Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng HCM để xây dựng đạo đức,lối sống cho sinh viên VN hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.52 KB, 12 trang )

Lời mở đầu
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vấn đề
xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía
về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người trong suốt cuộc đời đã thực hiện một
cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Rất nhiều
điều Bác nói về đạo đức đã qua hàng bốn, năm mươi năm hay lâu hơn nữa, nhưng
nay vẫn cịn nóng hổi tính thời sự. Bác nói về những trường hợp cụ thể cho những
đối tượng cụ thể song ai nghe cũng cảm nhận đó là lời dạy cho mình. Nhìn lại và
nhớ tới từng cử chỉ, từng hành động, từng lời nói và việc làm của Bác trong đời
sống thường ngày, lúc sinh thời ai mà khơng thấy xúc động? Ai mà khơng cảm
thấy có một cái gì đó khơng phải khi làm sai những điều Bác dạy. Trong giai đoạn
hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên và nhân ta đã luôn ghi nhớ và thực hiện lời dạy
của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà yếu
tố hàng đầu là nâng cao đạo đức cách mạng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng khẳng định: ”Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trị tiên phong, năng
động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức. “Đó là một trong những yếu tố quyết
định sự thành công của sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong hơn 20 năm qua, tuy
nhiên vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên mấy năm gần
đây đã trở thành điểm nóng khơng chỉ của ngành giáo dục mà cịn của toàn xã hội.
Các hành vi lệch lạc chuẩn mực về đạo đức trong học sinh, sinh viên ngày càng gia
tăng, Ở đâu là một hình mẫu lý tưởng cho tuổi học trò? Và làm thế nào để các em
học sinh, sinh viên định hình cho mình một phong cách sống phù hợp với chuẩn
mực lứa tuổi, Vì vậy, hiện nay những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo
đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày càng trở nên có ý nghĩa
hơn bao giờ hết. Trên nền tảng kiến thức đã được học tập, nghiên cứu trong học
phần tư tưởng Hồ Chí Minh nhóm đã chọn đã chọn đề tài :” Vận dụng những
chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng HCM để xây dựng đạo đức,lối sống cho
sinh viên VN hiện nay.’’ Bài thảo luận của nhóm có cấu trúc như sau :
Chương 1. Cơ sở lý luận.
Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đạo đức và lối sống của sinh viên.


Chương 3. Kết luận
1


Chương 1: Cơ sở lý luận
1.

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

Chủ tịch HCM đã để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó là tư tưởng của
Người, trong đó có hệ tư tưởng về đạo đức. Bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết
chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên người viết để huấn luyện
những người yêu nước VN trẻ tuổi (cuốn Đường Kách mệnh) vấn đề đầu tiên
người đề cập đến là tư cách của người cách mệnh.Tác phẩm sau cùng bàn sâu về
vấn để đạo đức được người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập đảng
(3/2/1969) đăng trên báo nhân dân_là bài nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân. Trong di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn
dặn:’’ Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ
Đảng viên’’.
Từ rất sớm, chủ tịch HCM đã khẳng định:’’ đạo đức là cái gốc của người cách
mạng’’. Theo HCM đạo đức cách mạng giúp con người vững vàng hơn trong mọi
thử thách , người viết “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
không rụt rè, lùi bước”, “khi thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phát, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hồn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không
quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hù hóa”1. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng,’’Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng’’2.

Vấn đề đạo đức được HCM đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo
đức với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội trên mọi lĩnh vực hoạt động,
trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người:
đối với mình, đối với người, đối với công việc.

2.Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
1 . Đạo đức cách mạng: tháng 12-1958, sđd, t.9, tr.283- 285
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.12, tr.558

2


a. Xác định đúng vị trí, vai trị của đạo đức cá nhân
Đạo đức hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc,
quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm,trách nhiệm , danh dự, hạnh
phúc,công bằng …được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con
người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội. Xuất
phát từ bản chất, con người ln có khát vọng hướng tới chân, thiện, mĩ để hoàn
thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện ,trước hết con người phải tự tu dưỡng
hồn thiện mình về đạo đức. Do vậy, đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo
nên giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hồn thiện mình về đạo đức.
Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ
tương lại của nước nhà”3, là cái cầu nối các thế hệ- “người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”4.
Chính vì vậy, từ rất sớm HCM đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức, chăm lo rèn
luyện đạo đức cho sinh viên. Nói chuyện với sinh viên, người khẳng định: ”thanh
niên phải có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài
chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì có ích
lợi cho xã hội mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như
ơng bụt khơng làm hại gì nhưng cũng khơng có lợi gì cho lồi người”5.

b. Kiên trì tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất HCM
Cũng như cán bộ, đảng viên các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh
viên, thanh niên trí thức, HCM đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tốt cần
thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Trong bài nói tại Đại hội sinh
viên lần thứ hai (7/5/1958), những phẩm chất đó được người tóm tắt trong “ sáu cái
yêu”: yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa
học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có khoa học và kỹ thuật”.
Theo HCM để có những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình
những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà, trung thực và chính trực, phải
xác định rõ nhiệm vụ của mình “ khơng phải hỏi nước nhà đã cho mình những
3 .Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.5, tr.185.
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.10, tr.488.
5 .Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.9, tr.172.

