Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Sử dụng mô hình mạng thần kinh nhân tạo để ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến trốn thuế trong cơ chế tự khai tự nộp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.92 KB, 74 trang )

i



Mục lục

Mục lục i
Danh mục bảng v
Danh mục hình vẽ và biểu đồ v
Danh mục từ viết tắt vi
Đề tài:
SỬ DỤNG MÔ HÌNH MẠNG THẦN KINH NHÂN TẠO ĐỂ ƯỚC LƯỢNG
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRỐN THUẾ TRONG CƠ CHẾ TỰ KHAI
TỰ NỘP 1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3 Phương pháp nghiên cứu 2
1.4 Ý nghĩa công trình nghiên cứu 2
1.5 Kết cấu đề tài nghiên cứu 3
Kết luận chương 1 3
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 4
2.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế 4
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của thuế 4
2.1.2 Bản chất và chức năng của thuế 6
2.2 Những vấn đề chung về cơ chế tự khai tự nộp thuế 9
2.2.1 Khái niệm cơ chế TKTN 9
2.2.2 Các điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế 10
ii




2.2.3 Các đặc trưng về quản lý 12
2.2.4 Sự cần thiết phải chuyển đổi theo cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và
nộp thuế 12
2.3 Cơ sở lý luận về trốn thuế 13
2.3.1 Khái niệm trốn thuế 14
2.3.2 Các hành vi trốn thuế 15
2.3.3 Phân biệt trốn thuế và tránh thuế 16
2.4 Đánh giá các nghiên cứu về trốn thuế và các yếu tố ảnh hưởng đến trốn
thuế 17
2.4.1 “Trốn thuế, tránh thuế và chi phí thuế ở các nước đang phát triển” -
Clemens Fuest và và Adine Riedel (2009) 17
2.4.2 “Trốn thuế, tránh thuế và phát triển tài chính”- Cobham (2005) 17
2.4.3 “Ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến trốn thuế ở Malaysia: Phương
pháp nghiên cứu Neural Network”- Razieh Tabandeh (2012) 18
2.4.4 Một số nghiên cứu khác 20
2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc trốn thuế 22
2.5.1 Gánh nặng thuế 22
2.5.2 Thu nhập của đối tượng nộp thuế 22
2.5.3 Qui mô của chính phủ 22
2.5.4 Tỷ lệ lạm phát 23
2.5.5 Độ mở thương mại 23
2.6 Mô hình khảo sát và các giả thuyết 23
2.6.1 Mô hình khảo sát 23
2.6.2 Các giả thuyết 24
Kết luận chương 2 25
iii




Chương 3. THỰC TRẠNG TRỐN THUẾ TẠI TPHCM TỪ KHI ÁP DỤNG CƠ
CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP ĐẾN NAY 26
3.1 Tình hình thực hiện kê khai thuế theo cơ chế tự khai tự nộp tại TPHCM .
26
3.1.1 Sơ lược những thay đổi của số thu thuế sau khi áp dụng cơ chế tự
khai tự nộp 27
3.1.2 Kết quả đạt được sau hơn năm năm thực hiện cơ chế tự khai tự nộp .
30
3.2 Thực trạng trốn thuế tại TPHCM những năm gần đây 32
3.2.1 Trốn thuế ngày càng tăng về số vụ và quy mô 32
3.2.2 Thực trạng trốn thuế của các DN tại TPHCM những năm gần đây 35
3.2.3 Một số nghi vấn trốn thuế điển hình ở TPHCM gần đây 40
Kết luận chương 3 43
CHƯƠNG 4. ƯỚC LƯỢNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRỐN THUẾ
Ở TPHCM BẰNG MÔ HÌNH MẠNG THẦN KINH NHÂN TẠO 44
4.1 Mô hình mạng thần kinh nhân tạo (ANN) 44
4.1.1 Cơ sở lý thuyết của mô hình 44
4.1.2 Chứng cứ ứng dụng mô hình ANN 49
4.2 Sử dụng mô hình ANN để ước lượng các yếu tố tác động đến trốn thuế ở
TPHCM 50
4.2.1 Lựa chọn phần mềm xử lý mô hình 50
4.2.2 Cách thức thu thập và xử lý dữ liệu thô 50
4.2.3 Quá trình xử lý mô hình 52
4.2.4 Phân tích kết quả 54
Kết luận chương 4 55
iv



