Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chín sách phát triển vùng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.13 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
A. Đặt vấn đề :
Sự phát triển kinh tế giữa các khu vực luôn luôn có sự khác nhau vì nó phụ thuộc vào
rất nhiều nhân tố liên quan đến sự phân bố không gian. Mất cân bằng tức là có khoảng cách
đối với một chuẩn mực nhất định. Đặc biệt sự ra đời và sự phát triển của các sản phẩm mới
thì càng bị phụ thuộc rõ ràng hơn. Có những khu vực có điều kiện phát triển thuận lợi hơn
khu vực khác. Vì vậy không phỉa ở đâu cũng có sự phát triển tốt. Có nghĩa là tính đồng đều
và phát triển kinh tế không đạt được.
B. Nội dung :
1. Vùng cơ sở lý luận :
a. Vùng kinh tế :
- Vùng kinh tế là một không gian kinh tế xác định đặc thù của quốc gia, là một tổ
hợp kinh tế lãnh thổ tương đối hoàn chỉnh có chuyên môn hóa kết hợp chặt chẽ với phát
triển tổng hợp
- Các đặc trưng của vùng kinh tế
+ Tính chuyên môn hóa
+ Tính tổng hợp
+ Tính mở
+Tính động
- Cơ cấu vùng kinh tế:
+ Yếu tố sản xuất
+ Yếu tố kết cấu hạ tầng
+ Yếu tố dân số và nguồn lao động
+ Yếu tố tài nguyên thiên nhiên
- Phân loại vùng kinh tế:
Có nhiều cách để phân laoij vùng kinh tế khác nhau:
+ Nếu căn cứ vào mức độ đồng nhất của các yếu tố cấu thành vùng thì ta chia vùng
kinh tế thành 2 loại: vùng kinh tế đồng nhất và vùng kinh tế không đồng nhất
+ Nếu căn cứ vào mức độ chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp của vùng thì chúng
ta chia thành vùng kinh tế ngành và vùng kinh tế tổng hợp.
b. Phát triển kinh tế vùng :


Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hoạt động sản xuất ngày càng được
chai thành các dạng, các loại hình nhỏ hơn. Quá trình này được gọi là phân công lao động
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo ngành. Có thể nói phân công lao động theo ngành sẽ dẫn đến việc sẽ xuất hiện ngày
càng nhiều các ngành chuyên sâu và chi tiết. Đến lượt mình sự ra đời của các ngành đòi hỏi
phải được phân bổ vào một vùng nào đó, một địa điểm nào đó. Việc phân bổ khách quan các
cơ sở, các ngành vào các vùng được gọi là phân công lao động theo lãnh thổ. Phân công lao
động theo lãnh thổ và phân công lao động theo ngành kết hợp với nhau tạo thành phân công
lao động xã hội.
Như vậy một ngành mới ra đời bao giờ cũng đòi hỏi khách quan được phân bổ vào
một vùng thích hợp. Trong khi đó mỗi vùng lại có những đặc điểm riêng, điều kiện riêng nên
chỉ thích hợp với yêu cầu của một số ngành nhất định, chứ không phải là phù hợp với tất cả
các ngành. Chính điều này làm cho mỗi vùng có cơ cấu khác nhau, bộ mặt kinh tế xã hội
khác nhau, hình thành nên nét riêng biệt của vùng.
2. Khoảng cách phát triển giữa các vùng:

Như đã nói ở trên sự phát triển kinh tế giữa các khu vực luôn có sự khác nhau vì nó
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng ở đây sự phát triển không đồng đều đó ta chỉ xét ở 2
khía cạnh chính:
Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống
Sự mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế
2.1. Sự mất cân bằng về thu nhập và mức sống:
Chúng ta cũng có thể nhìn thấy ngay sự khác nhau cơ bản giữa đời sống người dân ở
các thành phố lớn với những vùng nông thôn, càng ở các thành phố lớn thì đời sống người
dân càng đầy đủ còn các khu vực càng càng xa khu trung tâm thành phố như các vùng sâu
vùng xa thì đời sống người dân càng khó khăn, không đáp ứng đủ cả các nhu cầu cơ bản của
người dân. Như việc sử dụng điện và nước sạch gần như đã đến được với người dân nhằm
cải thiện đời sống cho người dân nhưng đối với những người dân ở vùng sâu vùng xa như
vùng Tây Nguyên, dân tộc thiểu số thì vẫn chưa đáp ứng được. Nhiều nơi vẫn chưa có nước

