Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ xuân quỳnh, phan thị thanh nhàn, lâm thị mỹ dạ (LV01397)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.17 KB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2



HÀ DUY LINH




CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
XUÂN QUỲNH, PHAN THỊ THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ








LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM







HÀ NỘI, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2



HÀ DUY LINH




CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
XUÂN QUỲNH, PHAN THỊ THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ







LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM











HÀ NỘI, 2014
































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2


HÀ DUY LINH





CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
XUÂN QUỲNH, PHAN THỊ THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ


Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam









Hà Nội, 2014





LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Nam – ngƣời
thầy đã hƣớng dẫn tận tình và cho tôi những gợi ý quý báu trong quá trình
thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn thuộc chuyên
ngành Lý luận văn học, phòng Sau đại học, Ban giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2 đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Xin gửi tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp gần xa – những ngƣời luôn bên
cạnh giúp đỡ, động viên tôi những tình cảm yêu thƣơng nhất!
Tháng 6 năm 2014
Tác giả


Hà Duy Linh












LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Tháng 6 năm 2014
Tác giả


Hà Duy Linh

















MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Mục đích nghiên cứu. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 9
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
7. Cấu trúc luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG 12
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA
XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN 12
1.1. Lý thuyết về cái tôi trữ tình trong thơ 12
1.1.1. Khái niệm cái tôi 12
1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình 14
1.2. Hành trình sáng tạo của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn 21
CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
XUÂN QUỲNH,LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN 26
2.1. Cái tôi trữ tình trong những cảm xúc công dân 26
2.1.1. Với Tổ quốc và nhân dân 26
2.1.2. Với chiến tranh và kẻ thù 42
2.2. Cái tôi trữ tình trong những cảm xúc đời thƣờng 48
2.2.1. Cái tôi trong tình yêu đôi lứa 48
2.2.1.1. Một trái tim táo bạo, mạnh mẽ, nồng nàn đắm say. Khao khát yêu
thƣơng, hạnh phúc và luôn sẵn sàng hy sinh dâng hiến cho tình yêu 48
2.2.1.2. Tâm hồn phụ nữ đầy khắc khoải lo âu và trăn trở 59

2.2.2. Cái tôi mang vẻ đẹp mẫu tính 68
CHƢƠNG 3: NHỮNG HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN 82
3.1. Hệ thống hình ảnh và biểu tƣợng của nghệ thuật trong thơ 82
3.1.1. Hình ảnh thơ gần gũi với thiên nhiên, khoáng đạt, giàu cảm xúc 82
3.1.2. Biểu tƣợng trái tim và bàn tay 88
3.2. Ngôn ngữ thơ ca 101
3.3. Thể thơ 104
3.3.1.Thể thơ tự do 104
3.3.2 Thể thơ năm chữ 106
3.3.3. Thể thơ lục bát 108
3.4. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật 112
3.4.1. Thời gian nghệ thuật 112
3.4.2. Không gian nghệ thuật 115
3.5. Giọng điệu thơ 121
PHẦN KẾT LUẬN 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO 128












1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Xã hội phong kiến xƣa đầy những bất công, những hủ tục lạc hậu khiến cho
những ngƣời phụ nữ bị coi thƣờng, hắt hủi. Vậy mà trong hoàn cảnh đó vẫn có
những nhà thơ nữ với những tác phẩm bộc lộ đƣợc vẻ đẹp tâm hồn nhƣ Hồ Xuân
Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan. Đến thời kỳ đất nƣớc ta diễn ra
cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt với đầy những khó khăn thì nền văn học nƣớc
nhà cũng đón nhận nhiều nhà thơ nữ trƣởng thành trong đó phải kể đến những cái
tên nhƣ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. Ba tác giả này đƣợc
coi là ba trụ cột của thơ nữ thời kỳ chống Mỹ. Thơ của các chị dù viết về cuộc chiến
tranh khốc liệt, về những khó khăn, thiếu thốn vật chất trong cuộc sống hằng ngày
hay về tình yêu và khát khao hạnh phúc đời thƣờng thì chúng ta đều thấy hiện lên
những phẩm chất đáng quý.
Lựa chọn đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” cho luận văn của mình, chúng tôi xuất phát từ những
lý do sau:
Một là, tâm hồn là một thế giới rất phức tạp, nói đến tâm hồn là nói đến thế
giới bên trong, thế giới nội tâm không dễ gì nắm bắt đƣợc. Nó không nhƣ hình thức
bên ngoài mà ta dễ nhận ra và đánh giá nhƣng tâm hồn chính là kim chỉ nam cho
mọi hành động của con ngƣời.
Hai là, ngƣời phụ nữ Việt Nam có tâm hồn cao đẹp và rất đáng đƣợc ca
ngợi. Họ chung thủy, đảm đang, tháo vát, nhân hậu và rất nhạy cảm. Khi tìm hiểu
về thơ nữ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chúng tôi thấy ba tác giả Xuân Quỳnh,
Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ có nhiều điểm chung. Các chị cùng sống
trong một thời kỳ lịch sử đất nƣớc có chiến tranh, có sự tƣơng đồng về hoàn cảnh
gia đình, cuộc sống khó khăn vất vả của bản thân. Trong thơ của các chị chúng tôi
thấy những khát vọng, những hi sinh, cả những lo âu trăn trở. Và trong hoàn cảnh
2


