan hệ sâu rộng hơn với cả hai bên, vừa là thách
thức không nhỏ khi phải luôn tìm cách né tranh những nhân tố rủi ro của mối quan hệ
này 49
Quan hệ chính trị - ngoại giao Ấn Độ - Trung Quốc trong nhiều thập kỷ vẫn
bị hạn chế bởi tâm lý nghi ngờ lẫn nhau xuất phát từ cuộc Chiến tranh biên
giới Trung - Ấn năm 1962. Chiến tranh lạnh kết thúc, “Chính sách hướng
Đông” của Ấn Độ đã giao thoa với chính sách mở cửa của Trung Quốc làm
cho quan hệ giữa “con rồng” và “con voi” ngày càng được cải thiện và xúc
tiến mạnh mẽ trên hầu hết các lĩnh vực. Quan hệ chính tri - ngoại giao Trung
Quốc và Ấn Độ dựa trên các cơ sở chủ yếu sau: 51
2.1.2.Các hoạt động cụ thể 52
Sự kiện đánh dấu mở đầu quan hệ giữa hai nước trên lĩnh vực chính trị- ngoại
giao là vào tháng 11/1991 Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm Ấn Độ
sau gần 30 năm kể từ cuộc chiến tranh biên giới, mở ra một chương mới trong
quan hệ giữa hai nước. Chính Thủ tướng N. Rao cũng đã đánh giá cao chuyến
thăm Ấn Độ của Thủ tướng Lý Bằng, coi đây sẽ là “cột mốc” trong sự phát
triển của tình hữu nghị giữa hai nước và đánh giá đây là chuyến thăm “bổ ích
nhất” và “hai nước đã có những bước đi đúng hướng” [ 27, tr 173]. Cũng một
2
phần nhờ cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ đã cắt giảm chi phí quân
sự từ 9,6 tỷ USD năm 1987 xuống khoảng 7,1 tỷ USD 1991 - 1992. Đồng
thời, tỷ lệ chi phí quân sự trong ngân sách cũng giảm từ 20% xuống còn 16%
[27, tr.173]. Trung Quốc cũng có cơ hội tốt hơn để phát triển thương mại với
quốc gia rộng lớn này 52

2.2.Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại 62
Trung Quốc và Ấn Độ đã chọn hai mô hình phát triển khác nhau, nên con
đường phát triển kinh tế cũng không giống nhau. Mô hình phát triển của
Trung Quốc là “hội nhập với việc thu hút mạnh FDI, tiếp nhận chuyển giao
công nghệ nước ngoài, tận dụng nhân công giá rẻ để sản xuất và xuất khẩu,
dần dần đi lên bằng nguôn vốn và công nghệ tích lũy được”[33, tr.11]. Trong
khi đó, Ấn Độ lại chọn hướng phát triển công nghệ tối ưu, đi lên chủ yếu bằng
nội lực và chất xám. Ấn Độ chọn hướng “đi tắt, đón đầu” để trở thành nền
kinh tế tri thức với mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ thế giới. Mặc dù
con đường phát triển của hai nước khác nhau, nhưng với “Chính sách hướng
Đông” của Ấn Độ bắt nhịp với “Chính sách mở của” của Trung Quốc nên hai
nước đã có điều kiện thuận lợi để hợp tác phát triển 62
2.2.1. Về hợp tác thương mại 65
Ấn Độ và Trung quốc là hai nước được đánh giá là động lực cho sự tăng
trưởng kinh tế toàn cầu cũng như làm thay đổi diện mạo kinh tế thế giới.
Không có quốc gia đang phát triển nào như Ấn Độ và Trung Quốc lại có tốc
độ tăng trưởng ấn tượng như vậy. Hai nước đã tìm thấy lợi ích qua chính sách
mở cửa mà trao đổi thương mại là con đường ngắn nhất để đến với nhau.
Trung Quốc đã phấn đấu và hiện nay trở thành đối tác thương mại lớn nhất
của Ấn Độ. Ấn Độ cũng đạt mục tiêu vươn lên thành bạn hàng thứ sáu (hiện
nay là thứ 10) của Trung Quốc trong thời gian tới [130, tr.7]. Quan hệ giữa
Trung Quốc và Ấn Độ có không gian phát triển rất lớn, triển vọng tươi sáng.
3
Nếu hai nước có thể hợp tác với tốc độ nhanh nhất thì điều này không chỉ có
nghĩa là sự bắt đầu vươn lên của thế kỷ châu Á, mà có thể trở thành động lực
thúc đẩy sự phát triển của thế giới 65
2.3.Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng 79
Kể từ sau Chiến tranh lạnh, với việc điều chỉnh chính sách đối ngoại nhất là
“Chính sách hướng Đông”, không gian an ninh của Ấn Độ được mở rộng
“môi trường an ninh của Ấn Độ trải dài từ Vùng Vịnh tới eo biển Malacca ở