Chương 5. KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU HÀNH VI

TRỐN THUẾ TRONG CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP 56
5.1 Kết luận 56
5.2 Giải pháp nhằm giảm thiểu hành vi trốn thuế trong cơ chế tự khai tự nộp
56
5.2.1 Nhóm giải pháp dựa vào kết qủa mô hình 57
5.2.2 Nhóm giải pháp từ công tác quản lý thuế 58
5.3 Hạn chế và hướng phát triển của đề tài 59
5.3.1 Hạn chế của đề tài 59
5.3.2 Hướng phát triển của đề tài 60
Tài liệu tham khảo i
Tiếng Việt i
Tiếng Anh ii
Phụ lục iv
Phụ lục 1. Bảng dữ liệu đầu vào của mô hình Artificial Neural Network iv
Phụ lục 2. Tổng hợp kết quả công tác kiểm tra 2012 vi

v




Danh mục bảng
Bảng 2-1: Phân biệt trốn thuế và tránh thuế 16

Bảng 3-1: Tình hình thu NSNN (trừ dầu thô) hằng năm giai đoạn 2007-2012 27

Bảng 3-2: Kết quả thu NSNN phân theo khu vực giai đọan 2007-2012 29

Bảng 3-3: Kết quả kiểm kê, rà soát mã số thuế trên địa bàn (đến 30/11/2011) 32


Bảng 3-4: Kết quả thanh tra, kiểm tra thuế tại TPHCM giai đoạn 2007- 2012 33

Bảng 3-5: Kết quả thực hiện thanh tra năm 2012 34

Bảng 3-6: Kết quả thực hiện công tác kiểm tra năm 2012 so với nhiệm vụ kiểm
tra năm 2012 35


Danh mục hình vẽ và biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Tình hình thu NSNN (trừ dầu thô) hằng năm giai đoạn 2007-2012
28
Biểu đồ 3.2: Tỉ trọng đóng góp của các loại hình DN trong thu NSNN từ HĐ
SXKD ở TPHCM năm 2012 30
Biểu đồ 3.3: Tốc độ tăng số đơn vị vi phạm, tốc độ tăng số tiền thuế truy thu và
phạt qua công tác thanh tra, kiểm tra giai đoạn 2007-2012 33
Biểu đồ 3.4: Thu NSNN và thu từ DN FDI ở TP.HCM(2007-2012) 36
Biểu đồ 3.5: Tỷ trọng thuế TNDN/Tổng số thuế thu được từ DN FDI ở TP.HCM
37
Biểu đồ 3.6: Doanh thu và số lỗ của Coca cola những năm gần đây 41

Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện mạng lan truyền tiến 3 lớp của ANN 45
Hình 4.2: Quá trình hoạt động của một nút đặc trưng của ANN 45
Hình 4.3: Hàm logistic 46
Hình 4.4: Chọn những biến cần phân tích mức độ tương quan 53
Hình 4.5: Biểu đồ thể hiện độ tương quan giữa các biến đầu vào và biến đầu ra 53

vi




Danh mục từ viết tắt

ANN: Artificial Neural Network
CP: Chính phủ
DN: Doanh nghiệp
ĐTNT: Đối tượng nộp thuế
GTGT: Giá trị gia tăng
HĐ SXKD: Hoạt động sản xuất kinh doanh
NSNN: Ngân sách nhà nước
TKTN: Tự khai tự nộp
TNCN: Thu nhập cá nhân
TNDN: Thu nhập danh nghiệp
TNHH: nhiêm hữu hạn
TNTX: Tạm nhập tái xuất
TP.HCM: Thành Phố Hồ Chí Minh
UBND: Ủy Ban nhân dân
VN: Việt Nam
XNK: Xuất nhập khẩu
1


Đề tài:
SỬ DỤNG MÔ HÌNH MẠNG THẦN KINH NHÂN TẠO ĐỂ
ƯỚC LƯỢNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TRỐN
THUẾ TRONG CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP

CHƯƠNG 1.
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu
Thuế là một trong những nguồn tài trợ cho chi tiêu Chính phủ (CP) cũng

như nguồn thu quan trọng nhất của ngân sách nhà nước (NSNN). Tuy nhiên,
quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp (DN), đặc biệt là ở TPHCM – địa phương
có tỉ lệ đóng góp lớn nhất cho NSNN, đang đối mặt với nhiều thách thức khác
nhau. Một trong những thách thức lớn đó là sự phổ biến của hành vi trốn thuế,
đặc biệt là trong cơ chế tự khai tự nộp như hiện nay. Điều này dẫn đến nhiều khó
khăn hơn đối với cơ quan thuế trước sức ép phải tăng thu NSNN hàng năm để
đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho một xã hội đang phát triển. Nhận biết được các yếu
tố tác động đến trốn thuế cũng như mức độ ảnh hưởng của chúng là vô cùng cần
thiết trong việc giảm thiểu hành vi tiêu cực này. Ngoài ra, bài nghiên cứu sẽ áp
dụng mô hình mạng thần kinh nhân tạo (Artificial Neural Network)- một mô hình
được nhiều người quan tâm và đã áp dụng thành công trong các lĩnh vực khác
nhau như tài chính, y tế, địa chất và vật lý trong một vài năm trở lại đây.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là thu thập, phân tích, tổng hợp cơ sở lý thuyết
và cơ sở dữ liệu cho việc trốn thuế cũng như các yếu tố ảnh hưởng trong cơ chế
tự khai tự nộp, góp phần đề ra các giải pháp nhằm hạn chế hành vi gây ảnh
hưởng xấu tới nguồn thu NSNN này.(Tình huống của địa bàn TPHCM). Trả lời
các câu hỏi nghiên cứu:
2