nào các chị cũng luôn bộc lộ một tâm hồn rất cao đẹp. Vẻ đẹp đó phần nào đƣợc các
chị thể hiện qua hình tƣợng cái tôi trữ tình trong những bài thơ.
Trong nền thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh (1948-1988) là một gƣơng
mặt tiêu biểu. Lại Nguyên Ân từng nói: “Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hƣơng qua các
chặng đƣờng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới thấy lại đƣợc một nữ
sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn đƣợc thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể nhƣ
vậy, dồi dào và phong phú nhƣ vậy”.
Cũng giống nhƣ Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, là những ngƣời đã
mang chính cuộc đời mình ra làm chất liệu cho từng tác phẩm, cho mỗi tập thơ,
Xuân Quỳnh viết nhiều nhất chính là về cuộc đời mình và chị trở thành nhân vật
văn học của chính thơ chị. Trƣởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
Xuân Quỳnh nổi bật lên là một gƣơng mặt tiêu biểu mang bản sắc riêng. Trải qua
những năm tháng sống và viết, yêu thƣơng và lao động nghệ thuật hết mình, chị đã
để lại những vần thơ thể hiện tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông
minh, sắc sảo, đầy nữ tính. Thơ chị dù viết trong khói lửa đạn bom hay trong hòa
bình dựng xây đất nƣớc thì vẫn thống nhất một cách nhìn, cách cảm riêng. Lấy sự
chân thành làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo, các sáng tác của Xuân Quỳnh chính
là đời sống của chị, là những tâm trạng thật của chị trong mỗi bƣớc vui buồn của
cuộc sống. Mảng thơ viết về đề tài tình yêu, hạnh phúc của Xuân Quỳnh ngay từ khi
ra đời đã thu hút đƣợc sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình văn học.
Thơ nữ trong thời kỳ này cũng phải kể đến nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn
(1943). Chị làm thơ từ rất sớm, đầu những năm 60 đã có thơ đăng báo. Ngay từ khi
mới xuất hiện trên thi đàn, Phan Thị Thanh Nhàn đã để lại những dấu ấn khó phai
trong lòng độc giả bởi tiếng thơ trữ tình duyên dáng mà ý nhị, kín đáo.
Trên con đƣờng sáng tạo nghệ thuật của mình, Phan Thị Thanh Nhàn đã thử
nghiệm ngòi bút ở nhiều thể loại, viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi, làm
thơ và viết tiểu luận, phê bình… Ở thể loại nào chị cũng đạt đƣợc những thành công
nhất định. Nhƣng với riêng thơ, Phan Thị Thanh Nhàn đã thể hiện rõ nhất tài năng
3


và vốn sống của mình. Đặc biệt ở mảng thơ tình, chị đã góp một tiếng nói quan
trọng thể hiện khát vọng yêu, khát vọng hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Đặng
Tƣơng Nhƣ đã có lần phát biểu: “Đọc thơ tình Phan Thị Thanh Nhàn thấy hiện lên
một phụ nữ yêu hết mình với một tình yêu không đòi hỏi đền đáp, bao giờ cũng lặng
lẽ hiến dâng, một tình yêu luôn giày vò, khắc khoải nhƣng không bao giờ phản
kháng và oán trách”.
Khi nhắc đến thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, ngay từ những năm đế quốc Mỹ đang
ném bom rất dữ dội ở Miền Bắc, bạn đọc nghe tin ở Quảng Bình cất lên những vần
thơ của một nhà thơ nữ trẻ, rất trẻ, đó là Mỹ Dạ, với những bài thơ làm rung động
tình cảm của rất nhiều nhà thơ cũng nhƣ bạn đọc. Qua những câu thơ, những bài thơ
ấy ngƣời ta thấy một tâm hồn rất hiền, rất xanh, trong sáng, với một tình yêu mơ
mộng để chống lại sự hủy diệt của bom đạn. Từ đó Mỹ Dạ đã thành một nhà thơ nữ
của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sau này khi “Tập đề tặng một giấc mơ” xuất
hiện chúng ta thấy chị là một nhà thơ vừa có sự hồn nhiên của cây cỏ, đất trời, đồng
thời có nhiều suy nghĩ về cuộc đời ngƣời phụ nữ trong cuộc sống hiện nay, vói cuộc
đời riêng không phải là dễ dàng.
“Đọc thơ Lâm Thị Mỹ Dạ‟‟ của tác giả Vũ Quần Phƣơng có đoạn viết:
“Nhiều nét đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và tâm hồn con ngƣời hiện diện trong thơ
chiến tranh của Mỹ Dạ. Thơ mang tính hƣớng nội và mang những nét của bản sắc
tâm hồn ngƣời viết, rõ nhất là tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai
thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống ”
Trong “Vài dòng về Lâm Thị Mỹ Dạ”, Phan Thị Thanh Nhàn viết: Với tôi,
Mỹ Dạ ở trong thơ cũng nhƣ ngoài đời đều có gì đó rất tinh tế, rất sâu sắc. Tôi nghĩ
Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn có chất hồn nhiên, tinh tế nhƣng lại sâu đằm ở bên trong, tức
là có hồn thơ, rất nữ tính”.
Ba là, cái tôi trữ tình đƣợc thể hiện qua những vần thơ, những trang thơ là
tiếng nói của cõi lòng, của cảm xúc nhạy cảm của thi sĩ. Đó là tiếng nói sôi nổi trẻ
trung đầy ắp những trải nghiệm về con ngƣời, cuộc sống. Viết về tình yêu ta thấy rất
4


nhiều những cung bậc cảm xúc đó là lòng thủy chung, yêu hết mình, cháy hết mình
và luôn khao khát một tình yêu trọn vẹn. Vẻ đẹp tâm hồn còn đƣợc thể hiện trong
mối quan hệ tình cảm gia đình, bạn bè. Bên cạnh đó ta còn thấy một tình yêu lớn lao
dành cho thiên nhiên, quê hƣơng và đất nƣớc. Chúng ta cũng thấy trong thơ một cái
tôi đầy nghị lực vƣợt qua tất cả những khó khăn trong cuộc sống. Dù cuộc sống có
thế nào họ vẫn là những con ngƣời yêu đời và cống hiến hết mình vì nghệ thuật.
Từ nhận thức trên chúng tôi thấy cần phải làm rõ hơn vẻ đẹp tâm hồn của ba
nữ sĩ - những ngƣời phụ nữ trong thời kỳ khó khăn và gian khổ đó. Và chúng tôi
cũng đặt ra câu hỏi vì sao phần lớn tuổi trẻ ngày nay bị “suy dinh dƣỡng tâm hồn”?
Vì sao hai ngƣời cùng ngắm một bầu trời đêm qua những chấn song cửa, một ngƣời
chỉ thấy toàn màu đen, còn ngƣời kia lại thấy những vì sao lấp lánh? Vì vậy từ việc
làm rõ cái tôi trữ tình trong thơ của các chị, chúng tôi mong những ngƣời cùng thế
hệ chúng tôi và những thế hệ sau hiểu đƣợc thế nào là ngƣời có tâm hồn đẹp. Từ
nhận thức đúng đắn có hành động đúng và không ngừng vun đắp cho tâm hồn mình
thêm đẹp hơn.
Vì vậy để có cái nhìn tổng thể, toàn diện về thơ Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ
Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn, chúng tôi đã chọn đề tài: “Cái tôi trữ tình trong thơ
Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn”. Chúng tôi hy vọng sẽ
góp thêm tiếng nói làm rõ hơn nét độc đáo về cái tôi trữ tình của ba nhà thơ này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thơ Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói riêng
đã tự khẳng định mình bằng phẩm chất mới, khẳng định một bƣớc tiến mạnh mẽ
trong hành trình lịch sử của văn học dân tộc. Đặc biệt một số gƣơng mặt thơ nữ
thuộc thế hệ này đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của giới phê bình văn học. Các
chị đã làm cho thơ ca Việt Nam hiện đại phong phú hơn, nhiều màu sắc hơn. GS.TS
Mã Giang Lân từng nhận xét: “Lớp trẻ đông đảo, xuất hiện hàng loạt, nhiều khả
năng đáng quý, có cái nhìn tƣơi trẻ, cụ thể, phong phú. Có tƣ tƣởng vững vàng và
nghệ thuật mới mẻ ”. GS. Hà Minh Đức nhận định: “Thơ của các chị là tiếng nói
5