phía Tây, Đông và Nam Trung Á, ở phía Bắc, Trung Quốc, ở phía Đông Bắc
và Đông Nam Á”. Còn Trung Quốc với chính sách cải cách và mở cửa với
chiến lược ngoại giao láng giềng cả hai đã giao thoa cùng nhau tạo nên những
mối quan hệ hợp tác rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực 79
Từ ngày 11 đến 16/ 12/1991, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đến thăm Ấn
Độ. Hai bên đã bàn về vấn đề biên giới, hai bên tỏ ra thông cảm về lập trường
của nhau, nhất trí giữ yên tĩnh vùng biên giới, không để nó cản trở quan hệ
giữa hai nước, thỏa thuận giải quyết vấn đề Kashmir. Trung Quốc lần đầu tiên
ủng hộ quan điểm của Ấn Độ và Pakixtan cần giải quyết thương lượng song
phương. Ấn Độ cũng ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Tạng, không
để người Tạng ở Ấn Độ hoạt động chống phá Trung Quốc [49,tr.5] 79
Trên cơ sở những điều kiện thuận lợi bước đầu đó, hai nước tiến thêm một
bước mới trong hợp tác an ninh quốc phòng. Đó là sự kiện tháng 9/1993, nhân
chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng N. Rao, hai bên đã ký Hiệp ước duy
trì hòa bình và yên tĩnh dọc biên giới kiểm soát thực tế của LAC vào ngày
7/9/1993. Bản Hiệp định này đánh dấu việc đưa ra biện pháp bình thường hóa
biên giới, điều này tạo điều kiện giảm bớt quân đội và chi phí quốc phòng cho
cả hai bên ở biên giới để tập trung nguồn lực phát triển kinh tế, đánh dấu
bước cải thiện đáng kể trong quan hệ an ninh giữa hai nước. Tuy nhiên, với
4
năm vụ thử hạt nhân của Ấn Độ từ ngày 11 đến 13/5/1998 tại sa mạc Hian đã
làm cho quan hệ hai nước chững lại 79
Từ năm 1999 trở đi, với việc quan hệ hai nước một lần nữa trở lại tốt đẹp hơn
thì quan hệ an ninh - quốc phòng cũng có những bước tiến đáng kể. Trên cơ
sở đó, ngày 23/10/2003, Ấn Độ và Trung Quốc bắt đầu các cuộc tọa đàm có
tính chất bước ngoặt, nỗ lực giải quyết tranh chấp biên giới vốn khúc mắc từ
lâu [78, tr.3]. Kế hoạch này nằm trong chiến lược hướng Đông của Ấn Độ và
chiến lược ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Mối quan hệ an ninh -
quốc phòng giữa Ấn Độ và Trung Quốc được tăng cường và thể hiện rõ nhất
trong thực tế, đó là ngày 14/11/2003, lần đầu tiên hải quân hai nước Trung

Quốc - Ấn Độ đã tổ chức cuộc diễn tập chung trên biển [80, tr.1]. Hai nước
đều có vũ khí hạt nhân và thù địch với nhau trong một thời gian dài, do vậy
cuộc diễn tập chung này, cho dù nội dung diễn tập không có gì đặc biệt,
nhưng là cái mốc quan trọng đánh dấu quan hệ hai nước đã ấm lên rất nhiều.
Sự cải thiện quan hệ Trung - Ấn, nhất là thông qua cải thiện hợp tác quân sự,
chứng tỏ Trung Quốc có bước điều chỉnh lớn nhằm làm cân bằng hơn trong
quan hệ với hai nước láng giềng là Ấn Độ và Pakixtan, từ đó mục tiêu mà
Trung Quốc vẫn luôn nêu ra là duy trì một trường hoà bình, ổn định xung
quanh, có lợi cho công cuộc xây dựng kinh tế ở trong nước. Đó cũng là chiến
lược đối ngoại mới của Trung Quốc trong thế kỷ XXI này. Từ năm 2006 trở
đi, hầu như năm nào hai nước cũng tổ chức những cuộc tập trận chung 80
Về đoạn phía Đông: 89
2.5. Trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục, khoa học - kỹ thuật 98
3.1.2.Hạn chế 110
43.TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, (29/3/1959), “Thông cáo tin tức của Tân Hoa Xã
về vụ phiến loạn ở Tây Tạng” 137
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu thế kỷ XIX được đánh giá là thế kỷ phát triển của nước Anh, thế
kỷ XX là thế kỷ của Mỹ thì thế kỷ XXI được xem là "thế kỷ châu Á" với sự
nổi lên của hai trung tâm lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. “Con rồng” và “con
voi” này với vị trí chiến lược quan trọng, với tiềm lực kinh tế và quân sự to
lớn, đang ngày càng tỏ rõ là hai cường quốc có ảnh hưởng sâu rộng ở châu Á
- Thái Bình Dương cũng như trên trường quốc tế. Những thành tựu to lớn
trong công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế và những đặc trưng trong quá
trình lựa chọn con đường phát triển của mình, đang đưa Trung Quốc và Ấn
Độ trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở
khắp các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nhìn lại sự phát triển của lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ hơn sáu mươi năm