Những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc trốn thuế ở TPHCM trong cơ chế tự
khai tự nộp?
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó như thế nào?
Giải pháp nào góp phần giảm thiểu hành vi trốn thuế này?
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Xây dựng mô hình dựa trên mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến trốn
thuế ở Malaysia của các nhóm tác giả Razieh Tabandeh. Mô hình được đề xuất
gồm 5 biến: gánh nặng thuế, thu nhập của người nộp thuế, qui mô chính phủ, tỷ

lệ lạm phát, độ mở thương mại. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng, tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp, xử lý dữ liệu thông qua phần mềm
NeuroSolutions 6.0, thực hiện qua các bước :
• Xử lý và phân tích dữ liệu đầu vào;
• Xác định các thông số cho mô hình Artificial Neural Network (ANN);
• Lựa chọn biến đầu vào, đầu ra cho mô hình;
• Tiến hành chạy mô hình
1.4 Ý nghĩa công trình nghiên cứu
Trốn thuế là một trong những vấn đề nổi trội ở nước ta hiện nay hay cụ thể
là ở TPHCM. Do đó, cần có những công trình nghiên cứu nhằm xác định đâu là
nhân tố ảnh hưởng tới hành vi gây tổn thất nguồn sách quốc gia này. Đề tài
hướng đến mục tiêu sử dụng phân tích định lượng nhằm xác định đâu là yếu tố
tác động và mức độ tác động tới hành vi trốn thuế. Đây là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới việc cơ quan thuế sẽ cần tác động đến những yếu tố nào và theo hướng
nào để giảm thiểu thất thu thuế. Tôi kỳ vọng rằng kết quả nghiên cứu đạt được có
thể được ứng dụng vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Bên cạnh đó,
bài nghiên cứu muốn giới thiệu một mô hình đang được ứng dụng rộng rãi trên
thế giới vì những tiện ích của nó trong nhiều lĩnh vực. Mong rằng mô hình mạng
thần kinh nhân tạo sẽ là một công cụ hữu ích cho công tác phân tích, dự báo ở
nước ta trong thời gian tới.

3


1.5 Kết cấu đề tài nghiên cứu
Ngoài phụ lục và tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng trốn thuế tại TP.HCM từ khi áp dụng cơ chế tự khai tự nộp
đến nay

Chương 4: Sử dụng mô hình mạng thần kinh nhân tạo để ước lượng các yếu tố
ảnh hưởng đến trốn thuế trong cơ chế tự khai tự nộp
Chương 5: Kết luận và giải pháp giảm thiểu hành vi trốn thuế trong cơ chế tự
khai tự nộp


Kết luận chương 1
Kết thúc chương 1 tác giả đã giới thiệu về mục tiêu, phương pháp và ý nghĩa
của đề tài. Đây là bước định hướng để thực hiện nghiên cứu trong các chương
tiếp theo.
4



Chương 2.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời
là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để
chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương
đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho
các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho
xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công
cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.[13]
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử
dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng
quyền lực Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên góp
tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức không mang

tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số
trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho
Ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung
nguồn tài chính cho Nhà nước.
Hình thức Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của mình - Đó chính là thuế. Thuế luôn luôn gắn chặt với sự
ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước quy định bản chất giai
cấp của thuế.[13]
- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng
góp tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền,
5


quan lại để cai trị. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ phía
Nhà nước.
- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ
trương xây Nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực
lượng kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc
phòng. Thuế khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi
sống bộ máy Nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi
bước vào những năm 29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm
vào khủng hoảng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, Nhà nước tư sản
phải can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn
và thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong
số các công cụ trên thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén để Nhà nước thực
hiện điều chỉnh nền kinh tế.[13]
Như vậy, cùng với việc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
và sự phát triển của các quan hệ hàng hoá tiền tệ, các hình thức thuế ngày càng
phong phú hơn, công tác quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện hơn và thuế đã

trở thành một công cụ quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tập trung nguồn
thu cho Ngân sách Nhà nước và tác động đến đời sống kinh tế xã hội của đất
nước. Ở Việt Nam, sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đặc biệt là sau cải cách thuế
bước 1 ( năm 1990 ), bước 2 ( năm 1999 ) đã thể hiện tính phát triển liên tục của
thuế, từ chổ lạc hậu, bất cập, không đảm bảo tính khoa học và còn nhiều hạn chế,
hệ thống thuế Việt Nam đã dần hoàn thiện, khoa học hơn, gần gũi hơn và phù
hợp hơn với các qui định về thuế của khu vực và thế giới, đảm bảo thực hiện tốt
các mục tiêu quan trọng như:
- Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà Nước.
- Là động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
- Góp phần thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế.
- Là công cụ tài chính chủ yếu của Nhà Nước trong việc quản lý, điều tiết vĩ
6


