Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

SKKN đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài 10
2. Từ dư luận của báo chí về việc DHLS ở trường THPT 10
3. Từ việc Bộ GD – ĐT triển khai một số hoạt động về CNTT&TT 19
4. Từ chỉ đạo của các Sở GD – ĐT triển khai ứng dụng CNTT&TT 24
5. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu 30
6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 32
7. Mức độ nghiên cứu đề tài 35
8. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 35
9. Cơ sở lí luận thực tiễn và PP nghiên cứu 35
9.1. Cơ sở lí luận thực tiễn
9.2. PP nghiên cứu
10.Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 36
11. Kết cấu của đề tài 37
NỘI DUNG
Phần I. Nêu thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài 38
1.1. Tình hình giảng dạy môn LS ở đơn vị
1.2. Tình hình trường, lớp, HS
1.3. Ưu điểm khi thực hiện đề tài
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài 40
Phần II. Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
1. Đối tượng học và việc thiết kế đa phương tiện DH 41
2. Khai thác, sử dụng internet góp phần tích cực hoá PPDH LS ở
trường THPT 42
3. Thiết kế và sử dụng GAĐT nhằm nâng cao chất lượng DHLS ở
trường THPT 46
3.1. Thực trạng việc thiết kế và sử dụng GAD8T trong môi trường DH đa
phương tiện
3.2. Nhận thức của GV đối với việc thiết kế và sử dụng GAĐT hiện nay


3.3. Thực trạng trong việc thiết kế và sử dụng GAĐT của GV
3.4. Công tác thiết kế và sử dụng GAĐT
4. Một số biện pháp ứng dụng CNTT&TT để thiết kế và sử dụng
GAĐT 49
4.1. Nâng cao nhận thức và khuyến khích GV sử dụng GAĐT trong
DHLS
4.2. Bồi dưỡng trình độ tin học cơ bản, phát triển kĩ năng thiết kế và sử
dụng GAĐT cho GV
4.3. Xây dựng quy trình thiết kế và sử dụng GAĐT
1
4.4. Tăng cường đầu tư CSVC và TBDH hiện đại, xây dựng phòng học
đa phương tiện
4.5. Sự chuẩn bị của Bộ GD – ĐT về ứng dụng CNTT trong sử dụng
TBDH để thay SGK lớp 12
5. Sử dụng SGK và SBT LS để đổi mới PPDH LS ở trường THPT 58
6. Vận dụng lí thuyết thông tin để tổ chức HS làm việc với SGK và
SBT LS trong việc đổi mới PPDHLS ở THPT 63
6.1. Quan điểm lí thuyết thông tin về học tập
6.2. Định hướng vận dụng lí thuyết thông tin để tổ chức HS làm việc với
SGK và SBT LS trong việc đổi mới PPDH LS ở THPT
6.3. Kinh nghiệm sử dụng SBT trong DHLS ở trường THPT
6.3.1. GV phải nhận thức được vai trò, chức năng của việc sử dụng SBT
trong quá trình DH hiện đại
6.3.2. BT được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình DHLS
6.3.3. Một số lưu ý và kĩ thuật sử dụng SBT trong DHLS để đạt được hiệu
quả cao
6.4. Kết luận về tổ chức HS làm việc với SBT trong DHLS để đạt được
hiệu quả cao
7. Đổi mới việc chỉ đạo hoạt động tự học ở nhà của HS kết hợp với
SBT LS 70

7.1. Những căn cứ cơ bản chỉ đạo việc đổi mới tự học SBT LS ở nhà của
HS
7.2. Nội dung đổi mới tự học SBT LS ở nhà của HS
7.2.1. Một số yêu cầu của việc đổi mới công tác chỉ đạo hoạt động tự học
SBT LS ở nhà của HS
7.2.2. Đổi mới nội dung tự học kết hợp SBT LS ở nhà của HS
7.2.3. Đổi mới PP tự học kết hợp SBT LS ở nhà của HS
8. Sử dụng sơ đồ trong GAĐT nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả
DHLS ở THPT 76
8.1. Vị trí, ý nghĩa của sơ đồ trong DHLS
8.2. Một số biện pháp sử dụng sơ đồ trong DHLS ở THPT
8.2.1. Sử dụng sơ đồ trong nghiên cứu kiến thức mới
8.2.2. Sử dụng sơ đồ trong ôn tập, củng cố, hoàn thiện kiến thức mới
8.2.3. Sử dụng sơ đồ trong kiểm tra, đánh giá
8.3. Sử dụng sơ đồ trong DHLS có giá trị tích cực, góp phần nâng cao
hiệu quả bài học và kích thích lòng say mê học tập của HS
9. Tạo biểu tượng các nhân vật LS để hình thành kiến thức LS cho HS
THPT 82
9.1. Đối với nhân vật LS ở nhóm một
9.2. Đối với nhân vật LS ở nhóm hai
9.3. Đối với nhân vật LS ở nhóm ba
10. Các biệp pháp GV giúp HS vượt qua “rào cản” trong đổi mới
DHLS ở THPT 87
2
10.1. Quan niệm về “rào cản” trong quá trình học tập theo cách tiếp cận
của “sư phạm tương tác”
10.2. Các biện pháp giúp HS vượt qua “rào cản” của vùng limbic
10.2.1. Kích thích đa giác quan của HS
10.2.2. Tạo động lực học tập cho HS
10.3. Các biện pháp giúp HS vượt qua “rào cản” của trạng thái T