qua cho thấy, những chính sách và bước đi nhằm thúc đẩy quan hệ song phương
là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của cả hai
nước. Do vậy, tìm hiểu về mối quan hệ Trung - Ấn cũng là tìm hiểu một nội
dung quan trọng của lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh đến
nay. Đó cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay.
Diễn tiến tốt đẹp của mối quan hệ Trung - Ấn có tác động tích cực rất
lớn tới quan hệ quốc tế, đến hoà bình, ổn định ở châu Á và trên toàn thế giới.
Ngược lại, nếu quan hệ căng thẳng, phức tạp dẫn đến cuộc chiến tranh có thể
nổ ra sẽ tạo nên sự bất ổn lớn với an ninh khu vực. Vì vậy, nghiên cứu quan
hệ Trung - Ấn là cần thiết không chỉ với bản thân hai nước, mà còn với nhiều
nước khác trong khu vực và trên thế giới. Đó là vấn đề có ý nghĩa khá lớn đối
với việc xác định chiến lược của nhiều quốc gia trong khu vực.
Mối quan hệ Trung - Ấn là một ví dụ, một sự khảo nghiệm điển hình
đối với khái niệm “cùng tồn tại hoà bình” giữa các nước có thể chế chính trị
1
hoàn toàn khác nhau, hơn nữa lại là hai nước láng giềng. Nghiên cứu vấn đề
này còn có ý nghĩa thực tiễn đối với Việt Nam trong quan hệ quốc tế và xu
hướng toàn cầu hóa hiện nay.
Quan hệ Trung - Ấn đã trải qua những bước thăng trầm đầy biến động.
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, quan hệ hai nước tưởng chừng như sẽ trở
thành một mẫu mực của quan hệ láng giềng tốt đẹp, nhưng cuộc chiến tranh
biên giới năm 1962 đã phá tan tình hữu nghị đó và hai nước bước vào thời kỳ
căng thẳng suốt những năm cuộc Chiến tranh lạnh nổ ra.
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, quan hệ Trung - Ấn đã và
đang có những bước cải thiện rõ rệt, nhanh chóng, và trở thành vấn đề thời
sự nóng bỏng thu hút sự quan tâm của tất cả các nước trong khu vực và dư
luận quốc tế. Với những ký ức còn sống động về những bước chuyển
ngược chiều của quan hệ Trung - Ấn trong quá khứ, người ta có lý do để
thận trọng và chắc chắn hơn trước những diễn tiến đang xảy ra, đặc biệt khi
dự báo về những triển vọng của mối quan hệ này trong tương lai. Điều đó

càng thu hút sự quan tâm của chúng tôi khi nghiên cứu vấn đề này.
Tìm hiểu về quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh về động cơ,
phương pháp, bước đi có thể rút ra nhiều điều bổ ích, thậm chí có thể tìm
hiểu rõ hơn một số điểm có tính quy luật hoặc phản ánh bản chất của các
nhà nước châu Á. Đặc biệt, nó còn có vai trò quan trọng đối với cục diện
chính trị khu vực và những lợi ích cơ bản của nước ta. Nhất là trong khi
Việt Nam đang cố gắng làm bạn với tất cả các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Một lý do nữa cũng rất thu hút sự quan tâm nghiên cứu của bản thân về
đề tài này, đó là trong quan hệ Trung - Ấn, hợp tác luôn đi kèm với cạnh
tranh. Các mối quan hệ song phương luôn song tồn, đan xen giữa lợi ích và
2
mâu thuẫn, nhưng lợi ích bao giờ cũng được đặt lên trên hết và trước hết.
Vì vậy, dù còn tồn tại nhiều bất đồng do lịch sử để lại nhưng hai nước luôn
khéo léo làm dịu nó đi, tận dụng hoà bình để gặt hái những thành tựu do
hợp tác đưa lại. Đó cũng là sự thể hiện rất rõ bản chất của các mối quan hệ
quốc tế hiện nay.
Vì những lý do khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn đề tài
“Quan hệ giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Ấn Độ từ
năm 1991 đến năm 2014” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ là hai nước láng giềng lớn, hai nền
kinh tế lớn ở châu Á mà còn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trên
trường quốc tế. Mối quan hệ của hai quốc gia này không chỉ là sự thể hiện
của mối quan hệ láng giềng thân thiện mà còn là sự khảo nghiệm của tình
hữu nghị giữa hai nước có hai nền kinh tế và hai thể chế chính trị hoàn toàn
khác nhau. Mối quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh đến nay đã
thu hút khá nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước, đặc biệt là của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy
nhiên, do hạn chế về thời gian và khả năng, chúng tôi chỉ mới tiếp cận chủ

yếu được với những công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt được đăng tải
trên các sách, báo, tạp chí với dung lượng lớn, nhỏ khác nhau. Có thể kể ra
đây một số công trình chính sau:
* Cuốn “Sự điêu chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến
2000” của các tác giả: Trần Thị Lý, Nguyễn Huy Hoàng, Bùi Minh Sơn, Đỗ
Đức Định, Nguyễn Công Khanh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002. Trong
đó, các tác giả đề cập đến những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến' sự điều chỉnh
chính sách của Cộng hoà Ấn Độ; chương trình cải cách kinh tế; sự điều chỉnh
3
chính sách đối ngoại và những thành tựu sau 10 năm điều chỉnh chính sách.
Đặc biệt trong phần “Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại”, tác giả đã trình bày
một cách khái quát về chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Trung Quốc từ
1991 đến 2001.
* Năm 2000, tác giả Hồ Châu có bài viết với nhan đề: “50 năm quan
hệ Trung - Ấn” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 6. Bài viết đã
đề cập đến những nét cơ bản trong lịch sử quan hệ Trung - Ấn trong nửa thế
kỷ XX, một số bài học kinh nghiệm và triển vọng phát triển của mối quan hệ
này.
* Năm 2004, tác giả Phan Văn Rân có đăng bài: “Tam giác chiến
lược Nga - Trung - Ấn và những trở ngại trong việc hiện thực hoá ý tưởng
trên” trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1. Trong bài viết tác giả đã
đưa ra điều kiện khách quan cho việc thiết lập tam giác chiến lược Nga -
Trung - Ấn, những khó khăn và dự báo triển vọng quan hệ Trung - Ấn
trong thập kỷ tới.
* Năm 2005, tác giả Nguyễn Huy Quý có bài viết: “Quan hệ Trung -
Ấn chuyển sang giai đoạn mới” trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5.
Trong đó tác giả đề cập đến sự chuyển hướng của quan hệ Trung - Ấn diễn
ra trong bối cảnh khu vực và tình hình quốc tế, và những “khởi điểm mới”
của quan hệ Trung - Ấn sau chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Trung
Quốc Ôn Gia Bảo. Đặc biệt tác giả đưa ra một số nhận xét về sự ảnh hưởng