của trái tim xúc động, da diết chân thực. Nếu xem tình cảm sâu lắng chân thực nhƣ
một phẩm chất quan trọng của thơ tình thì chính thơ tình của các tác giả nữ dễ ƣu
trội hơn về phƣơng diện này‟‟. Quả thật nhƣ vậy bởi giữa những bài ca kháng chiến
hào sảng của cả dân tộc lúc này ta tìm thấy một “Phan Thị Thanh Nhàn dịu nhẹ,
duyên dáng mà kín đáo. Một Xuân Quỳnh giàu cảm xúc, sôi nổi mà dịu êm. Một Ý
Nhi giai đoạn này đã bộc lộ là một nhà thơ có nhiều suy nghĩ về cuộc sống và ta
còn gặp một Lâm Thị Mỹ Dạ giàu sáng tạo trong sáng, táo bạo, có nhiều tứ thơ lạ
nhƣng vẫn đầy nữ tính”.
Trong số những nhà thơ nữ thời kỳ chống Mỹ thì Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ
Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn là ba gƣơng mặt tiêu biểu, thu hút đƣợc sự quan tâm của
giới nghiên cứu và phê bình văn học.
Về Xuân Quỳnh, có thể khẳng định cho đến nay chị đã có một vị trí chắc
chắn trong làng thơ. Các công trình nghiên cứu về thơ chị gồm có: “Xuân Quỳnh -
Lƣu Quang Vũ, tình yêu và sự nghiệp” của tuyển tập nhiều tác giả; “Xuân Quỳnh
thơ với lời bình” của Vũ Thị Kim Xuyến; “Thơ Xuân Quỳnh” của Chu Văn Sơn;
“Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh” của Lƣu Khánh Thơ Ngoài ra tác giả Đông Mai
còn có một cuốn sách tƣởng nhớ về thi sĩ khi chị qua đời: “Xuân Quỳnh một nửa
cuộc đời tôi”.
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, những quan điểm khác nhau trƣớc một
vấn đề nào đó, các nhà nghiên cứu đã trình bày trong các bài viết của mình một
phong cách thơ Xuân Quỳnh với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng. Ngay từ những
ngày đầu, tác giả Chu Nga đã nói về sắc biếc ở chồi thơ mới nhú này. Mƣợn tên tập
thơ đầu tay của Xuân Quỳnh (Chồi biếc) ngƣời viết muốn nhấn mạnh chất tƣơi trẻ,
hồn nhiên của một chồi thơ sắc biếc.
GS. Hà Minh Đức nhận định: “Nghĩ đến ƣu điểm của lực lƣợng thơ thẻ, tôi
muốn nói đến Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh Xuân Quỳnh đã đến với
thơ bằng tình yêu tha thiết của tuổi trẻ, lòng gắn bó với nghề nghiệp ( ) từ cái
riêng đi vào cái chung thơ Xuân Quỳnh dần trở nên phong phú và có bản sắc hơn.
6


Xuân Quỳnh luôn chân thật và mềm mại trong cảm xúc, chị nhìn cuộc sống không
đơn giản một chiều”.
Vƣơng Trí Nhàn, Phạm Tiến Duật lấy hình thức đối thoại bàn về thơ Xuân
Quỳnh trong bài viết “Ý thức về thời gian, cảm giác về hạnh phúc”. Hai tác giả thấu
suốt đƣợc sự mẫn cảm trong trái tim đàn bà của chị nên có những nhận xét khá tinh
tế: “Những cảm giác hiện tại mà Xuân Quỳnh giỏi lọc ra và sống hết mình với nó
( ) đặt những giây lát hiện tại cạnh nhau ta sẽ thấy ở tác giả một cảm giác khác
nữa - cảm giác về sự thay đổi”. Sau khi khẳng định đóng góp riêng của Xuân
Quỳnh cho nền thi ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Vƣơng Trí Nhàn đi
đến tổng kết: “Chƣa phải lúc đi đến tổng kết về thơ Xuân Quỳnh vì tác giả đang viết
nhƣng có thể tin, chỉ với những bài thơ hôm nay Xuân Quỳnh mới có những điều
cần thiết nhất đối với một tác giả thơ, một cách nghĩ, một cách nói riêng của mình”
[63,70].
Có thể khẳng định, bao nhiêu bài nghiên cứu, nhận xét là bấy nhiêu lời trân
trọng, là tình cảm yêu mến, cảm thông của các thế hệ độc giả gửi đến cuộc đời hạnh
phúc thì ít mà bất hạnh thì nhiều của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, những bài viết về nữ thi sĩ Xuân
Quỳnh ta cũng bắt gặp không ít những lời nhận xét, đánh giá trân trọng của các thế
hệ độc giả giành cho Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị Thanh Nhàn.
Lâm Thị Mỹ Dạ đƣờng hoàng bƣớc vào làng thơ trong ánh hào quang của
giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ. Những thi phẩm lẻ của nữ sĩ trong giai đoạn
đầu đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Từ
những năm 80 của thế kỷ trƣớc, căn cứ vào hai tập thơ đầu tay của nữ sĩ, Hồng Diệu
đã chỉ ra những đặc điểm thành công cơ bản của thơ Mỹ Dạ: từ sự độc đáo trong tứ
thơ, nét duyên dáng trong cách viết, sự mới mẻ của hình ảnh đến âm hƣởng chính
trong thơ nữ sĩ “xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm không ồn ào
nhƣng có lúc lại không kém phần khỏe khoắn” [17,4].
7