mô nền kinh tế.
- Tính pháp lý cao, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. [13]
2.1.2 Bản chất và chức năng của thuế
2.1.2.1 Bản chất của thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn xã hội.
Ngoài khoản thu về thuế, Ngân sách Nhà nước còn có những khoản thu về
phí và lệ phí. Đây là những khoản thu mà một tổ chức hay cá nhân phải trả khi
được một cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước uỷ quyền
cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành
nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy nhiên, về
bản chất, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, giá cả.v.v.

Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản sau của thuế:
(1) Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước:
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ
bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc
gia. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ
có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc hội - Cơ quan quyền lực
Nhà nước tối cao. Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chổ Nhà
nước không thể thực hiện thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ
sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ
quan quyền lực Nhà nước ban hành.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình
thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác.
(2) Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải
nộp cho Nhà nước:
7


Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện
phương thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân dưới hình thức thuế, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người
nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ
một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính
tự nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng
đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
(3) Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp. Còn phí, lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho người
thụ hưởng dịch vụ này.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện trên các khía cạnh:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất

đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch
vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế không có
quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho
mình mới nộp thuế cho Nhà nước.
Thứ hai, các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được hoàn trả
trực tiếp cho người nộp thuế. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần các hàng
hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần giá trị
mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản thuế
mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế
với các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Như vậy xét về bản chất, thuế là một hình thức phân phối, là quá trình
dịch chuyển thu nhập xã hội một chiều từ mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp
dân cư vào ngân sách Nhà Nước .[13]
2.1.2.2 Chức năng của thuế
* Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính:
8


Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn là phương tiện huy động nguồn lực tài
chính cho Nhà nước. Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho thuế ở tất
cả các dạng Nhà nước trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch sử, chức
năng huy động tập trung nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh
nguyên nhân sự ra đời của thuế.
Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế mà
các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật
chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra
những tiền đề để Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng

cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn
lực của thuế ngày càng được nâng cao. Thông qua thuế một phần đáng kể tổng
sản phẩm quốc nội được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành
nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các
nước có nền kinh tế thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi
thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế và phí thường chiếm tới trên 90%
tổng số thu Ngân sách Nhà nước.
* Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế:
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong
quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế,
nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới được nhận
thức đầy đủ và sử dụng rộng rãi và gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế
của Nhà nước. Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩmô nền kinh tế- xã hội
bằng nhiều biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và
kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công
cụ để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín
dụng. Trong đó thuế là một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính và là một trong
những công cụ sắc bén nhất được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh
9


tế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền kinh doanh
bất kỳ ngành nghề, mặt hàng nào mà Nhà nước không cấm, miễn rằng họ phải có
đăng ký kinh doanh và hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Bằng việc ban hành hệ thống pháp luật về thuế, Nhà nước quy định đánh thuế
hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thuế suất thấp, có chính
sách ưu đãi miễn, giảm thuế đối với ngành nghề, mặt hàng và địa bàn kinh doanh
cụthể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu
trên thị trường góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo sự cân
đối trong cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề và vùng lãnh thổ.

Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng thuế để tác động trực tiếp lên các yếu tố
đầu vào của sản xuất như lao động, vật tư, tiền vốn nhằm điều tiết hoạt động kinh
tế trong cả nước. Nhà nước cũng sử dụng thuế để tác động vào hoạt động xuất
nhập khẩu nhằm thực hiện chính sách thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế.
Như vậy, thông qua việc thu thuế Nhà nước đã thực hiện điều tiết và kích
thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù
hợp với lợi ích của xã hội, tức là chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế
đã được thực hiện.[13]
2.2 Những vấn đề chung về cơ chế tự khai tự nộp thuế
2.2.1 Khái niệm cơ chế TKTN
- Tự khai - tự nộp (Self assessment): tự xác định (lượng giá) cơ sở tính
thuế nhằm mục đích tính thuế.
- Tự khai - tự nộp: nghĩa hẹp, đối tượng nộp thuế tự xác định cơ sở tính
thuế, tự tính thuế, tự xác định số thuế phải nộp và tự nộp thuế theo đúng thời hạn
qui định.
- Tự khai - tự nộp: nghĩa rộng, đang được sử dụng: là một phương thức
quản lý thuế được xây dựng trên nền tảng sự tuân thủ của ĐTNT được cụ thể
bằng việc ĐTNT tự thực hiện các nghĩa vụ mà Luật qui định và cơ quan thuế
được tổ chức và thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc đó.
10