của mối quan hệ Trung - Ấn tới tình hình khu vực và quốc tế.
* Trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 - năm 2006, tác giả Võ
Xuân Vinh có bài: " Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc từ sau Chiến tranh lạnh
đến nay”. Qua bài viết, tác giả đã trình bày một cách khái quát các nhân tố
tác động, hiện trạng và một số kết quả đạt được trong quan hệ Trung - Ấn
từ sau Chiến tranh lạnh đến 2006.
4
* Trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 2 - tháng 6 năm 2006 có đăng
bài của tác giả Đặng Bảo Châu với nhan đề: “Liệu Ấn Độ có vượt qua
Trung Quốc?” Trong bài viết này, tác giả đã phân tích khá kỹ về tiềm năng
và sức mạnh của “con rồng” và “con voi” châu Á, cũng như dự báo về khả
năng phát triển kinh tế của hai “người khổng lồ” ở châu Á trong thời gian
tới.
* Năm 2006, tác giả Trần Văn Tùng có bài viết với nhan đề: “Con
đường phát triển kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ” trên tạp chí Cộng sản,
số 13 - tháng 7. Bài viết đã phân tích chính sách, con đường phát triển kinh
tế của Trung Quốc và Ấn Độ trong thời gian qua. Qua đó tác giả đưa ra
những so sánh, đánh giá và dự báo vị trí của hai nước trên bản đồ thế giới
trong thời gian tới.
* Tại thư viện trường Đại học Vinh có lưu trữ luận văn Thạc sĩ của tác
giả Trịnh Thị Dung với đề tài “Quan hệ giữa CHND Trung Hoa và CH Ấn
Độ từ sau Chiến tranh lạnh đến năm 2006’’ - Vinh, năm 2007. Trong công
trình của mình, tác giả đã trình bày những quan hệ Trung - Ấn trên các lĩnh
vực từ 1991 đến 2006, nêu thực trạng cũng như dự đoán triển vọng của mối
quan hệ Trung - Ấn.
Viết về mối quan hệ Trung - Ấn không thể không nhắc đến nguồn tài
liệu Tham khảo đặc biệt của TTXVN được đăng tải thường xuyên và cập
nhật Đây là nguồn tư liệu mang nhiều thông tin quan trọng và có tính thời
sự rất cao.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến

những khía cạnh khác nhau và có liên quan trực tiếp đến vấn đề mà chúng tôi
nghiên cứu. Đó chính là nguồn tư liệu quý giá, bổ ích cho chúng tôi khi vận
dụng để tiến hành thực hiện đề tài này.
Tuy vậy, theo chúng tôi cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một công
5
trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về mối quan
hệ Trung - Ấn. Thực hiện đề tài này tác giả mong muốn góp phần nhỏ vào
việc tìm hiểu một cách đầy đủ hơn, hệ thống hơn về mối quan hệ Trung Quốc
- Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh đến 2014. Từ đó đưa ra một số phân tích về
đặc điểm và tính chất của mối quan hệ Trung - Ấn và mạnh dạn đưa ra một
số nhận định của bản thân về mối quan hệ Trung - Ấn trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Đối tượng mà đề tài nghiên cứu là mối quan hệ của
Trung Quốc và Ấn Độ từ 1991 đến 2014, trong đó trọng tâm là phân tích sự
hợp tác của hai nước trên các lĩnh vực và một số kết quả đạt được, từ đó đưa
ra một vài nhận định về đặc điểm và tính chất của mối quan hệ này trong
tương lai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về mặt thời gian: Đề tài được giới hạn chủ yếu trong khoảng thời
gian từ sau Chiến tranh lanh 1991 đến 2014.
* Về mặt nội dung: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về mối quan hệ
song phương trên một số lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, kinh tế - thương
mại, an ninh – quốc phòng, vấn đề biên giới, văn hóa – khoa học – giáo
dục trong phạm vi hai nước Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuy nhiên, do tính chất và nhiệm vụ của đề tài nên trong quá trình
nghiên cứu về mối quan hệ Trung - Ấn từ năm 1991 đến năm 2014, chúng
tôi không thể không tìm hiểu những nhân tố tác động và đưa ra một số
nhận xét về tính tích cực, hạn chế cũng như nhận định về tính chất, đặc
điểm của cặp quan hệ này.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