Năm 1988, khi tập thơ mới „„Hái tuổi em đầy tay” ra đời, cây bút phê bình
Hồ Thế Hà đã đặc biệt quan tâm đến hiện tƣợng thơ Mỹ Dạ, đã chỉ ra hƣớng đi mới
của nữ sĩ: “chính là sự quay về gấp gáp và quyết liệt hơn với nhu cầu khám phá
những giá trị vĩnh hằng của con ngƣời và cuộc sống. Hành trình ấy chân thật, dữ
dội nhƣng đầy trách nhiệm đến nỗi nhà thơ phải trải lòng mình, trải hết vui buồn,
tốt xấu của chính mình để từ đó nhìn ra tha nhân, tâm tình cùng tha nhân” [28,35].
Từ đó ông thẳng thắn ghi nhận những thành công mới của thơ Mỹ Dạ: “Với hành
trình này, Lâm Thị Mỹ Dạ đã thành công trong cách thể hiện những vấn đề đời tƣ
với một giọng thơ lạ, cấu trúc nhiều tầng lớp, làm hiện lên những liên tƣởng, ý
tƣởng sâu sắc” [28,37]. Vũ Quần Phƣơng từng khẳng định nét riêng trong thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ với “tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai thác, cách lọc
tìm chất thơ trong đời sống” tạo nên “một phẩm chất trữ tình khá thuần khiết”
[66,1]. Càng ở những chặng đƣờng sau, xu hƣớng cách tân của Mỹ Dạ càng đƣợc
đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt là sự đổi mới thi pháp:“lấy chính mình làm đối tƣợng
và dám vực dậy những ƣớc mơ tro vùi” [29,34]. Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra những nét đặc trƣng, sự vận động cùng những đóng góp của Mỹ Dạ cho thơ
Việt đồng thời không né tránh chỉ ra những hạn ché. Do đó, tìm hiểu về cái tôi trữ
tình trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ để nhận ra những nét riêng giữa dòng chung của hồn
thơ đặc sắc này.
Phan Thị Thanh Nhàn là cây bút cùng thời với Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Ý Nhi, Dƣ Thị Hoàn Ngay từ những thập niên 60 khi tập thơ Hƣơng thầm ra
đời, đông đảo bạn đọc đã tiếp nhận và đón nhận Thanh Nhàn với tƣ cách là nữ thi sĩ
thơ tình và tuổi trẻ. Có rất nhiều bài đánh giá, nghiên cứu, phê bình về thơ chủa chị.
Tác giả Thiếu Mai với “Một nét thơ đáng yêu” đã nêu bật đặc điểm thơ của Phan
Thị Thanh Nhàn: “Dịu nhẹ, duyên dáng mà kín đáo, không chỉ khác so với các nhà
thơ nam giới mà ngay cả với các nhà thơ nữ cũng không thể lẫn. Đọc là mến ngay.
Và nhớ ngay”. Lời mở đầu của tập thơ Thơ với tuổi thơ, Vũ Quần Phƣơng đã viết
“Thanh Nhàn viết bằng những kỷ niệm ấu thơ và bằng chính những chất liệu của
cuộc sống thƣờng nhật. Bà không tìm thơ xa xôi, cũng không kiễng lên với những
8


chủ đề lớn. Thơ bà giản dị, cảm xúc, chân thực ”. Nguyễn Thị Minh Thái nhận
định: “Thơ của Nhàn không phải là thƣ thơ tình thuận bằng trắc để dễ thuộc lòng,
nhƣng một khi đã đi vào hồn ngƣời, nó sẽ mắc lại ở đó và trở thành cái mà ngƣời ta
vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lòng”. Những câu thơ ấy giống hệt nhƣ
những giọt nƣớc sau cơn mƣa qua, còn đọng lại trên lá cây chỉ cần một làn xúc cảm
chợt đến, khẽ chạm vào lá là những câu thơ ấy sẽ rụng ngay xuống vùng tâm thức
và mồn một hiện lên giữa lòng ta”. Đó là những nét cốt cách nhất, đặc điểm riêng
nhất của thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
Ngoài những bài viết trên còn có rất nhiều luận văn của sinh viên, thạc sỹ
viết về ba gƣơng mặt tiêu biểu này
Tựu chung lại những bài viết ấy mang lại cho chúng ta cái nhìn tổng quan về
thơ nữ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nƣớc, khơi gợi nhiều vấn đề cho chúng tôi tiếp
cận đề tài. Tuy nhiên từ trƣớc đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu tổng hợp
nào đi sâu vào vấn đề cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan
Thị Thanh Nhàn. Vì vậy chúng tôi lựa chọ đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” với mong muốn góp một phần
công sức của mình vào việc nghiên cứu thơ trữ tình của ba gƣơng mặt nữ sĩ trẻ
nhƣng có nhiều đóng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích nghiên cứu.
Chúng tôi chọn đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” nghiên cứu nhằm mục đích:
Một là, thấy đƣợc những điểm tƣơng đồng trong cuộc đời của các nữ sĩ
trƣởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ rồi bƣớc ra thời bình. Từ đó
chúng ta cũng thấy đƣợc sự tƣơng đồng trong cái tôi trữ tình đƣợc gửi gắm trong
những bài thơ.
Hai là, thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn đầy nữ tính, thùy mị, đằm thắm và duyên
dáng, rất nhạy cảm nhƣng cũng đầy mạnh mẽ và bạo trong tình yêu. Họ cũng là
9


những phụ nữ đầy nghị lực vƣợt lên những khó khăn của cuộc sống, thể hiện một
tâm hồn cao đẹp đó là vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam .
Luận văn mong muốn mang lại hiệu quả giáo dục cho ngƣời đọc. Góp phần
tìm hiểu một cách chủ động, khách quan hệ thống cái tôi trữ tình trong thơ của ba
gƣơng mặt nữ sĩ tiêu biểu thời chống Mỹ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Từ đề tài trên, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, khám phá vẻ đẹp tâm hồn
ngƣời phụ nữ qua hình tƣợng cái tôi trữ tình trong thơ nữ thời chống Mỹ (Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Mỗi một bài thơ đều bắt nguồn từ cảm xúc mạnh mẽ, thôi thúc cùng với sự
nhạy cảm của thi sĩ. Do đó nhiệm vụ của luận văn là đi sâu vào tìm hiểu vẻ đẹp tâm
hồn đƣợc thể hiện qua cái tôi trữ tình của mỗi tác giả.
4 2. Hình tƣợng cái tôi trữ tình tất yếu phải đƣợc thể hiện bằng văn bản ngôn từ.
Vậy nhiệm vụ thứ hai của luận văn đặt ra để giải quyết là: nghiên cứu những
phƣơng thức, phƣơng tiện biểu đạt, đặc sắc trong thơ của ba nhà thơ nữ tiêu biểu
cho các nhà thơ nữ thời kỳ chống Mỹ.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Thơ Xuân Quỳnh: Các tác phẩm chính:
- Chồi biếc (trong tập Tơ tằm - Chồi biếc, in chung với Cẩm Lai): 1963
- Hoa dọc chiến hào: 1968
- Gió Lào cát trắng : 1974
- Lời ru trên mặt đất: 1978
- Sân ga chiều em đi: 1984
- Tự hát: 1984
- Hoa cỏ may: 1989
10