sạch để dùng họ phải dùng nước giếng khoan, có nơi tệ hơn nữa là họ phải dùng nước hoàn
toàn tự nhiên như nước ở sông suối, kênh đào, mương rãnh.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người trong nghiên cứu của Vũ Quang Việt (1996,
bảng 3, trang 50 và bảng 1, trang 178) kết hợp với số liệu theo Niên giám Thống Kê 1994,
chúng ta có thể tính được thu nhập (GDP) trên đầu người cho từng vùng vào năm 93, gồm 7
vùng:
Vùng 1 : Trung du Bắc bộ
Vùng 2 : Đồng bằng sông Hồng (gồm những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định...)
Vùng 3 : Khu bốn cũ
Vùng 4 : Duyên hải miền Trung
Vùng 5 : Tây Nguyên
Vùng 6 : Đông Nam bộ (gồm TP Hồ chí Minh, Gia Định, Biên Hòa, Vũng Tàu...)
Vùng 7 : Đồng bằng sông Cửu Long
Vùng Tổng thu nhập Thu nhập bình
quân đầu người ở
nông thôn(nghìn
đồng)
Tổng thu
nhập ở nông
thôn
Thu nhập bình
quân đầu
người ở thành
thị(nghìn
đồng)
Tổng thu
nhập ở

thành thị
1 15233533 747,25 7870700 4670,35 7363807
2 25008100 915,0 10452777 6100,00 14552160
3 11563155 820,8 7043039 4828,04 4519973
4 10649066 968,3 5490261 3025,8 5158989
5 3960374 1044,0 2330208 2427,8 1630268
6 39327132 1459,2 6836060 8106,4 32491261
7 28236450 1430,1 18830126 3972,5 9392976
Phân tích những số liệu trên, chúng ta nhận thấy:
- Nông thôn chiếm 80% dân số và thu nhập thì chỉ khoảng 44% tổng số thu nhập cả
nước. Ngược lại, thành thị chiếm 20% dân số lại đóng góp 56% tổng số thu nhập.
- Tính theo bình quân đầu người, dân thành thị ở vùng 2 và 6 chiếm 9.14% dân số cả
nước, có thu nhập 47043.5 nghìn tỉ, nghĩa là 35.12% tổng thu nhập cả nước. Trong khi đó thì
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân nông thôn ở vùng 1 nghèo nhất. Với cùng số dân, thu nhập của họ chỉ khoảng xấp xỉ
4,778 nghìn tỉ, nghĩa là độ 10.15% mức thu nhập của dân thành thị nói trên.
- Bội số giàu nghèo, trên cơ sở số liệu chính thức về mức bình quân đầu người, có thể
ước lượng là xấp xỉ 10 lần. Theo nghiên cứu của GS Trần văn Thọ, chúng ta thấy bội số này
cao hơn những quốc gia như Philipin, Triều Tiên, Đài Loan, Indonexia, Thái Lan hai thập
niên vừa qua, và xấp xỉ với bội số của Malaixia cho năm 1987.
- Giả thử chấp nhận giới hạn nghèo ở mức dưới 1460 nghìn đồng cho mỗi đầu người
một năm, tức là khoảng 0.40 đô la Mỹ mỗi ngày cho một người, chúng ta thấy toàn bộ dân
nông thôn gồm 80% dân số có mức thu nhập đó. Nếu coi như giới hạn đó chỉ ở mức 51%
dân số ( con số của Ngân hàng Thế Giới, theo Trần Văn Thọ, trang 236 ) thì trừ dân nông
thôn vùng 6 và 7, tất cả số dân nông thôn còn lại trên lãnh thổ đều xếp vào hạng nghèo theo
mức thu nhập đầu người.
Trước hết , chúng ta tìm hiểu về sự chênh lệch về thu nhập và mức sông giữa các vùng
hiện nay. Theo số liệu của tổng cục thong kê
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2004 và năm 2006 theo chuẩn mới của Chính Phủ giai đoạn