4.1. Mục đích: Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến mục tiêu
6
sau:
4.1.1. Nhằm làm rõ mối quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh
đến 2014 một cách có hệ thống, đi từ phân tích các nhân tố tác động đến mối
quan hệ, thực tiễn các mối quan hệ, hợp tác trên các lĩnh vực. Từ đó rút ra mặt
tích cực, hạn chế và một số kết quả đạt được cũng như tính chất, đặc điểm của
mối quan hệ này. Đồng thời chúng tôi muốn phân tích và làm rõ một số chính
sách và biện pháp mà Trung Quốc và Ấn Độ đã áp dụng trong mối quan hệ
song phương.
4.1.2. Nghiên cứu về mối quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh
đến 2014 nhằm góp phần tìm hiểu về chính sách đối nội, đối ngoại của Trung
Quốc và Ấn Độ từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay. Đó cũng là tìm
hiểu một phần nội dung quan trọng của lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ hiện
đại.
4.1.3. Thông qua việc tìm hiểu về quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến
tranh lạnh đến 2014, đề tài còn nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho việc giải
quyết những vấn đề khu vực và quốc gia như việc giải quyết vấn đề biên giới.
4.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích của đề tài, nhiệm vụ mà chúng
tôi phải thực hiện đó là: Sưu tầm, tập hợp các nguồn tư liệu, trên cơ sở đó
tổng hợp, phân tích, đánh giá các sự kiện nhằm xác minh và phân loại. Từ
đó đi sâu làm rõ những nhân tố tác động đến mối quan hệ Trung - Ấn, phân
tích một cách khách quan, khoa học những chủ trương, biện pháp mà hai
nước Trung - Ấn thực hiện trong quá trình hợp tác trên các lĩnh vực. Từ đó
đánh giá được những tích cực, hạn chế và một số kết quả đạt được trong
quan hệ từ sau Chiến tranh lạnh đến 2014. Đồng thời, tác giả đưa ra những
nhận xét về đặc điểm và tính chất của mối quan hệ Trung - Ấn.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
7

- Những nguồn tư liệu mang tính chất chung về lịch sử, kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội của Trung Quốc và Ấn Độ. Các công trình khoa học, đề
tài cấp bộ, luận văn lịch sử, luận văn quan hệ quốc tế có đề cập đến mối
quan hệ Trung - Ấn và những nguồn tư liệu về mối quan hệ Trung - Ấn
được lưu giữ tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc
tế.
- Các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí khoa học như: Nghiên cứu
Đông Nam Á, Tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên cứu Trung
Quốc Nguồn tài liệu Tham khảo đặc biệt của TTXVN trong những năm từ
1950 đến 2014, các bài viết của các tác giả Trung Quốc và Ấn Độ về mối
quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh đến nay
- Nguồn tư liệu khai thác từ internet
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với đặc thù của bộ môn khoa học lịch sử, cũng như yêu cầu của một đề
tài nghiên cứu khoa học, trong quá trình thực hiện đề tài này chúng tôi đã
sử dụng các phương pháp như: phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để dựng lại
bức tranh về mối quan hệ Trung - Ấn từ sau Chiến tranh lạnh đến 2014.
Ngoài ra, để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nước trên các mặt, các lĩnh
vực chúng tôi còn sử dụng các phương pháp như so sánh, đối chiếu, tổng
hợp
6. Đóng góp của đề tài
6.1.Trên cơ sở nguồn tài liệu thu thập được, luận văn sẽ khắc hoạ lại mối
quan hệ Trung - Ấn từ đầu thập niên 90 đến 2014 một cách có hệ thống, giúp
người đọc có cái nhìn tổng thể về thực tiễn mối quan hệ Trung - Ấn trong
khoảng thời gian này.
6.2. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã đi sâu phân tích bối
8
cảnh quốc tế và khu vực, về những nhân tố tác động đến mối quan hệ
Trung - Ấn. Từ đó có cái nhìn tổng quan về chính sách đối ngoại của Trung

Quốc và Ấn Độ từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến 2014.
6.3. Từ những kết quả đạt được trong công trình nghiên cứu, luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo về lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ từ
năm 1991 đến năm 2014. Đồng thời luận văn góp phần tìm hiểu một mảng
nhỏ của lịch sử quan hệ quốc tế, đặc biệt là mối quan hệ giữa các nước lớn
ở châu Á. Từ đó rút ra bài bài học cho Việt Nam trong bối cảnh “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới”.
7. Bố cục của luận văn.
Với đề tài này, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo,
Phụ lục, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Trung - Ấn từ sau
Chiến tranh lạnh.
Chương 2. Quan hệ Trung - Ấn trên các lĩnh vực từ 1991 đến 2014.
Chương 3. Một số nhận xét và đánh giá về mối quan hệ Trung - Ấn.
9
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG - ẤN
TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Nhân tố lịch sử
1.1.1. Quan hệ Trung - Ấn trong lịch sử đến trước khi đặt quan hệ
ngoại giao 1950
* Vài nét về Trung Quốc trước 1950
Trung Quốc là một nước lớn (với diện tích 9,6 triệu km
2
, dân số gần
1,367 tỷ người (2014)), có vị thế quan trọng trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và trên toàn thế giới.
Trung Quốc nằm ở phần nửa phía Bắc của Đông bán cầu, phía Đông
Nam của lục địa Á - Âu, phía Đông và giữa Châu Á, phía Tây của Thái
Bình Dương. Phía bắc có chung biên giới với Nga, Mông Cổ; phía Tây