10.3.1. Luôn bắt đầu từ các ví dụ, các hình ảnh, các sự kiện cụ thể để
giúp HS hình thành các khái niệm
10.3.2. Luôn tạo được sự kết nối giữa kiến thức cũ với kiến thức mới
bằng cách củng cố ôn tập thường xuyên, kiểm tra kiến thức nền
11.Một số kĩ thuật kiểm tra đánh giá vận dụng trong đổi mới PPDH LS
ở trường THPT 93
11.1. Kiểm tra kiến thức nền
11.2. Bài tập một phút
11.3. Tóm tắt một câu
11.4. Điểm nhấn
11.5. Xác định ma trận đặc trưng
Phần III. Kết quả và kinh nghiệm rút ra được từ SKKN
1. Kết quả đạt được 101
2. Ứng dụng CNTT&TT với đổi mới PPDH LS ở THPT 102
2.1. Lợi ích và một vài điều bất lợi của việc ứng dụng CNTT&TT trong
đổi mới PPDH LS ở THPT hiện nay
2.1.1. Lợi ích
2.1.2. Khó khăn
2.2. Thực trạng ứng dụng CNTT&TT trong công tác DHLS ở THPT hiện
nay
2.3. Một số đề xuất đưa CNTT&TT giải quyết vấn đề đổi mới PPDH LS
2.3.1. Nguyên tắc chung
2.3.2. Một số giải pháp ứng dụng CNTT&TT trong đổi mới PPDH LS hiện
nay
3. Bài học kinh nghiệm rút ra được từ SKKN 107
3.1. Xây dựng CSVC, TBDH hiện đại
3.2. Đào tạo, bồi dưỡng GV về CNTT&TT
3.3. Triển khai thực hiện
3.4. Một số yêu cầu về PP luận và lí luận DH khi ứng dụng CNTT&TT
vào đổi mới PPDH LS ở THPT hiện nay

Phần IV. Khả năng ứng dụng và triển khai SKKN
1. Những nét cơ bản về CNTT&TT 112
2. Những lợi ích của CNTT&TT trong việc đổi mới PPDH LS 113
2.1. CNTT&TT giúp tăng cường hứng thú học tập ở HS
2.2. CNTT&TT giúp HS đáp ứng được nhu cầu của cá nhân
3
2.3. CNTT&TT giúp HS phát triển đa trí tuệ
2.4. CNTT&TT giúp khuyến khích tinh thần học tập kiến tạo
2.5. CNTT&TT là công cụ DH cho GV
3. CNTT&TT những thách thức với việc sử dụng trong lớp học 115
4. CNTT&TT ở Việt Nam và Bình Dương 116
5. Các trang về CNTT có thể tham khảo 118
6. Kho học liệu mở Việt Nam chính thức “mở cửa” 120
7. Hướng dẫn khai thác internet phục vụ DHLS 121
8. Giới thiệu giao diện một số website 127
Phần V. Đề xuất ứng dụng CNTT&TT kết hợp SBT để đổi
mới PPDH LS ở trường THPT
1. CNTT&TT hỗ trợ đổi mới PPDH LS ở THPT 129
2. Nguyên tắc ứng dụng CNTT&TT để đổi mới PPDH LS ở THPT.130
3. Cấu trúc của GAĐT hỗ trợ DHLS 131
4. Quy trình xây dựng GAĐT hỗ trợ DHLS 132
5. Ý nghĩa và những hạn chế của việc ứng dụng CNTT&TT trong việc
đổi mới PPDH LS 134
6. Đề xuất một số biện pháp chủ yếu giúp HS nắm vững kiến thức
trong DHLS ở THPT 135
6.1. Kết hợp lời nói của GV và HS với đồ dùng trực quan nhằm tạo biểu
tượng cụ thể, sinh động về sự kiện LS
6.2. Sử dụng tài liệu tham khảo kết hợp SBT với trao đổi thảo luận sẽ làm
sáng tỏ sự kiện của bài học LS
6.3. Sử dụng câu hỏi để tổ chức trao đổi thảo luận