2006-2010 (%)
Năm 2004
(Tính theo chuẩn mới của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 quy về giá tháng
1/2004)Năm 2006
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Năm 2004
(Tính theo chuẩn mới của
Chính phủ giai đoạn 2006-
2010 quy về giá tháng 1/2004)
Năm 2006
(Tính theo chuẩn mới của
Chính phủ giai đoạn 2006-
2010 quy về giá tháng
1/2004
Cả nước 18,1 15,5
Chia theo khu vực
Thành thị 8,6 7,7
Nông thôn 21,2 17
Chia theo vùng
Đồng Bằng Sông Hồng 12,9 10,1
Đông Bắc 23,2 22,2
Tây Bắc 46,1 39,4
Bắc Trung Bộ 29,4 26,6
Duyên Hải Nam Trung Bộ 21,3 17,2
Tây Nguyên 29,2 24,0
Đông Nam Bộ 6,1 4,6
Đồng Bằng Sông Cửu Long 15,3 13.0
Kết quả KSMS 2006 cho thấy chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa

nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong năm 2006 tăng nhẹ so với năm 2004.
So sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số
chênh lệch năm 2004 là 8,4 lần (hệ số này năm 1999 là 7,6 lần, năm 2002 là 8,1 lần, năm
2004 là 8,3 lần).
Chênh lệch thu nhập và phân hoá giầu nghèo trong dân cư còn được nhận biết qua hệ
số GINI hoặc tiêu chuẩn “40%’’. Hệ số GINI nhận giá trị từ 0 đến 1. Hệ số GINI bằng 0 là
không có sự chênh lệch. Hệ số GINI càng tiến dần đến 1 thì sự chênh lệch càng tăng, và
bằng 1 khi có sự chênh lệch tuyệt đối.
KSMS 2006 cho thấy hệ số GINI về thu nhập tính chung cả nước là 0,42, tương đương
năm 2004. Hệ số này năm 1999 là 0,39, năm 2002 là 0,418. Như vậy, sự bất bình đẳng về
thu nhập ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng.
Tiêu chuẩn “40%’’ của Ngân hàng Thế giới đưa ra nhằm đánh giá phân bố thu nhập
của dân cư. Tiêu chuẩn này xét tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất
trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư. Tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cao về thu nhập, nằm trong khoảng từ 12%-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17%
là có sự tương đối bình đẳng. Tỷ trọng này ở nước ta tính theo số hộ là 18,7% năm 1999;
17,98% năm 2002 ; 17,4% năm 2004 và 17,4 năm 2006. Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam
có phân bố thu nhập trong dân cư ở mức tương đối bình đẳng nhưng đang có xu hướng tăng
lên mức bất bình đẳng vừa.
Vẫn theo bản phúc trình của Tổng cục Thống kê VN: “Tính chung cả nước mức chi
tiêu cho đời sống năm 2001-2002 bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành đạt 269
nghìn đồng, tăng 21,7% so với năm 1999, bình quân mỗi năm tăng 8,6%, cao hơn thời kỳ
1996-1999 (6,6%). Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người 1 tháng ở khu vực nông thôn
đạt 211 nghìn đồng, khu vực thành thị đạt 461 nghìn đồng (gấp 2,2 lần nông thôn).
So với năm 1999, chi tiêu cho đời sống của nhóm các hộ nghèo nhất (chia các hộ
thành 5 nhóm theo mức thu nhập) tăng 14%, nhóm các hộ giàu nhất tăng 21,3%. Chi tiêu của
nhóm các hộ giàu nhất năm 2001-2002 gấp 4,45 lần so với nhóm các hộ nghèo nhất (con số
này năm 1999 là 4,18 lần).

Ðáng lưu ý là chi tiêu cho giáo dục, đào tạo bình quân một người đi học một năm đạt
627 nghìn đồng, tăng 14,6% so với giai đoạn 1997-1998. Tuy nhiên, mức chi tiêu của hộ gia
đình cho giáo dục có khác nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các nhóm thu
nhập.
Ở khu vực thành thị chi tiêu cho giáo dục bình quân 1 người đi học 1 năm đạt 1,255
triệu đồng, gấp 3 lần so với nông thôn. Chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học
trong năm của nhóm hộ nghèo nhất chỉ có 236 nghìn đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất là
1,418 triệu đồng, gấp 6 lần. Chi tiêu bình quân 1 người 1 năm cho giáo dục cao nhất ở miền
Ðông Nam Bộ (1,139 triệu đồng) và thấp nhất là vùng Tây Bắc (278 nghìn đồng).
Trong chi tiêu, tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống giảm nhưng còn ở mức cao. Chi tiêu cho
ăn uống giảm từ 66% năm 1993 xuống còn 63% năm 1999 và 57% năm 2001-2002. Trong
thành phần chi tiêu cũng thể hiện sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm hộ
giàu và nhóm hộ nghèo.
Năm 2001-2002, chi tiêu cho ăn uống trong chi tiêu ở thành thị là 52%, trong khi ở
nông thôn là 60%; của nhóm hộ giàu nhất là 50% trong khi nhóm hộ nghèo nhất là 70%.
Nhóm các hộ giàu nhất có mức chi không phải ăn uống lớn gấp 7,5 lần so với nhóm hộ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 10,4 lần; chi thiết bị và đồ dùng
gia đình gấp 7,6 lần; chi y tế sức khỏe gấp 4 lần; chi đi lại và bưu điện gấp 15,8 lần; chi giáo
dục gấp 6 lần, chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp... 95,4 lần.
Năm 2001-2002, số giờ làm việc trung bình một tuần ở thành thị cao hơn nông thôn
gần 10 giờ (40,5 giờ so với 30,6 giờ); số giờ làm việc trung bình của nhóm các hộ giàu nhất
cao hơn nhóm các hộ nghèo nhất 17 giờ (42,4 giờ so với 25 giờ). Số liệu này thể hiện tình
trạng thiếu việc làm đang diễn ra ở các hộ nghèo và ở khu vực nông thôn.
Cộng thêm yếu tố tiền công bình quân của lao động thành thị cao hơn lao động nông
thôn khoảng 44% (số liệu điều tra năm 1998) là nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp và sự
phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các hộ giàu và nghèo.
Lại theo 1 số liệu của Tổng cục Thống kê cho ta thấy được rõ hơn về sự chênh lệch
mức sống ở thành thị và nông thôn, có 85% số dân thành thị thuộc hai nhóm ngũ phân vị cao