giáp Kazacstan, Kirghistan, Taghistan; phía Tây Nam giáp Apsganistan,
Pakixtan, Ấn Độ, Nêpan, Butan; phía Nam giáp Lào, Mianma,Việt
Nam; phía Đông giáp Triều Tiên.
Ngoài phần đại lục, Trung Quốc còn có nhiều đảo, trong đó Đài Loan và
Hải Nam là hai đảo lớn nhất. Diện tích quá rộng lớn, tạo nên sự khác biệt rõ
rệt về địa hình, khí hậu và văn hóa. Trung Quốc là một quốc gia đa dân tộc
(56 dân tộc) với ngôn ngữ chính là tiếng Hán. Quốc gia này là một trong
những cái nôi của nền văn minh nhân loại với các nền văn minh cổ nổi tiếng.
Đây cũng là nơi sản sinh ra những con người vĩ đại, những triết gia nổi tiếng
mà tư tưởng của họ đến nay vẫn còn giá trị. Trung Quốc còn là nơi có nền
văn hóa phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và có ảnh hưởng
sâu rộng tới khu vực và thế giới.
Thời phong kiến, Trung Quốc là một quốc gia hùng mạnh vào bậc
nhất thế giới nhưng đến cuối thời Mãn Thanh thì đất nước này khủng
10
hoảng suy yếu và bị thực dân phương Tây xâu xé, phải đến năm 1911
với sự bùng nổ của Cách mạng Tân Hợi, ngai vàng của chế độ phong
kiến đã tồn tại trên 2000 năm ở Trung Quốc mới bị lật đổ. Sau đó, đất
nước lại bị các nước đế quốc, thực dân phương Tây xâm lược và đô hộ.
Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức được
thành lập, mở ra một kỷ nguyên mới- Trung Quốc tuyên bố phát triển theo
con đường XHCN. Đất nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
(thành lập tháng 7/1921) và đây là Đảng cầm quyền duy nhất ở Trung Quốc
lục địa.
Từ khi giành được độc lập, Trung Quốc luôn ý thức được vai trò và
tầm vóc của mình trên trường quốc tế. Mọi bước đi của Trung Quốc đều
nhằm vun đắp cho mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển đất nước cũng
như phát huy vai trò thế mạnh ra bên ngoài. Trung Quốc đã nhiều lần điều
chỉnh chiến lược và thay đổi bạn, thù. Chính sách của Trung Quốc đối với
các nước láng giềng tất nhiên cũng phải đựơc điều chỉnh cho phù hợp. Điều

đó thể hiện rõ nét trong quan hệ Trung - Ấn.
*Vài nét về Ấn Độ trước 1950
Ấn Độ là nước lớn thứ 2 ở châu Á, sau Trung Quốc. Diện tích Ấn Độ là
3.28 triệu km
2
, đứng hàng thứ bảy thế giới và dân số khoảng 1,277 tỷ người
(năm 2013), đứng thứ 2 thế giới.
Ấn Độ nằm ở khu vực Nam Á, có biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc,
Nepal, Butan; phía Đông giáp Bangladet, Miến Điện; Đông - Nam giáp
Vịnh Bengan; Tây - Nam giáp Ấn Độ Dương; Tây và Tây - Bắc giáp
Pakittan.
Ấn Độ là nước đa chủng tộc và dân tộc với nhiều thứ tiếng, trong đó
ngôn ngữ chính là tiếng Hin đu và tiếng Anh. Ấn Độ cũng là một cái nôi của
lịch sử văn minh nhân loại, là nơi sinh ra những nhà tư tưởng lớn, những vĩ
11
nhân của thời đại. Nền văn hoá bản sắc của Ấn Độ có sức sống mãnh liệt
và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội trong nước cũng như nhiều
nước khác trên thế giới. Người Ấn chủ yếu theo Ấn Độ giáo (chiếm khoảng
83% dân số), còn lại theo đạo Hồi, Cơ Đốc, đạo Phật
Cuối thế kỷ XV, người Bồ Đào Nha bắt đầu xâm nhập Ấn Độ và từ đầu
thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị người Mô gôn (gốc Mông cổ)
thống trị. Từ năm 1746 đến 1763, Ấn Độ trở thành nơi tranh chấp giữa Anh
và Pháp, kết quả Anh đã chiếm được Ấn Độ, trừ 5 thành phố ven biển
thuộc Pháp (mãi đến năm 1950 Pháp mới trao trả cho Ấn Độ).
Trong suốt thời gian bị thực dân Anh thống trị, nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh
đạo của Đảng Quốc Đại đã đứng lên đấu tranh đòi độc lập dân tộc và kết quả đã
buộc thực dân Anh phải trao trả độc lập cho nước này vào ngày 15/8/1947.
Ngày 26/1/1950 Ấn Độ tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Ấn Độ gồm
22 bang và 9 lãnh địa trực thuộc trung ương.
Ấn Độ là nước có nhiều đảng phái và tổ chức chính trị. Đảng Quốc Đại

thành lập năm 1885, Đảng BJP, Đảng Cộng sản Ấn Độ thành lập năm 1925
và đến năm 1964 thì tách thành hai Đảng là Đảng cộng sản Ấn Độ (CPI) và
Đảng Cộng sản Ấn Độ - Macxit (CPI - M), Đảng B.Janata - Đảng Nhân
dân hiện đang là đảng cầm quyền ở Ấn Độ.
Xuất phát từ tầm vóc và tiềm năng to lớn của mình, nước Ấn Độ độc lập
luôn có mục tiêu trở thành một nước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, có vai
trò quan trọng không chỉ ở khu vực, ở châu Á mà trên toàn thế giới.
Mục tiêu chiến lược này xuyên suốt đường lối đối nội cũng như đối
ngoại của Ấn Độ. Họ thực hiện mục tiêu này bằng những bước tiến đều đặn,
vững chắc như “bước đi của con voi”. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ luôn cương
quyết bảo vệ con đường đã chọn, coi các mục tiêu chiến lược của đất nước là
mục đích và tiêu chuẩn cao nhất của chính sách đối ngoại. Ấn Độ tin ở bản
12
chất của thế giới ngay cả trong những thập kỷ thế giới bị chia thành 2 phe đối
lập và đắm chìm trong bầu không khí Chiến tranh lạnh. Đó chính là thế giới
quan dựa trên nền tảng triết học truyền thống của Ấn Độ, là nguồn gốc của
chủ nghĩa nhân đạo, không bạo lực. Tư tưởng “Không bạo lực” đã cắm rễ sâu
trong con người Ấn Độ, trong các giáo điều tôn giáo, trong những di sản của
nhiều thời đại, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong suốt
quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước từ khi thành lập đến nay.
* Quan hệ Trung - Ấn trong lịch sử đến trước khỉ đặt quan hệ ngoại
giao 1950
Trung - Ấn là hai nước láng giềng gần gũi về địa lý, lại có nhiều điểm
tương đồng trong quá trình phát triển lịch sử, vì thế, ngay từ rất sớm hai nước
này đã xác lập được những mối quan hệ trên các lĩnh vực.
Về chính trị: là hai trung tâm của văn minh nhân loại và được xem như
những cái nôi của lịch sử loài người. Đến thời trung đại, sự hùng mạnh của
các nhà nước phong kiến của hai quốc gia này được coi là niềm tự hào của
sức mạnh châu Á.
Khi thực dân phương Tây vào xâm lược và thống trị, thì Trung và Ấn