3


gì .Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì
cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hi sinh chừng nào”. Trong học tập và rèn luyện phải kết hợp
lý luận và thực hành, học tập với lao động, phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, chống tư tưởng hám danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham sung sướng và
tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống
lười biếng xa xỉ, chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe
khoang”6. Phải trả lời được câu hỏi: học để làm gì? học để phục vụ ai? Phải xác
định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? ai là bạn, ai là thù”.
c. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ
trẻ Việt Nam, nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập
và làm theo tấm gương đạo đức HCM thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau :

Một là, trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ngay từ thuở thiếu thời, HCM đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục
tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận một sự hi
sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, “thắng
không kiêu, bại không nản “, “ giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng
chuyển lay, uy vũ khơng khuất phục”, nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó
Người nói: Bài học chính trong đời tơi là tuyệt đối và hồn tồn cống hiến đời
mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai cấp công
nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác
anh em và hịa bình dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho
sự hợp tác anh em và hịa bình giữa các dân tộc; ” Một ngày đồng bào còn chịu khổ
là một ngày tôi ăn không ngon ngủ không yên”7. Đến lúc phải rời thế giới này, điều
luyến tiếc duy nhất của Người là “ không được phục vụ lâu hơn nữa nhiều hơn
nữa”.

6 . Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.7, tr.455.
7 . Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, tr.419

4


Hai là: học cần, kiệm, liêm, chính, trí cơng vơ tư, đời riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
HCM thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, trí cơng vơ tư, ít
lịng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự mình, Người
đã nghiêm mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, trí cơng vơ tư, ln vì nước, vì dân, vì con người khơng gợn chút riêng
tư .
Là lãnh tụ cách mạng HCM luôn coi khinh mọi sự xa hoa không ưa chuộng

những nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch tao nhã,
giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân
Ba là : học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và
hết lịng hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu
với con người.
HCM có tình thương u bao la với con người. Tình thương đó gắn liền với niềm
tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người ln dạy cán bộ, đảng
viên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh; phải gần dân, hiểu dân, phải học dân, kính trọng nhân dân, hết lịng hết sức
phục vụ nhân dân.
Với tình thương bao la HCM dành cho tất cả, chia sẻ với mọi người những nỗi
đau riêng. Người nói, trong “ mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ riêng và
gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mọi người, mọi gia đình thì thành nỗi đau khổ
của tơi”.
Lịng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của HCM bắt nguồn từ đại nghĩa của dân
tộc, nên có sức mạnh và cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở
HCM thương người là một tình cảm lớn. Cho nên, khi làm cách mạng HCM đặt
vấn đề tự do và hạnh phúc đi đơi. Đó là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản vừa
thánh thiện, vừa gần gũi đã làm xúc động trái tim nhân loại và người được suy tôn
“ một ông thánh cộng sản” , “ một con người của huyền thoại”.
Bốn là: học tấm gương về ý trí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thử thách gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
5


Cuộc đời cách mạng của HCM là một chuỗi ngày tháng vô cùng gian khổ. Hai
lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sơi nổi được
đánh gái rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm nghi kị không được giao nhiệm vụ…
song nhờ ý trí và nghị lực tinh thần to lớn, HCM đã bình tĩnh, kiên cường, chủ
động vượt qua thử thách gian nguy, kiên trì mục đích sống, bảo vệ chân lý, giữ

vững quan điểm của mình.
Để cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM có hiệu quả địi
hỏi phải có sự phối hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và sự bồi dưỡng, rèn luyện
của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội, trong gia đình, của cán
bộ, đảng viên, của các thầy cô giáo, cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của
dư luận xã họi và pháp luật. nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học
tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.

Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đạo
đức và lối sống của sinh viên.
1. Một số nét khái quát về đạo đức, lối sống của sinh viên hiện nay
Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên mấy năm gần đây
đã trở thành điểm nóng khơng chỉ của ngành giáo dục mà cịn của tồn xã hội. Các
hành vi lệch chuẩn về đạo đức trong học sinh, sinh viên ngày càng gia tăng. Và
làm thế nào để các em học sinh, sinh viên định hình cho mình một phong cách
sống phù hợp với chuẩn mực đạo đức đúng lứa tuổi?
Giới trẻ, trong đó có sinh viên – đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi
mới với những biến đổi vơ cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển của
kinh tế - xã hội. Sự thay đổi của đời sống vừa có tác động tích cực, vừa có tác động
tiêu cực đến đạo đức sinh viên hiện nay. Sinh viên là những trí thức trẻ tương lai,
khơng ai hết mà chính họ sẽ là những người đóng vai trị chủ chốt trong cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên
rất cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả
6


năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với
sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.

Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng
bên cạnh đó, họ cịn mang những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, dễ tiếp thu cái
mới, nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội,… Đặc điểm rất đáng chú ý
đang hình thành trong những người trẻ hơm nay, liên quan đến sự phát triển của
công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách mạng. .
Sinh viên hiện nay, nổi bật lên khả năng tự ý thức cá nhân và ít chịu ảnh hưởng
bởi dư luận như trước, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân, chủ động và
nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ,
chịu khó học hỏi kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và cơng việc. Làm được điều
đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, khơng ai khác ngồi sinh viên – đối tượng
trẻ có tri thức, lớn lên trong mơi trường mới, đi đầu tiếp thu cái mới. Điều đáng
chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực trên, ở một số bộ phận sinh
viên đã xuất hiện việc lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm
đạo đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hơm nay. Trào
lưu dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý
thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình
và muốn thể hiện vai trị cá nhân. Cái cá nhân nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi
ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Dần dần, nó hình thành một thái độ bàng quan
đối với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được
phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì
cộng đồng. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì thường
được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ.
Tác động tiêu cực tiếp theo là cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công
nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm khơng ít sinh viên xa rời các
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại.
Hình thành tư tưởng hưởng thụ ăn chơi đua đòi, dễ bị dao động về mặt định hướng
đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế - xã hội mở cửa. Các quan niệm
đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt là ở quan niệm
cho rằng đạo đức và lợi ích cá nhân là hồn tồn đồng nhất mọi lúc mọi nơi.

7


Bạo lực và cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống bằng đao, kiếm đã dần
ngấm vào các em từ thế giới ảo đã trở thành thế giới thực.

2. Giải pháp
Hiện nay, công tác phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong việc
ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên đã đạt được những kết
quả nhất định, phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy động được các nguồn lực
trong xã hội tham gia ngày càng tích cực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, cơng tác phối hợp cịn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng kịp với nhu cầu về chất lượng và số lượng nguồn nhân lực
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số trẻ em chưa được
hưởng điều kiện ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt nhất; vẫn tồn tại một bộ
phận học sinh, sinh viên có biểu hiện vi phạm về đạo đức, có lối sống hưởng thụ,
vướng vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật.
- Ở góc độ gia đình:
Gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, là tế bào của xã hội. Trước đây, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội
là gia đình” Gia đình khơng những là mơi trường đầu tiên mà cịn là môi trường
quan trọng trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho mỗi con
người. Nói cách khác, gia đình là mơi trường khơng thể thiếu và cũng
không thể thay thế được đối với sự phát triển của mỗi con người. Bởi, “gia đình
là trường học đầu tiên” trước khi con người đến với trường đời.
Ai cũng biết, ngay từ đầu, sự phát triển của mỗi chúng ta đã chịu ảnh hưởng sâu
sắc của giáo dục đạo đức gia đình, của “nếp nhà”, của “gia phong”. Cho nên, gia
đình là mơi trường quan trọng bậc nhất trong giáo dục đạo đức. Bởi giáo dục gia
đình là nền tảng có tác động vơ cùng to lớn đến sự phát triển của cá nhân và cả

cộng đồng. Điều đó đã lý giải vì sao Đảng và Nhà nước ta ln coi việc xây dựng
gia đình văn hóa mới là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát
triển đất nước, phát triển con người.