nhất trong khi có tới gần một nửa số dân nông thôn thuộc hai nhóm ngũ phân vị thấp nhất.
Chênh lệch trong mức sống giữa thành thị và nông thôn còn được thể hiện rõ qua các
đặc trưng về nhà ở như nguồn nước, phương tiện vệ sinh, vật liệu xây nhà, số phòng ngủ và
hàng tiêu dùng lâu bền của hộ. thôn dùng nước máy; 92% số dân thành thị có nhà xây bằng
vật liệu kiên cố thì con số này ở nông thôn là 67%.
Có tới 65% số dân thành thị được sử dụng nước máy trong khi chỉ có 11% số dân
nông
Phân hóa giàu - nghèo trong xã hội Việt Nam có thể khẳng định chính là phân hóa
thành thị và nông thôn. Tác hại của sự phân hóa này có nhiều mặt đáng quan tâm. Thứ nhất,
là vấn đề an ninh quốc gia. Vùng nghèo nhất là vùng 1, giáp ranh Trung Quốc, và có nhiều
sắc dân thiểu số không phải là dân thành thị. Thứ hai là an ninh xã hội. Một khi phân hóa lớn
đến một độ đáng kể, tranh chấp xã hội (giữa nông dân với nhau, và giữa nông dân - dân
thành phố) là điều khó tránh. Thứ ba, dân nông thôn tự mình di chuyển về đô thị, tạo ra
những bài toán xã hội mới về nhà ở, số người thất nghiệp, và những tệ nạn sinh ra từ nghèo
khốn. Mức sinh hoạt kinh tế đô thị sẽ bị ảnh hưởng đáng kể, với một dân số quá lớn thiếu
công ăn việc làm.
2.2. Mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế:
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dân cư và nguồn lao động nước ta phân bố không đều. Điều đó phụ thuộc vào lịch sử
định cư, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, mức độ màu mỡ của đất đai, sự phong phú của
nguồn nước v.v… Tính chất không đồng đều này thể hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong
nội bộ từng vùng lãnh thổ.
Khoảng 80% số dân tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển với mật độ dân số rất cao
(đồng bằng sông Hồng 1180 người/km2 – 1999). Ở trung du và miền núi, dân cư thưa thớt
hơn nhiều (TâyNguyên là 67 người/km2, Tây Bắc là 62 người/km2). Tại những vùng trung
du và miền núi đang rất cần nguồn lao động để phát triển kinh tế thì dân cư lại thưa thớt,
cũng do điều kiện tự nhiên mà khó có thể huy đông được nguồn nhân lực từ những vùng
đông dân khác đến. Ở các khu trung tâm, thành thị thi dân cư lại tập trung đông đúc dẫn tới
dư thừa lao động.