6.4. BTLS là phương tiện quan trọng trong DH giúp HS nắm vững kiến
thức
6.5. Thường xuyên củng cố ôn tập là biện pháp rất tốt giúp HS nắm vững
kiến thức
6.6. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết hợp với tự kiểm tra, đánh giá
của HS
Phần VI. Sự chuẩn bị cho “năm học CNTT 2008 – 2009”
1. Trước thềm “năm học CNTT 2008 – 2009” 143
2. Bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 HS được rút bớt thời lượng học tập
quá tải 144
3. Mười một giải pháp trước mắt của ngành GD 145
4. Xây dựng một chương trình phổ thông mới sau năm 2010 147
5. Từ năm học 2008 – 2009 triển khai mô hình “trường học thân thiện
trên toàn quốc” 148
6. Bốn giải pháp cần làm ngay 149
7. Hoàn thiện phương án tuyển sinh đại học 150
KẾT LUẬN
4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong năm học 2006-2007 tôi đã áp dụng đề tài “Đổi mới phương pháp
dạy học lịch sử ở Trường THPT qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử” và
bước đầu đã đạt kết quả một số kinh nghiệm để làm hành trang trong quá trình
tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn lịch sử (LS) của mình
cố gắng trong năm học 2007-2008 được hiệu quả cao hơn năm học trước.
Với suy nghĩ phải tìm những biện pháp tối ưu nhất trong quá trình đổi
mới PPDH bộ môn LS ở Trường THPT nên tôi đã luôn luôn cố gắng học hỏi
không ngừng về nội dung và PP giảng dạy với mục đích mong muốn làm cho
tiết dạy LS tạo được sự hứng thú học tập ở các em HS.

2. Từ dư luận của báo chí về việc dạy học lịch sử ở THPT
Trong thời gian gần đây, dư luận đặc biệt quan tâm đến văn đề giảng
dạy môn LS trong các trường học. Kết quả môn thi LS qua các kỳ thi là con số
báo động đến tất cả HS, đồng thời là nỗi lo của toàn xã hội trước sự hiểu biết
của giới trẻ về LS nước nhà.
(Sài Gòn Giải Phóng) - Làm thế nào không còn hàng ngàn bài thi sử
dưới điểm trung bình vào mùa thi đại học (ĐH) cũng như tại các cuộc thi
khác? Ngành giáo dục (GD) phải đổi mới ra sao để môn Sử trở nên hấp dẫn,
sinh động hơn? Ngày 31-7-2007, ngay sau khi Báo SGGP có bài “Điểm thi
môn Sử vào ĐH quá thấp : Hậu quả của đổi mới… nửa vời”, nhiều nhà giáo và
bạn đọc đã góp ý kiến tâm huyết. PGS.TS Phạm Xanh cho rằng hiện nay
chúng ta đang “đối xử” không công bằng giữa các môn học. Nếu như một tuần
có tới 5 đến 7 tiết Toán thì tại sao chỉ có một tiết học LS. Phải chăng vì môn
Sử là môn phụ? Và sự “đối xử” đó đã được phản ánh qua các kỳ thi tốt nghiệp
và đại học vùa qua khi điểm môn LS thấp tới mức “kinh hoàng”.
5
Theo PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế - Chủ nhiệm Khoa LS Trường
ĐHKHXH&NV Hà Nội. Mỗi tuần có 1 đến 2 tiết sử thì đừng “đòi hỏi” các em
khi đi thi đạt điểm môn Sử cao như môn Toán, Lý, Hóa PGS Nguyễn Hải Kế
hiện đang làm cố vấn cho game show Theo dòng LS của Ban Khoa giáo - Đài
Truyền hình Việt Nam, có một một bạn trẻ của trường THPT Marie Curie đã
nói với ông: Em thích học Sử, em hiểu được vai trò của LS đối với việc hình
thành nhân cách con người. Nhưng bây giờ em phải học những môn để thi ĐH
nên không có nhiều thời gian cho môn LS. Nếu như em có học môn Sử nhiều
thì bố mẹ em sẽ cấm ngay bởi môn đó em không thi ĐH…
Đỗ Kim Chung (ĐH KHXH&NV TP.HCM): “Nếu xét ở khía cạnh để
nắm các cứ liệu thì điều đó đúng, nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc học thuộc lòng
thì sẽ rất dễ quên khi không nhắc đến nó thường xuyên. Khi kiểm tra, đánh giá
(KT – ĐG) kết quả DH, đề KT đều theo kiểu như: anh (chị) hãy nêu nguyên
nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của ; anh (chị) hãy cho biết các nội dung của