Thơ Phan Thị Thanh Nhàn: Các tác phẩm chính:
- Hƣơng thầm: 1973
- Chân dung ngƣời chiến thắng: 1977

- Bông hoa không tặng: 1990
- Nghiêng về anh: 1992
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Các tác phẩm chính :
Trái tim sinh nở - (trong tập Trái tim nỗi nhớ in chung với Ý Nhi): 1974
Bài thơ không năm tháng: 1983
Hái tuổi em đầy tay: 1989
Đề tặng một giấc mơ: 1998
Cốm non: 2005
Hồn đầy hoa cúc dại: 2007
Chỉ riêng mình em thấy (Thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ) 2008
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học;
- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội;
- Phƣơng pháp so sánh;
- Phƣơng pháp loại hình;
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
Để luận văn có tính khoa học, chúng tôi đã kết hợp một số thao tác nghiên
cứu nhƣ: Thống kê, phân tích, chứng minh, nhằm tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu sắc và triệt để hơn.


11

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
trình bày trong 3 chƣơng :
Chương 1: Khái niệm “Cái tôi trữ tình” và quá trình sáng tạo của Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Chương 2: Những đặc điểm nổi bật của cái tôi trữ tình trong thơ Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.

Chương 3 : Những hình thức thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân
Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ.



















12

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ QUÁ TRÌNH
SÁNG TẠO CỦA XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ,
PHAN THỊ THANH NHÀN
1.1. Lý thuyết về cái tôi trữ tình trong thơ
1.1.1. Khái niệm cái tôi
Về thực chất, cái tôi là một khái niệm triết học. Các nhà triết học duy tâm là

những ngƣời đầu tiên chú ý đến cái tôi khi đề cao ý thức, lý tính trong mối quan hệ
vật chất, ý thức, chủ quan, khách quan, cá nhân và xã hội. Khái niệm cái tôi, đƣợc
hình thành bởi một quá trình lâu dài, mang trong mình tính phức tạp nhiều khi
tƣởng nhƣ thần bí. Cái tôi có nội hàm rộng đến nỗi khó xác định đƣợc toàn bộ ý
nghĩa của nó cũng nhƣ tìm cho nó một định nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất.
Trong Triết học, cái tôi đƣợc hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là tôi, bao
hàm trong đó những đặc tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác. Các quan
điểm duy tâm về cái tôi đã khẳng định cái tôi là phƣơng diện trung tâm của tinh
thần con ngƣời, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối hoạt động và là sự khẳng
định nhân cách con ngƣời trong thế giới.
Các nhà triết học: Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hêghen, Becxông, Phơrơt đã “
giải thích cái tôi nhƣ là căn nguyên có tính chất quan niệm” và từ những quan niệm
mà xây dựng thành hệ thống triết học duy tâm của mình.
Đêcactơ (1595 – 1650) đƣa ra định nghĩa duy lý nổi tiếng “Tôi tƣ duy vậy là
tôi tồn tại”. Ông quan niệm cái tôi thể hiện ra nhƣ một cái thuộc về thực thể biết tƣ
duy, nhƣ là căn nguyên của nhận thức duy lý, do đó khẳng định tính độc lập của mình.
Cantơ (1724-1804] cho rằng: Cái tôi bao gồm hai phƣơng diện: cái tôi với tƣ
cách chủ thể tƣ duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tƣ cách là khách thể
của chính nhận thức.
Hêghen (1770-1831] coi cái tôi nhƣ sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối” đồng
thời nhấn mạnh vai trò to lớn của cái tôi . Cái tôi nhƣ là trung tâm của tồn tại, cái tôi
13

có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong hiện thực. Mọi cái đều
tồn tại nhờ có cái tôi và cái tôi có thể chi phối toàn bộ sự tồn tại và hủy diệt của thế giới.
Hai nhà triết học cổ điển Đức (Cantơ và Hêghen) đã có những đóng góp to lớn
không chỉ cho triết học mà cho cả hoạt động nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc
biệt trong việc khẳng định vai trò to lớn của chủ thể sáng tạo.
Becxông (1859-1941) cho rằng trong con ngƣời có “cái tôi bề mặt” và “cái
tôi bề sâu”. Chỉ có “cái tôi bề sâu” thuộc về sâu thẳm của ý thức mới chính là đối

tƣợng của nghệ thuật.
Trong phân tâm học, cái tôi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại
và chịu ảnh hƣởng của tác động xã hội. Theo Phơ - rớt, cái tôi cùng với nó và cái
siêu tôi là ba miền của tâm thức. Cái tôi đƣợc hình thành ngay từ khi con ngƣời sinh
ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cái tôi học cách cƣ xử sao cho kiểm soát
đƣợc những ham muốn vô thức không đƣợc xã hội chấp nhận. Cái tôi có vai trò
trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn nhân cách,
xã hội.
Tiếp sau đó các nhà tâm lý học cũng đề cập tới khái niệm cái tôi khi xây dựng
các học thuyết về nhân cách. Tuy sự lý giải về nhân cách cũng nhƣ cấu trúc nhân
cách khác nhau nhƣng nhìn chung họ đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản cấu thành phần
ý thức của nhân cách con ngƣời.
Trong triết lý Phật giáo, cái tôi chính là ngã, là cái tôi đƣợc thiết thuyết với
một thể tính trƣờng tồn, không bị ảnh hƣởng của tụ tán, sinh tử. Quan niệm của Phật
giáo cũng nhƣ các tôn giáo khác nhƣ Nho giáo, Cơ đốc giáo đều hƣớng con ngƣời
đến đấng tối cao, quên đi cái tôi của mình. Song, để đạt đƣợc điều đó, tôn giáo đòi
hỏi mỗi cá nhân phải có một nghị lực phi thƣờng để vƣợt qua chính mình. Để chế
ngự cái tôi, vƣợt qua cái tôi, quên đi cái tôi, suy cho cùng lại phải thực sự nhận biết
tƣờng tận về cái tôi. Chính vì vậy mà chủ trƣơng diệt ngã, vô ngã, xoá cái tôi cá
nhân, tôn giáo cũng đã gián tiếp thừa nhận cái tôi tồn tại trong mỗi cá nhân. Duy có
điều, quá trình sống của con ngƣời là quá trình khẳng định cái tôi thì tôn giáo lại đi
ngƣợc lại – xoá bỏ cái tôi.
14