Những đặc trưng của di dân hiện nay, đã khác so với trước đây: Về động lực: việc
làm, thu nhập (không nhất thiết là đất canh tác), hôn nhân và đoàn tụ gia đình. Về hướng:
nông thôn - đô thị, Bắc - Nam; Về hình thức: đa dạng, di dân kinh tế mới, di dân định canh,
định cư, di dân ổn định biên giới và di dân tự phát. Về quy mô di chuyển: ngày càng lớn.
Riêng giai đoạn 1961 - 1997, đã có 5,9 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án. ở Thành
phố Hồ Chí Minh, luồng di dân tự do đến không ngừng tăng lên. Thí dụ, trong giai đoạn
1986 - 1990, số dân nhập cư vào Thành phố Hồ Chí Minh là 178.196 người; giai đoạn 1994
- 1999: đã tăng lên 415.387 người, và chỉ tính riêng từ ngày 1-4-2002 đến 1-4-2003, con số
này đã là 106.197 người. Sau 26 năm từ 1999 đến 2005, dân số Tây Nguyên đã tăng hơn 3
lần, chủ yếu do dân nhập cư. Tây Nguyên trở thành nơi hội tụ dân di cư từ nhiều tỉnh, thành,
nhiều dân tộc và nhiều tôn giáo.
Hướng di dân cũng đã thay đổi đáng kể, từ nông thôn - nông thôn phía Bắc trước năm
1975 đến di dân Bắc - Nam rồi chuyển sang hướng di dân nông thôn - đô thị và trong nước
ra nước ngoài những năm gần đây. Khoảng 10 năm trở lại đây, số phụ nữ lấy chồng nước
ngoài khá lớn và có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Kết hôn với người nước ngoài là một nguyên nhân mới, đáng kể của di dân và đang
gây ra những hậu quả phức tạp về các mặt dân số, pháp lý, tâm lý xã hội.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa đất nước, di cư sẽ ngày càng sôi động. Vì vậy, cần
có chính sách phân bố dân số cân đối với tài nguyên môi trường của các vùng kinh tế - sinh
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thái. Thực hiện việc phân bố dân cư hợp lý giữa các khu vực, vùng địa lý kinh tế và các đơn
vị hành chính để khai thác tốt nhất tiềm năng đất đai, tài nguyên, giải tỏa sức ép dân số quá
lớn ở đồng bằng sông Hồng. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đăng ký hộ tịch, hộ khẩu
và tách chức năng kinh tế, xã hội ra khỏi "Sổ hộ khẩu". Đẩy mạnh bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe sinh sản của người di cư nói chung và di dân tự do nói riêng, đặc biệt phòng, chống các
bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người di cư.
Phổ biến những kiến thức cần thiết khi di cư (đăng ký hộ khẩu, tìm việc, ký kết hợp đồng
lao động, bảo vệ sức khỏe, tiết kiệm, ...). Nêu những tấm gương di cư xóa đói, giảm nghèo
và làm giàu chân chính.

Hiện nay các khu đô thị phát triển thi lực lượng lao động tập trung vào đó càng đông
đặc biệt là lao động có trình độ kỹ thuật vì vậy nó là điều kiên thúc đẩy sự phát triển về kinh
tế nâng cao đời sống của người đân ngược lại các khu trung du, miền núi thì đang cần đội
ngũ nguồn nhân lực có chất lượng cao thì lại không thu hút được.
Sự phân bố lực lượng lao động trong ngành cũng không đồng đều. Về mặt cầu, nguồn
nhân lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu được phân bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi kỹ
năng, tay nghề, và trình độ của người lao động thường không cần cao. Lực lượng lao động
đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và trong khu vực dịch vụ chỉ
chiếm khoảng 26%. Điều này phần nào phản ánh cầu lao động giản đơn, phổ thông ở Việt
Nam vẫn còn khá lớn. Đồng thời, phần lớn lao động ở Việt Nam hiện nay đang làm việc ở
khu vực ngoài quốc doanh.
Sự phân bố dân cư không đều còn thể hiện giữa thành thị và nông thôn. 76,5% số
dân sinh sống ở nông thôn, còn ở thành thị chiếm 23,5% (số liệu năm 1999).Tình hình phân
bố dân cư như vậy gây ra những khó khăn cho việc sử dụng hợp lí nguồn lao động và việc
khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi vùng.
Sự mất cân đối về phân bố các hoạt động kinh tế gây ra tình trạng phát triển không
đồng đều. Các hoạt động sản xuất công nghiệp mang lại lợi nhuận cao, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống cho người dân thì lại hầu như tập trung vào các
thành phố lớn. Trong khi đó ở nông thôn hầu hết là sản xuất nông nghiệp, ở đây mật độ dân
cư phân bố khá đông mà việc tăng tỷ trọng sản lượng nông nghiệp để tăng thêm thu nhập
thì không còn hợp lý trong bối cảnh mà đầu tư cho nông nghiệp đang còn ít, cơ sở hạ tầng
9

×