lại trở thành những đồng minh luôn sát cánh, hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc
chiến chống kẻ thù chung, đấu tranh giành độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Hai bên đã ủng hộ nhau chống chính sách xâm lược của chủ nghĩa
thực dân và khi hai nước giành được độc lập dân tộc thì họ chính là những
người bạn đầu tiên công nhận chính quyền của nhau.
Sau khi giành được độc lập (Ấn Độ năm 1947 và Trung Quốc năm
1949), dù mỗi nước đã lựa chọn cho mình một con đường và hướng đi riêng,
nhưng mối quan hệ hợp tác song phương trong thời gian đầu là hết sức có
hiệu quả. Đó vừa là nhu cầu, vừa là nhận thức để củng cố và phát triển đất
nước, cũng như thực hiện được mục tiêu chiến lược của giai đoạn đầu sau khi
13
giành độc lập.
Về kinh tế: từ thời phong kiến, hai nước đã hình thành Con đường tơ
lụa, một đường giao thương quan trọng nối liền hai nước Trung - Ấn và từ
đó có thể đi nhiều trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Vào khoảng giữa thế
kỷ XVIII, quan hệ thương mại giữa hai nước đã phát triển thịnh đạt thông
qua con đường thích hợp với những con la, con lạc đà này. Chính Con
đường tơ lụa lịch sử đã thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và
Ấn Độ phát triển thịnh đạt từ rất sớm. Năm 1962, khi cuộc chiến tranh biên
giới giữa Trung - Ấn nổ ra thì Con đường tơ lụa này bị cấm hoạt động.
Đến năm 2006, nó mới được Chính phủ hai bên cho mở cửa hoạt động trở
lại và lại góp một phần không nhỏ vào việc nâng cao kim ngạch mậu dịch
thương mại song phương.
Về văn hoá, xã hội: Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có nền văn hoá
văn minh phát triển rực rỡ, nơi sản sinh ra những vĩ nhân của mọi thời đại,
những nhà tư tưởng kiệt xuất mà tư tưởng của họ trường tồn cùng nhân
loại. Tư tưởng nhân nghĩa trong đạo Khổng, hay lòng từ bi của đạo Phật
không chỉ ăn sâu trong tâm linh mỗi người trong mỗi nước mà nó còn có
sức lan toả tới nhiều nước trong khu vực, và như vậy cố nhiên hai trung
tâm của văn minh nhân loại này không thể không lan toả ảnh hưởng đến

nhau. Văn hoá truyền thống của Ấn Độ đã trở thành món ăn tinh thần của
nhiều người Trung Quốc và ngược lại. Mối liên hệ, trao đổi văn hoá, xã hội
của hai quốc gia này đã có từ thời cổ đại và nó đã tồn tại, phát triển tỷ lệ
thuận với sự thăng trầm trong quan hệ hai nước từ trước đến nay.
Có thể nói, mối liên hệ về kinh tế, chính trị, xã hội của hai nước Trung -
Ấn trong lịch sử đến trước khi đặt quan hệ ngoại giao (1950) tuy không mặn
mà như những quốc gia láng giềng ở khu vực Đông Nam Á, nhưng cũng đủ
14
để làm tiền đề cho một mối quan hệ láng giềng thân thiện, cùng có lợi về sau,
đặc biệt đây lại là hai quốc gia láng giềng rộng lớn không chỉ trong khu vực
mà sự lớn mạnh của nó mang tầm vóc thế giới.
1.1.2. Quan hệ Trung - Ấn từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến
hết Chiến tranh lạnh
1.1.2.1. Giai đoạn 1950 đến 1962
Ấn Độ giành độc lập năm 1947 và Trung Quốc được giải phóng năm 1949.
Hai nước lớn nhất châu Á này bắt đầu kỷ nguyên độc lập từ những điều kiện vật
chất hầu như tương đương, cùng phải đứng trước những vấn đề lớn về kinh tế
và xã hội. Gần 10 năm đầu sau khi giành độc lập (1950-1958) là “tuần trăng
mật” của quan hệ hai nước. Nhân dân hai nước cùng chung cảnh ngộ, vừa
thoát khỏi sự áp bức, nô dịch của đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc, bắt
đầu xây dựng cuộc sống mới. Tuy có truyền thống văn hóa và chế độ chính trị
khác nhau nhưng hai nước đều có mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc
và cùng với nhân dân thế giới tiếp tục đấu tranh chống CNĐQ thực dân.
Trên thế giới, giai đoạn này có nhiều chuyển biến phức tạp. Tư duy
Chiến tranh lạnh đã chi phối mọi quan hệ quốc tế. Thế giới chia làm hai phe
đối địch, CNXH đứng đầu là Liên Xô, CNTB do Mĩ cầm đầu. Mĩ đã phát
động cuộc Chiến tranh lạnh nhằm tiêu diệt Liên Xô và hệ thống XHCN và
làm bá chủ thế giới. Mỹ đã lập ra các liên minh quân sự thực hiện chiến
lược toàn cầu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, chống Liên Xô, bao vây và cô
lập Trung Quốc, đồng thời chống phá điên cuồng phong trào giải phóng