Triết học Mác - Lê Nin xác định: “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con
ngƣời, của cá tính con ngƣời có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản
thân mình. Chỉ có con ngƣời độc lập, kiểm soát những hành vi của mình và có khả
năng thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình” (Dẫn theo Lê Lƣu
Oanh, thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).
Nhƣ vậy cái tôi thực chất là khái niệm về cấu trúc nhân cách mang tính phổ

quát. Hiện tƣợng cái tôi vừa mang tính xã hội - lịch sử vừa phân biệt cái độc đáo và
khẳng định tính tích cực của nhân cách cá nhân.
1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình
Xuất phát từ quan điểm cái tôi trong triết học Mác - Lê Nin chúng ta sẽ
nghiên cứu về cái tôi trữ tình với tƣ cách là một khái niệm vừa mang tính phổ quát
vừa mang tính cụ thể.
Cái tôi cá nhân chính là hình tƣợng của chủ thể trữ tình trong tác phẩm thơ.
Thông qua cái tôi, nhà thơ giãi bày tâm tƣ, tình cảm, thế giới quan, tƣ tƣởng của
mình. Nhìn từ góc độ phản ánh luận thì cái tôi chính là đối tƣợng phản ánh của nhà
thơ, là kết quả của sự miêu tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Vũ Tuấn
Anh xác định: “Cái tôi trữ tình vừa là một cách thế nhìn và cảm nhận thế giới của
chủ thể,lại vừa là một điểm nhìn nghệ thuật của chủ thể. Đồng thời cái tôi trữ tình
cũng đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phƣơng tiện nghệ thuật (thể thơ, hình
tƣợng, vần, nhịp ) để vật chất hóa thế giới tinh thần thành một hình thức văn bản
trữ tình.”
Có thể nói rằng, tiến trình thơ trong lịch sử văn học nói chung luôn luôn
đồng hành với sự vận động của các kiểu cái tôi trữ tình. Theo cách diễn giải của
Hêghen, mỗi thời đại đều định hình một kiểu cái tôi văn học riêng: “Mỗi thời đại
đều có lối cảm xúc tế nhị hay cao siêu, hay tự do của nó. Tóm lại, mỗi thời đại đều
có lối quan niệm riêng về thế giới của nó. Cái này đƣợc biểu hiện rõ ràng nhất và
hoàn toàn nhất vì tiếng nói dùng để diễn đạt tất cả những gì diễn ra trong tinh thần
con ngƣời”. Cái tôi trong thơ thời nào cũng có nhƣng khái niệm, nội hàm và sắc
thái biểu hiện của cái tôi qua các giai đoạn văn học là khác nhau. Theo Đỗ Lai
15

Thúy, lịch sử hình thành cái tôi cá nhân là một tiến trình vận động trải qua các hình
thái: “Cái tôi cá nhân với tƣ cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của nền văn hóa
mới xuất hiện. Một mặt, nó vừa tiếp nối cái tôi tập đoàn (hay cái tôi đại diện) của
xã hội cổ truyền đã phát triển qua các hình thái nhƣ cái tôi làng xã, cái tôi vô ngã
Lý - Trần, cái tôi quân tử và cái tôi tài tử”. Có thể dễ dàng nhận thây điều này qua

sự phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Trở về với thể loại văn học cổ xa văn học
dân gian cái tôi trữ tình trong ca dao, dân ca là cái tôi tìm thấy tiếng nói chung của
tập thể. Cái tôi ở đây không bộc lộ nhƣ một cá nhân riêng biệt mà chìm đi, biểu hiện
cái tôi xã hội, cái tôi của tập thể. Cảm hứng của các tác giả dân gian bắt nguồn từ
nhu cầu đƣợc chia sẽ, giao hòa và đồng vọng trong những cảnh ngộ tƣơng đồng.
Nhân vật trữ tình trong văn học dân gian chủ yếu là những ngƣời lao động, họ có
thể là những ngƣời đang dãi nắng dầm mƣa “trên đồng cạn, dƣới đồng sâu”, là
ngƣời đang nhọc nhằn lên đồng xuống truông và không gian họ xuất hiện cũng gắn
liền không gian lao động sản xuất: Bến nƣớc, con đò, bãi dâu, đồng cỏ, vƣờn
chè Cái tôi trữ tình dân gian về cơ bản là cái tôi phi cá thể hóa, hình thức của loại
hình văn học là diễn xƣớng và truyền miệng, thời gian và không gian mang tính ƣớc
lệ làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả mờ nhạt hẳn đi. Không gian có thể
thay đổi, chẳng hạn từ địa danh này sang địa danh khác vì thế làm mất đi cá tính cụ
thể của một hoàn cảnh cụ thể, diện mạo duy nhất của cái tôi dân gian là cái chung.
Sang đến cái tôi trữ tình trong thơ cổ điển chúng ta thấy có rất nhiều quan
điểm theo truyền thống bản chất con ngƣời bắt nguồn từ mối quan hệ cộng đồng,
làng xã và cá nhân không thể tách rời mối quan hệ ấy. Văn học chủ yếu phát ngôn
trên tính cách siêu cá nhân với những vấn đề của gia đình, dòng tộc, giai cấp, dân
tộc. Điều này tạo nên kiểu nhà thơ cổ điển, phi ngã. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi thể
hiện lòng yêu nƣớc thƣơng đời qua hình tƣợng cây tùng. Cây tùng là biểu tƣợng cho
những phẩm chất chuẩn mực đƣợc xác định của ngƣời quân tử. Trong văn học trung
đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhƣng tồn tại trong những quy tắc luật lệ
khuôn mẫu mà ta gọi là tính quy phạm. Cái tôi trữ tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ. Mỗi
sự việc hình ảnh đều mang ý nghĩa triết lý về quan hệ giữa con ngƣời và vũ trụ.
16