Từ đó ta có khái niệm về cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế:
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự
giác tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ các qui định tại
các Luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai
thuế và nộp thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện
nghĩa vụ thuế của người nộp thuế nếu người nộp thuế tự giác tuân thủ nghĩa vụ.
Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế
hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân

thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra
để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của
người nộp thuế. Việc giám sát, kiểm tra của cơ quan thuế được thực hiện trên cơ
sở có đầy đủ thông tin về người nộp thuế và thực hiện phân tích thông tin, đánh
giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp có vi phạm cần thanh
tra, kiểm tra. Điều này sẽ giúp khắc phục được việc thanh tra, kiểm tra tràn lan,
gây lãng phí nguồn lực cho cơ quan thuế và phiền hà cho người nộp thuế.[10]
2.2.2 Các điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế
Để thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi phải có đầy đủ và
đồng bộ nhiều yếu tố như: trình độ và sự nhận thức của người dân về nghĩa vụ
thuế, chính sách thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, trình độ của
công chức thuế và các thẩm quyền cần thiết của cơ quan thuế trong quản lý thuế:
- Người dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, ĐTNT có ý
thức tuân thủ nghĩa vụ thuế, cộng đồng lên án những hành vi gian lận trốn thuế.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp cho cơ
quan thuế những thông tin về ĐTNT có liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
thuế của ĐTNT.
- Chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như : thuế GTGT
chỉ có 1 mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế thu nhập doanh nghiệp…, các qui
định về kê khai, nộp thuế thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của đối
tượng nộp thuế.
11


- Bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo
các chức năng: tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT; theo dõi, xử lý việc kê khai thuế; đôn
đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; thanh tra, kiểm tra thuế để nhằm chuyên môn hóa,
nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng. Trên cơ sở đó có:
+ Hệ thống dịch vụ hỗ trợ ĐTNT toàn diện, có chất lượng.
+ Hệ thống cưỡng chế thuế, thu nợ có hiệu quả.

+ Hệ thống thanh tra, kiểm tra có mục tiêu rõ ràng.
- Hệ thống xử phạt nghiêm khắc. Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về điều
tra, đủ điều kiện về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những
trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế cho NSNN và
đảm bảo sự công bằng trong quản lý thuế.
- Hệ thống giải quyết khiếu nại hoạt động có hiệu quả.
- Quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại- kỹ thuật quản lý rủi
ro, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thông qua việc tập trung phân bổ
nguồn lực quản lý đối với các đối tượng nộp thuế không tuân thủ nghĩa vụ thuế
gây rủi ro cao, ảnh hưởng lớn đến nguồn thu NSNN.
Để thực hiện được quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, cơ quan thuế
cần phải có:
+ Thông tin đầy đủ và liên tục về ĐTNT trong một khoảng thời gian nhất
định (ít nhất là 5 năm). Trên cở các thông tin đó cơ quan thuế phân tích, phân loại
ĐTNT để xác định biện pháp quản lý phù hợp với từng đối tượng.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai thác, sử dụng
thông tin về ĐTNT và ở tất cả các hoạt động quản lý của cơ quan thuế.
- Quy trình quản lý của cơ quan thuế tốt và được hỗ trợ tin học hoá
- Công chức thuế được đào tạo có đủ kiến thức, năng lực để thực hiện
quản lý thuế chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng quản lý. [10]

12


2.2.3 Các đặc trưng về quản lý
- Trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, nhất là trách nhiệm về hành vi, được
qui định rõ ràng cho từng phía: chủ thể quản lý - cơ quan thuế và đối tượng quản
lý - ĐTNT.
- Dân chủ trong quan hệ giữa cơ quan quyền lực Nhà nước và ĐTNT.
- Nhà nước (cơ quan thuế) không can thiệp và không làm thay trách nhiệm

của ĐTNT.
- Nhà nước (cơ quan thuế) chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền lực để
quản lý chuyển sang lấy hỗ trợ là chính. Đây là nền tảng cho một cuộc cải cách
toàn diện hệ thống quản lý thuế (cải cách thể chế, cải cách bộ máy, cải cách
phương pháp quản lý, cải cách các thủ tục hành chính…) .
- Chế độ kiểm tra thuế của cơ quan thuế được chuyển từ “tiền kiểm” sang
“hậu kiểm”. [10]
2.2.4 Sự cần thiết phải chuyển đổi theo cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và
nộp thuế
Thứ nhất: Đối với tổ chức, cá nhân nộp thuế
- Được quyền tự thực hiện các nghĩa vụ của mình.
- Ngoài các trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn được qui định một cách rõ
ràng, các quyền của người nộp thuế được xác lập và có xu hướng tăng (đối lại đối
với cơ quan thuế là giảm).
- Tăng cơ hội bảo vệ các lợi ích cho chính doanh nghiệp ( tự mình hoặc có
sự trợ giúp từ bên ngoài, nhất là đối với các quyết định đưa ra từ phía cơ quan
thuế mà doanh nghiệp cho rằng quyết định đó xâm phạm đến quyền lợi của
doanh nghiệp).
- Được cơ quan thuế, các công chức thừa hành trong hệ thống ngành thuế
tôn trọng.
13