8


Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng gia đình văn hóa ln gắn liền
với tăng cường trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức theo những
chuẩn mực tốt đẹp của dân tộc, để mỗi con người được lớn lên trong tình cảm,
trong sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Làm được như vậy, gia đình trở thành nơi
có đủ sức mạnh đề kháng, chống lại mọi sự ơ nhiễm từ bên ngồi, ngăn chặn mọi
tiêu cực từ phía xã hội, giúp cho các thế hệ sau này có khả năng phát triển tốt hơn.
Đây không chỉ là biện pháp quan trọng để củng cố và phát triển gia đình, để gia
đình thực sự trở thành “hạt nhân của xã hội” mà đây còn là yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước.
-Về cấp độ giáo dục:
Bên cạnh xây dựng đạo đức trong gia đình, giáo dục đạo đức trong nhà trường
khơng chỉ là sự tiếp tục của giáo dục gia đình mà cịn là mơi trường đào tạo cho
con người có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức, nhằm phát triển toàn diện
con người. Giáo dục đạo đức trong nhà trường nhà trường là giáo dục có bài bản,
có hệ thống và kết hợp với nhiều loại hình giáo dục khác. Cho nên, xây dựng đạo
đức trong nhà trường có một ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành ý thức và
nhân cách đạo đức.
Để đảm bảo hiệu quả cho công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường, đòi hỏi
cần phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống, những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, nâng cao ý thức trách nhiệm của học sinh, sinh viên với bản thân, gia đình,
trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước. Phải coi đạo đức học là một
ngành khoa học thực sự và không thể thiếu trong chương trình giáo dục và đào tạo.
Trước đây, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng mong muốn: “Đạo đức

học cần phải trở nên một ngành khoa học xã hội mà những người có trách nhiệm
phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa. Nó cũng phải trở thành một môn khoa
học không thể thiếu được trong các trường đại học và giáo dục phổ thông”.

3.Vận dụng tư tưởng HCM vào xây dựng đạo đức, lối sống của SV
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trước những ảnh hưởng ngày càng to lớn của
nền kinh tế thị trường và xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, bên cạnh những tác
động tích cực thì cũng có khơng ít những tác động tiêu cực đến một bộ phận không
9


nhỏ thanh niên như đã nêu ở trên. Vì vậy, hiện nay những tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày càng
trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Từ lý luận và thực tiễn cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho chúng ta thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra
như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của bố mẹ đối với
con cái, của anh chị đối với những người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương
của thấy cô đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm
gương của những người phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong
xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác, những gương
“người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người học tập noi
theo. Một trăm bài diễn văn hay không bằng tấm gương sống - điều mà Hồ Chí
Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc
rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ
Chí Minh - một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn
vẹn.
Giáo dục phải tạo đều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ hình thành phương pháp,
phong cách tự giáo dục, tự rèn luyện suốt đời trở thành con người chân chính trong
thời đại phát triển khoa học công nghệ như hiện nay. Chưa lúc nào như lúc này,

việc học tập và vận dụng những lời dạy của Hồ Chủ Tịch về công tác giáo dục nói
chung và việc giáo dục đạo đức nói riêng lại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng như bây giờ.
Ai cũng biết thế hệ trẻ chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích luỹ các kiến
thức khoa học, công nghệ, ngoại ngữ, tin học… nhưng nếu chỉ chừng đó thơi
mà khơng lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì rất dễ dẫn đến sự phát triển
lệch lạc, phiến diện. Đó là con đường dẫn tới sự thiếu hụt những giá trị nhân văn
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Sự thiếu hụt đó
là nguy cơ làm suy thối, thậm chí biến dạng q trình phát triển của cá nhân và
cộng đồng. Đã đến lúc chúng ta cần phải ý thức được rằng, giáo dục đạo đức, thực
chất là giáo dục nhân cách, hình thành và phát triển hài hịa, tồn diện nhân cách
của con người nhằm đáp ứng cho yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Giáo dục đạo
đức là q trình hình thành, phát triển và hồn thiện ý thức đạo đức cũng như
10


năng lực thực hiện hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Đây cũng là quá trình giúp
cho cá nhân khơng chỉ hình thành mà cịn góp phần củng cố những nhu cầu đạo
đức, đặc biệt là hình thành và ni dưỡng những tình cảm, niềm tin và lý tưởng
đạo đức. Trên cơ sở đó, giúp cho mỗi cá nhân có thể nhận diện được các mặt tích
cực và tiêu cực trong hoạt động của con người và xã hội.
Từ đó, con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì mình, vì mọi người và vì
những giá trị đạo đức đích thực. Tất cả sẽ tạo thành động lực thúc đẩy cá nhân thực
hiện hành vi đạo đức, đồng thời sáng tạo ra những giá trị đạo đức mới, phù hợp với
giai đoạn lịch sử mới.

11



Các tài liệu tham khảo nhóm đã sử dụng:
-Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh_NXB chính trị quốc gia-sự thật.
-Hồ Chí Minh: Tồn tập_NXB chính trị quốc gia

12



×