Phạm trù chính là tình cảnh, cảnh tình, cảnh sự, nhất là trong sự tƣơng thân, tƣơng
hỗ với thiên nhiên, vũ trụ. Các nhà thơ luôn đi tìm sự hài hoà giữa cái hữu hạn và vô
cùng, giữa nhất thời và vĩnh cửu, quá khứ và thực tại, thực hƣ, động tĩnh. Con ngƣời
không tách mình khỏi vũ trụ mà từ những bí ẩn của vũ trụ con ngƣời gián tiếp bộc

lộ những bí ẩn của tâm hồn vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là gián tiếp, kín đáo. Về
sau, cái tôi xoá bỏ dần tính phi ngã quy phạm để bộc lộ tính chất tự nhiên. Khi Hồ
Xuân Hƣơng, Nguyễn Du, Cao Bá Quát xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam
là lúc con ngƣời đã đối diện với chính mình, nói về mình.
Trong thơ lãng mạn, cái tôi trữ tình đƣợc biểu hiện rõ nét. Bản chất của thơ
lãng mạn là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn song hành với sự
tự ý thức cá nhân nhƣ là một cá thể độc đáo riêng biệt, là cá nhân tự biểu hiện, khép
kín và cô đơn. Chất lãng mạn trong thơ lãng mạn nằm ở cách cảm, cách nghĩ, sự
biểu hiện thế giới và con ngƣời một cách đặc thù. Đó chính là cái tôi nằm ở trung
tâm cảm nhận làm nguyên tắc thế giới quan. Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, tâm
hồn ấy đã thoát ra khỏi tính quy phạm và nó đã bộc lộ hết mình để tâm hồn tiếp xúc
trực tiếp với ngoại giới đồng thời thơ lãng mạn cũng lấy tâm hồn làm trung tâm.
Khi đất nƣớc bƣớc vào những cuộc chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc, chống lại kẻ
thù thì cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng lại mang một màu sắc khác. Gắn liền với
hoàn cảnh lịch sử, với yêu cầu lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề dân tộc lên trên
hết vì thế theo dòng lịch sử, cái tôi trữ tình bộc lộ chủ yếu trên các vấn đề dân tộc,
lịch sử. Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất nƣớc,
với tƣ thế dân tộc, lịch sử, thời đại, giai cấp. Họ hiện diện với trách nhiệm trƣớc
cuộc đời hiện tại, khẳng định niềm tin vào tƣơng lai của dân tộc. Cái tôi lúc này
mang một sinh khí rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ từ bỏ cái
tôi cá nhân để riêng tƣ hoà vào cái chung dân tộc. Thơ cách mạng là thơ của cái tôi
cộng đồng. Cái tôi lúc này đã là cái tôi công dân xã hội, hƣớng về tình cảm chung
của cộng đồng, cái tôi hoà hợp vào cái ta cộng đồng mà khi giao tiếp thƣờng đƣợc
xƣng ta, chúng ta. Cái tôi khẳng định sự chung sức chung lòng cho sự nghiệp đánh
giặc cứu nƣớc.
17

Nhƣ vậy có thể hiểu cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc Lý luận Văn học.
Đó chính là tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận, là thế giới nội tâm (tâm hồn) của riêng
nhà thơ trƣớc hiện thực khách quan (cuộc sống). Qua cái tôi trữ tình, ta có thể thấy

đƣợc những suy nghĩ, thái độ, tƣ tƣởng, của nhà thơ trƣớc cuộc đời. Và cái tôi trữ
tình cũng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện bản chất cá nhân trong cảm thụ trữ tình đối với
đời sống, là trung tâm chi phối các nguyên tắc tổ chức nên một thế giới nghệ thuật
độc đáo. Cái tôi trữ tình là cái tôi nghệ thuật, nó phải tuân theo những nguyên tắc
đặc thù của nghệ thuật. Mặt khác cái tôi trữ tình thuộc về lĩnh vực thơ ca, nó lại tự
phân biệt mình với các thể loại kịch, tự sự bằng nội dung và cách biểu hiện của
nó. Do vậy mà giáo sƣ Hà Minh Đức khẳng định: “Trong thơ vấn đề chủ thể cái tôi
trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng”.
Tác phẩm nghệ thuật với tƣ cách là sản phẩm của hoạt động nghệ thuật, là
kết quả của cái tôi nghệ thuật - một kết quả của cái tôi đời sống. Do đặc thù từng
loại hình nghệ thuật mà cái tôi nghệ thuật này bộc lộ trực tiếp hay gián tiếp. Trong
tác phẩm tự sự, cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián tiếp qua những hình tƣợng khách
quan. Trong tác phẩm kịch, tác giả hoàn toàn giấu mình. Trong tác phẩm trữ tình,
cái tôi nghệ thuật bộc lộ một cách trực tiếp. Thơ là một thể loại mà ở đó tác giả trực
tiếp thể hiện mình thông qua thế giới nội tâm của chính mình. Cái tôi cùng với thế
giới tri giác bằng cảm giác, cảm xúc và ấn tƣợng bộc lộ một cách hoàn toàn công
khai hơn bất cứ thể loại nào. Theo GS. Mã Giang Lân: “Sáng tạo thơ là một hành
động chủ quan, cái chủ quan tồn tại và trở thành trung tâm quy tụ mọi yếu tố khác
nhƣ cảm hứng, tƣ tƣởng, hình ảnh, giọng điệu, lời thơ Cái chủ quan đƣợc biểu
hiện cụ thể bằng cái tôi trong thơ” (Tìm hiểu thơ, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội, 2000).
Tóm lại, cái tôi trữ tình là biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ
tình. Bản chất chủ quan của thể loại trữ tình thể hiện ở nguyên tắc tiếp nhận và tái
hiện đời sống thông qua toàn bộ nhân cách chủ thể trữ tình.
Trong cuốn Mỹ học Hêghen quan niệm thơ trữ tình là sự biểu hiện và cảm
thụ của chủ thể. Ông nói: “Cần phải khẳng định một chủ thể cụ thể - nhà thơ nhƣ là
18