- Được hưởng các dịch vụ thuế ngày càng có chất lượng hơn do thành quả
thu được từ công cuộc cải cách hành chính từ phía cơ quan thuế, tiết kiệm được
chi phí, các phiền hà trong hành chính được giảm thiểu.
- Được hưởng sự hỗ trợ tối đa của cơ quan thuế trong việc cung cấp các
thông tin, phương tiện, các trợ giúp để kê khai thuế, nộp thuế vì đây là nhiệm vụ
chính của cơ quan thuế.
Thứ hai: Đối với cơ quan thuế

- Cơ quan thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu
quả nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thuế được tổ chức theo hướng
ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa.
- Cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác phục vụ, hỗ
trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh
hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với NSNN.
- Cơ quan thuế có điều kiện để tăng cường thanh tra, kiểm tra và cưỡng
chế thuế có hiệu quả hơn đối với người nộp thuế có khả năng rủi ro cao trong
việc không tuân thủ thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy
mạnh hiện đại hoá quản lý thuế mà cụ thể là đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ
thông tin trong quản lý thuế.[10]
2.3 Cơ sở lý luận về trốn thuế
Trốn thuế là đề tài thường được nhắc đến trên các phương tiện truyền
thông đại chúng. Tùy theo mức độ nghiêm trọng và số tiền trốn thuế, người vi
phạm có thể bị xử phạt hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
trốn thuế theo Điều 161, Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Hình sự năm 1999 có
hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2010.
Mặc dù luật pháp rất nghiêm khắc đối với việc trốn thuế, nhưng thực tế
cho thấy, hành vi này diễn ra khá phổ biến, phức tạp và khó kiểm soát do nhiều
nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Đó là lý do khiến mọi
14


người thường lầm tưởng rằng, khi có một cá nhân hay tổ chức nào đó tìm cách
không đóng thuế thì đó là biểu hiện của việc trốn thuế và phải bị xử phạt nghiêm
khắc. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng đúng như vậy. Trong một số
trường hợp, đó là tránh thuế hợp pháp.
Trong khi khái niệm “trốn thuế” đã quá quen thuộc thì khái niệm “tránh
thuế” còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Nó chỉ mới xuất hiện từ khoảng năm 1994,

khi các công ty luật và kiểm toán nước ngoài bắt đầu cung cấp dịch vụ tư vấn
thuế tại Việt Nam.
Theo giải thích của Bộ Tài chính, tổ chức, cá nhân trong quá trình kê khai,
quyết toán thuế có hành vi kê khai, xác định không đúng căn cứ tính thuế theo
quy định của từng sắc thuế và các hành vi vi phạm khác làm giảm số thuế phải
nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn, giảm, nhưng số liệu về
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế đã
được phản ánh đầy đủ trên sổ sách kế toán và trên báo cáo tài chính đơn vị gửi cơ
quan thuế theo đúng quy định thì chưa đủ căn cứ để kết luận là hành vi trốn
thuế
1
.
2.3.1 Khái niệm trốn thuế
“Hành vi trốn thuế là hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định
của pháp luật về thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn hoặc được miễn, giảm”.
Theo “Nghị định 100/2004/NĐ-CP”
2

Richardson (2008) xác định hành vi trốn thuế là “hành vi cố ý vi phạm
pháp luật hoặc các hoạt động liên quan trực tiếp đến một vi phạm pháp luật về
thuế để trốn việc nộp thuế”
3


1
Theo công văn số 8585/BTC-TCT ngày 8/7/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn xác định hành vi trốn
thuế
2
Ngày ban hành 25/04/2004. Hết hạn hiệu lực từ ngày 01/07/2007

3
“The Relationship Between Culture and Tax Evasion Across Countries Additional Evidence and
Extensions”. Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, 17: 67– 78
15


Theo TS. Nguyễn Thị Lan (2009) thì “trốn thuế là hành vi cố ý vi phạm
pháp luật của đối tượng nộp thuế bằng mọi hình thức, thủ đoạn để làm giảm số
thuế phải nộp trong kỳ cho Nhà nước”
4
.
2.3.2 Các hành vi trốn thuế
1. Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ
khai thuế sau chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc
ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế;
2. Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác
định số tiền thuế phải nộp;
3. Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hoá
đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã bán;
4. Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá, nguyên
liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải
nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số
tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
5. Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền
thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
6. Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ
sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan trong thời gian sáu
mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
7. Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu;

8. Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích trốn
thuế;