dân tộc.
Trước tình hình đó, cả Trung Quốc và Ấn Độ mới độc lập đều có yêu
cầu dựa vào Liên Xô, tập hợp lực lượng Á - Phi và thi hành chính sách
chống chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền, xây dựng kinh tế
15
và tăng cường vị trí, vai trò của mình trên trường quốc tế.
Trong những năm đầu sau giải phóng, sự hợp tác chặt chẽ với Liên Xô đã
đem lại cho cả Trung Quốc và Ấn Độ những lợi ích to lớn và thiết thực. Trong
những ngày tháng lịch sử ấy, cả hai cùng áp dụng chính sách láng giềng hữu
nghị, nên quan hệ hữu nghị thân thiện song phương đã đạt đến đỉnh cao.
Ngày 30/12/1949, Ấn Độ công nhận nước CHND Trung Hoa và thiết lập
quan hệ ngoại giao. Tháng 4/1950, hai nước Trung - Ấn thiết lập quan hệ
ngoại giao ở cấp Đại sứ. Ngay sau đó, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai
đã bày tỏ mong muốn giải quyết vấn đề Tây Tạng bằng thương lượng hoà
bình. Ấn Độ cam kết từ bỏ các đặc quyền ở Tây Tạng và sẽ công nhận Tây
Tạng là của Trung Quốc.
Từ 1950 đến 1959, Chu Ân Lai thăm Ấn Độ bốn lần, J.Nehru thăm
Trung Quốc một lần. Đỉnh cao của mối quan hệ hữu nghị được đánh dấu bằng
việc năm 1956 tại Băngdung, hai nước đã ghi nhận 5 nguyên tắc cùng tồn
tại hoà bình.
Sau hội nghị Bandung năm 1955, phong trào ở Á - Phi bắt đầu bị chia rẽ
dần, xu hướng không liên kết hình thành và phát triển trong các nước mới
giành độc lập, dẫn tới sự thành lập Phong trào Không liên kết năm 1961 mà
Ấn Độ là một trong những nước sáng lập và đóng vai trò to lớn trong quá
trình phát triển.
Trung Quốc nhờ sự giúp đỡ to lớn và hiệu quả của Liên Xô, nhờ tranh
thủ các nước láng giềng ở châu Á và bước đầu với các nước châu Phi, nhờ sử
dụng những chính sách phù hợp và sự nỗ lực của nhân dân trong nước đã đạt
những thành tựu khá to lớn về mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế và tăng cường
được uy tín trên trường quốc tế. Từ đó, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh

chiến lược. Về đối nội, Trung Quốc đề cao tinh thần “Ngu công dời núi” và
thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng”. Về đối ngoại, Trung Quốc cho
16
rằng, từ đây họ có thể có đủ sức để tự đi con đường riêng của mình. Trung
Quốc bắt đầu tách khỏi Liên Xô, giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa xét
lại (ám chỉ Liên Xô), chống hoà hoãn Xô - Mỹ và muốn chiếm vị trí lớn
hơn trong vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới.
Trái với Trung Quốc, Ấn Độ tiếp tục tăng cường mối quan hệ nhiều mặt
với Liên Xô, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô để đối phó sức ép của chủ
nghĩa đế quốc và giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong nước. Năm
1955, Thủ tướng J.Nehru thăm Liên Xô và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Khơrutxốp cũng chính thức sang thăm Ấn Độ. Liên Xô ủng hộ các mục tiêu
dân tộc cơ bản của Ấn Độ, trong đó mục tiêu chủ yếu là xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ. Liên Xô ủng hộ Ấn Độ trong vấn đề Casơmia, thỏa thuận
giúp Ấn Độ xây dựng những ngành công nghiệp nặng, then chốt mà trước
hết là ngành thép và cơ khí nặng sau khi Mỹ và phương Tây khước từ các
dự án công trình mà Ấn Độ đề nghị được giúp đỡ.
Đến cuối những năm 50 của thế kỷ XX, do tư tưởng nước lớn của
Trung Quốc đối lập với chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ, mầm mống của các
bất đồng cơ bản Trung - Ấn đã xuất hiện như vấn đề biên giới, vấn đề Tây
Tạng, vai trò trong phong trào Á - Phi những bất đồng đó đã dẫn đến tình
trạng căng thẳng kéo dài trong quan hệ Trung - Ấn.
Ngày 10/3/1959, ở thủ phủ Lasha (Tây Tạng) xảy ra phiến loạn của
một số phần tử quá khích, Trung Quốc đưa quân đội vào trấn áp và ngay
lập tức bị Ấn Độ phê phán là có hành động “can thiệp vũ trang” vào khu
vực này.
Ngày 31/3, Đatlai Latma (lãnh tụ tinh thần của Tây Tạng) trốn sang Ấn
Độ và được nước này bảo vệ. Trung Quốc đã có phản ứng kịch liệt với việc
này, làm quan hệ hai nước trở nên căng thẳng hơn. Đỉnh cao là những vụ
xung đột biên giới từ 1959 đến 1962.

17

×