điểm tập trung và nội dung đích thực của thơ trữ tình”. Giáo sƣ Trần Đình Sử trong
Thi pháp thơ Tố Hữu nhận định: “Ở thơ trữ tình, cá nhân là trung tâm quan niệm

và tình cảm nội tại của nó”.
Nhƣ vậy, cái tôi trữ tình đƣợc quan niệm về phƣơng diện nội dung không chỉ
thể hiện cái tôi tác giả, cá tính tác giả, đạo đức tác giả và những vấn đề lịch sử cá
nhân tác giả. Cái tôi trữ tình bao gồm trong nó cả gƣơng mặt thời đại. Trong thơ có
trƣờng hợp nhà thơ là nhân vật, là cái tôi, là hình tƣợng trung tâm. Có trƣờng hợp
nhân vật trong thơ vẫn là tôi nhƣng không phải là nhà thơ. Đó là trƣờng hợp nhà thơ
hóa thân thành cái tôi trữ tình và đồng nhất với đối tƣợng miêu tả. Giáo sƣ Hà Minh
Đức cho rằng cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả đã đƣợc nghệ thuật hóa, lý
tƣởng hóa, điển hình hóa. Và do vị trí của nhà thơ là đứng giữa mọi ngƣời để cảm
xúc với thế giới xung quanh cho nên thế giới cái tôi đƣợc mở rộng, không dừng lại
ở cá nhân nhà thơ. Nhà thơ với tƣ cách là ngƣời phát ngôn, ngƣời bộc lộ nhận thức,
phẩm chất, tinh hoa của cộng đồng cho nên cái tôi bao giờ cũng là sự vƣơn lên thể
hiện lý tƣởng của dân tộc, của thời đại. Không ai có thể đứng ngoài dân tộc, ngoài
thời đại mình. Thơ ca phải mang dấu ấn thời đại nhất định. Một nhà thơ lớn luôn
luôn là một nhân cách lớn. Nhân cách đó thống nhất với xã hội và thời đại.
Cái tôi trữ tình là nội dung của thơ ca, vì thế nó đòi hỏi một hình thức tƣơng
ứng. Quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ phụ thuộc; nội dung quyết
định hình thức, nội dung nào hình thức ấy. Hình thức cũng có tính độc lập của nó.
Hình thức không hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung. Trong sự vận động của mình,
hình thức cũng rất năng động và tích cực. Hình thức có lôgic phát triển riêng, lôgic
ấy có ảnh hƣởng đến nội dung, nhiều khi làm thay đổi nội dung. Gớt đã nói:
“Những hình thức thơ ca khác nhau sẽ gây ra một ảnh hƣởng bí ẩn lớn lao. Nếu
trình bày nội dung các bi ca La Mã của tôi dƣới thanh điệu và khuôn khổ hài kịch
Đông Gioăng của Bairơn thì tất cả những điều đã nói ở trong đó sẽ trở nên thô bỉ”
[24,114].
Cái tôi trữ tình trong thơ là thế giới cảm xúc có khi cụ thể hữu hình, có khi
vô hình vô ảnh, trừu tƣợng dƣới những cảm nhận trực giác, ảo giác. Thế nhƣng dù
19

cổ kim đông tây, dù phát triển theo khuynh hƣớng nào thì cái tôi trong thơ, cái tôi

nội cảm đều tồn tại dƣới một hình thức nào đó. Hình thức đầu tiên của nó là ngôn
ngữ. Nhà thơ tƣ duy bằng ngôn ngữ. Thơ có cấu trúc cô đọng, hàm súc vì vậy ngôn
ngữ thơ phải chứa đựng nhiều thông báo. Một câu, một chữ có thể gợi lên nhiều lớp
nghĩa.
Thơ phân biệt với văn xuôi, kịch ngay từ hình dáng bài thơ, câu thơ, đoạn
thơ, kết cấu, nhịp điệu, liên tƣởng và cả ở hình tƣợng của nó. Vấn đề cốt lõi của
kịch là xung đột nên nó lựa chọ hình thức đối thoại, lập luận để đi đến các kết quả
cụ thể. Văn xuôi tập trung phản ánh hiện thực với mọi biến động tinh vi của nó nên
câu văn có thể ngắn dài, cụ thể, tỉ mỉ hoặc biểu tƣợng. Trong cuốn Thơ trữ tình Việt
Nam 1975 - 1990 tác giả Lê Lƣu Oanh đã đi đến kết luận: “Cái tôi trữ tình tồn tại
hai cách hiểu: về nghĩa hẹp cái tôi trữ tình là hình tƣợng cái tôi cá nhân cụ thể, cái
tôi tác giả tiểu sử với những nét rất riêng tƣ, là một loại nhân vật trữ tình đặc biệt
khi tác giả miêu tả, kể chuyện, biểu hiện về chính mình. Về nghĩa rộng, cái tôi trữ
tình là nội dung, đối tƣợng, phẩm chất của trữ tình. Quan điểm này coi cái tôi trữ
tình nhƣ một khái niệm phổ quát, phân biệt thơ trữ tình với các thể loại khác”
[65,57].
Bản chất của cái tôi trữ tình đƣợc bộc lộ rất rõ. Theo Hêghen: “Trữ tình là
thoát ly thế giới thực tại để nhờ tƣởng tƣợng tạo thành một thế giới mới làm cho thế
giới này biểu hiện sinh động cái chân thực nội cảm. Gọi cái tôi trữ tình là một thế
giới nghệ thuật bởi thế giới nội cảm này là một chỉnh thể thống nhất, có ngôn ngữ
và quy luật riêng, chịu sự quy định của những quan niệm nghệ thuật riêng, phụ
thuộc vào lịch sử thời đại và lịch sử cá nhân” [27,9].
Thế giới nghệ thuật của cái tôi trữ tình là một thế giới mang giá trị thẩm mỹ.
Cái tôi trữ tình luôn tìm thấy một ý nghĩa tinh thần trong hình tƣợng cuộc sống.
Tình yêu là chuyện cuộc đời nhƣng mỗi nhà thơ lại phát hiện ở đó một ý nghĩa thẩm
mỹ không lặp lại. Đối với Xuân Quỳnh khát vọng tình yêu đã trở thành niềm nhức
nhối, lo âu, dự cảm, thành nỗi cay đắng và cô đơn. Với Mỹ Dạ, tình yêu luôn mang
trong mình nỗi khát khao đƣợc hi sinh, bù đắp hết mình vì ngƣời yêu; đó là một tình

×