4
“Các giải pháp hạn chế việc trốn thuế và tránh thuế của các công ty đa quốc gia hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam”, luận văn thạc sĩ kinh tế.
16


9. Sử dụng hàng hoá được miễn thuế không đúng với mục đích quy định
mà không khai thuế.
Theo “Điều 108, Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11”
2.3.3 Phân biệt trốn thuế và tránh thuế
Kim(2008) cho rằng trốn thuế là bất hợp pháp, trong khi tránh thuế là một
cách hợp pháp làm giảm gánh nặng thuế. Trong một nghiên cứu khác, Sandmo
(2004) đề cập đến việc tránh thuế là dựa vào các kẽ hở trong pháp luật và người
nộp thuế không cần lo lắng về việc bị phát hiện khi cố gắng tìm một giải pháp để
giảm số thuế phải nộp.
Bảng 2-1: Phân biệt trốn thuế và tránh thuế
TRỐN THUẾ TRÁNH THUẾ
ĐỊNH
NGHĨA
Là hành vi cá nhân, tổ chức vi
phạm các quy định của pháp
luật về thuế làm giảm số thuế
phải nộp hoặc làm tăng số
thuế được hoàn hoặc đuợc
miễn , giảm
Là khai thác hợp pháp các cơ chế
thuế để giảm khoản thuế phải nộp

bằng các phương tiện trong khuôn
khổ pháp luật và khai báo các
thông tin trọng yếu cho cơ quan
thuế
CÁCH
THỨC
-Che giấu thông tin mà lẽ ra
phải cung cấp cho cơ quan
nhà nước
-Tạo ra thông tin không có
thật
-Vận dụng các chính sách ưu đãi
thuế
-Áp dụng các khoảng trống mà
pháp luật chưa quy định để thực
hiện các giao dịch
KẾT
QUẢ
-Có thể bị xử phạt hành chính
hay bị truy cứu trách nhiệm
hình sự
-Mang đến cho doanh nghiệp giải
pháp tối ưu về thuế mà không vi
phạm pháp luật.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

17


2.4 Đánh giá các nghiên cứu về trốn thuế và các yếu tố ảnh hưởng đến

trốn thuế
2.4.1 “Trốn thuế, tránh thuế và chi phí thuế ở các nước đang phát triển” -
Clemens Fuest và và Adine Riedel
5
(2009)
Bài nghiên cứu này báo cáo khảo sát tổng hợp các nghiên cứu định lượng
về thất thu thuế do tránh và trốn thuế tại các nước đang phát triển, đồng thời bàn
về vai trò của chi phí thuế và các yếu tố chi phối khả năng huy động nguồn thu
thuế.
Theo bài nghiên cứu, dịch vụ công và cơ sở hạ tầng là những nhân tố chủ
chốt cho phát triển và tăng trưởng. Tuy vậy, nhiều nước đang phát triển không
thu được đủ mức thuế cần thiết để sử dụng cho khu vực công. Năm 2005, tỷ lệ
trung bình của thuế/GDP ở các nước phát triển đạt khoảng 35%. Tỷ lệ tương ứng
ở các nước đang phát triển là 15% và ở nhóm các nước nghèo nhất là 12%. Điều
này phản ánh sự yếu kém của các nước đang phát triển trong việc tăng nguồn thu
nhằm đáp ứng nhu cầu của dịch vụ công.
Các nghiên cứu hiện nay về thất thu thuế do tránh và trốn thuế ở các nước
đang phát triển đều phân biệt giữa nhân tố trong nước và nhân tố quốc tế.
Nhân tố trong nước gồm tình trạng trốn thuế xảy ra trong nền kinh tế
ngầm. Nhân tố quốc tế gồm việc điều chuyển lợi nhuận giữa các chi nhánh trong
các tập đoàn đa quốc gia và việc nắm giữ tài sản ở nước ngoài của các công ty tư
nhân.
2.4.2 “Trốn thuế, tránh thuế và phát triển tài chính”- Cobham
6
(2005)
Đây là nghiên cứu được trích dẫn rộng rãi nhất về nhân tố trong nước đối
với thất thu thuế . Nghiên cứu này ước tính rằng, các nước đang phát triển đã mất
285 tỷ USD hàng năm do trốn thuế tại nền kinh tế ngầm. Cách tính này của

5


“Tax evasion, tax avoidance and tax expenditures in developing countries: A review of the literature”.
Report prepared for the UK Department for International Development (DFID)”.

6

Tax evasion, tax avoidance and development finance”, Working Paper Number 129”


18


Cobham dựa trên ước tính quy mô nền kinh tế ngầm của Schneider. Mặc dù cách
tiếp cận này của Cobham còn một số hạn chế, nhưng điều quan trọng nhất là số
liệu của Cobham đưa ra nêu trên không nên hiểu đó là số tăng thu thuế có thể đạt
được nếu việc thực thi pháp luật về thuế tốt hơn hoặc nếu áp dụng các biện pháp
chính sách khác. Một số nguyên nhân có thể lý giải vấn đề này là:
- Trên thực tế, không thể đánh thuế vào mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế
ngầm.
- Quy mô ước tính của nền kinh tế ngầm có thể là chỉ số phản ánh sai lệch về thất
thu thuế do 3 yếu tố:
+ Quy mô nền kinh tế ngầm có thể là kết quả của sự lựa chọn chính sách
có cân nhắc của các nước đang phát triển. Điều này ngụ ý một nghịch lý rằng
việc thu hẹp nền kinh tế ngầm có thể không làm tăng doanh thu thuế mà cũng
không vì phúc lợi xã hội.
+ Hoạt động của nền kinh tế ngầm bao gồm cả hoạt động bất hợp pháp, nó
sẽ phải ngừng lại nếu bị phát hiện và do đó sẽ không tạo ra doanh thu thuế.
+ Ước tính nền kinh tế ngầm của Schneider đưa ra phải được hiểu một
cách thận trọng do phương pháp ước lượng mà Schneider sử dụng còn có những
hạn chế.

2.4.3 “Ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến trốn thuế ở Malaysia: Phương
pháp nghiên cứu Neural Network”- Razieh Tabandeh
7
(2012)
Không như các nước phát triển, ở các nước đang phát triển có rất ít nghiên
cứu về trốn thuế và các yếu tố ảnh hưởng đến trốn thuế.
Nghiên cứu đưa ra giả thuyết có 5 yếu tố chính ảnh hưởng đến trốn thuế
đó là gánh nặng thuế, thu nhập của ĐTNT, qui mô CP, tỷ lệ lạm phát và độ mở
thương mại. Khác với những nghiên cứu trước, họ đã áp dụng phương pháp

7

Estimating Factors Affecting Tax Evasion in Malaysia. A Neural Network Method Analysis”,
PROSIDING PERKEM VII, JILID 2 (2012) 1524-1535.

19


Neural Network cho dữ liệu của Malaysia từ 1963-2010. Kết quả là cả năm yếu
tố trên đều có ảnh hưởng đến trốn thuế, trong đó biến thu nhập của ĐTNT với hệ
số (-2.23) có tác động mạnh nhất. Hệ số này cho thấy rằng có một mối quan hệ
nghịch biến giữa thu nhập của ĐTNT và trốn thuế. Embaye (2007) trong nghiên
cứu trường hợp của châu Phi cho thấy mối quan hệ giữa thu nhập của ĐTNT và
trốn thuế là tỷ lệ thuận. Để giải thích cho mâu thuẫn này, Razieh Tabandeh đã lập
luận rằng tác động của thu nhập ĐTNT còn phụ thuộc vào mức thuế suất. Sau khi
tăng thu nhập, nếu các CP tăng thuế suất thì ĐTNT sẽ vẫn tìm cách trốn thuế làm
cho trốn thuế tăng lên và ngược lại. Ở Malaysia, do mức thuế suất thuế thu nhập
đã giảm từ mười năm trước đến nay nên kết quả này cũng không có gì là khó
hiểu. Với hệ số (-0.56), độ mở thương mại cũng có tác động ngược chiều đến
trốn thuế. Hạn chế thương mại với các nước dẫn đến sự gia tăng hàng nhập lậu và

do đó tình trạng trốn thuế cũng tăng lên. Crane và Nourzad (1986), Caballé và
Panade (2004) cũng đưa ra kết luận tương tự. Như đã biết, lạm phát có thể ảnh
hưởng đến quyết định của người nộp thuế. Khi tỷ lệ lạm phát cao, người nộp thuế
có xu hướng tìm cách tăng thu nhập khả dụng và trốn thuế là một trong số các
phương án. Dựa trên hệ số 1.58, mối quan hệ giữa qui mô của CP và thuế trốn là
tỷ lệ thuận. Aignet et al. (1988), Schneider và Savasan (2007) cũng tìm thấy cùng
một kết quả trong bài nghiên cứu của mình. Khi qui mô của CP tăng, việc kiểm
soát từng lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ khó khăn hơn, mặt khác, các quy định
pháp luật cũng đòi hỏi khắc khe hơn dẫn đến tăng các hoạt động trong nền kinh
tế ngầm, và trốn thuế sẽ tăng lên. Gánh nặng thuế là một yếu tố khác gây trốn
thuế. Kết quả mô hình cho thấy một mối quan hệ đồng biến giữa gánh nặng thuế
và trốn thuế, nhưng mức thuế suất thấp ở Malaysia khiến biến này có mức độ ảnh
hưởng không cao so với các biến khác. Brooks (2001), Savasan (2003),
Dell'Anno (2007), Dell'Annoet al. (2004), và Schneider và Savasan (2007) cũng
đưa ra kết luận tương tự trong bài nghiên cứu của mình.

×