hiệp định Cũng không sai nếu nói rằng HS lớp 2 học thuộc lòng cũng có thể
trả lời được hết những câu hỏi kiểu đó. Tư duy ấy làm HS thụ động với môn
sử, cứ học vẹt từng câu, từng chữ đến khi KT và chép đầy đủ ý vẫn qua.
Nhiều năm học môn sử ở trường phổ thông, tôi chưa từng gặp câu hỏi
kiểu như: Tại sao chúng ta ký hiệp định Vì sao sau Cách mạng tháng 8-1945
nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Những câu hỏi “mở”
mang tính tư duy, suy nghĩ để chọn ý cho phù hợp thì khá hiếm hoi. Thêm vào
đó, lịch sử của cả một thời kỳ với đầy những biến động cùng hàng trăm sự
kiện lớn nhỏ, chi chít những ý nghĩa, nguyên nhân được viết trong một cuốn
sách khá dày nhưng thời lượng học quá ít. Trong khi đó, HS còn nhiều môn
học khác cần phải quan tâm nên thời gian dành cho môn LS cũng bị cắt xén,
bỏ bê. Đồng thời, người dạy còn thiếu phương pháp truyền đạt trực quan như
sử dụng giáo trình điện tử, cung cấp nhiều hình ảnh hoặc cho học sinh tự diễn
những sự kiện LS. Do vậy, môn sử vốn “phức tạp” bởi ngày, tháng, năm, sự
kiện, con số càng gây chán cho người học khi vào tiết sử người học chỉ biết
“dự thính 100%”. Nếu tất cả mọi nơi đều dạy sử theo cách đưa những banner,
học sử qua phim ảnh thì chắc sẽ thu hút người học hơn. Một khi đã thu hút
người học, làm cho người học thích thú môn sử thì chắc chắn việc học môn sử
sẽ tốt hơn”.
Lê Quang Huy (GV): “Tại sao HS đạt điểm thấp môn LS?” Ngoài
nguyên nhân do một bộ phận không nhỏ HS vì yếu các môn khác nên phải
chọn khối thi này, có lẽ ai cũng nhận ra việc các em học nhưng không nhập
tâm được bài học.
Quan niệm hiện nay của không ít phụ huynh, học sinh, thậm chí cả GV,
là học môn LS không có tương lai. Trong khi đó, người thầy chẳng dám “đi
xa” hơn những gì có trong sách, không thể phân tích cặn kẽ vì sợ “cháy” giáo
án. HS đang bị nhiễu loạn thông tin khi phải tiếp thu kiến thức qua phim ảnh,
trên mạng không chính xác. Nhiều em HS thổ lộ với tôi rằng: ngày tháng nhiều
quá nhớ không xuể, dễ lẫn lộn sự kiện này với sự kiện khác. Cách học phổ
6

biến của các em hiện nay là học vẹt chứ không biết hệ thống hóa kiến thức, sự
kiện, đương nhiên điểm sẽ thấp.
Chấn chỉnh ngay chương trình, sách giáo khoa là điều đã được nhiều nhà
giáo đề nghị trong những năm qua. Song song đó thầy cô nên hướng HS có PP
học tập phù hợp với bộ môn, hết sức tránh trường hợp học vẹt vừa mất công
sức, thời gian mà không mang lại hiệu quả. Nếu không kịp thời đổi mới, 2-3
năm tới tình hình này sẽ vẫn tiếp tục, có khi tệ hại hơn”.
Trong một chương trình giao lưu trên VTV2 với chủ đề: “Thế hệ trẻ với
di sản Cách mạng tháng Tám” khi phóng viên của chương trình phỏng vấn các
bạn trẻ ở Hà Nội về Nhà Hát lớn Hà Nội - nơi diễn ra cuộc biểu tình lớn nhất ở
Hà Nội diễn ra ngày 17/8/1945 và cuộc mít tinh Tuyên bố thành lập chính
quyền cách mạng ở Hà Nội ngày 19/8/1945, thì hầu hết các bạn trẻ được hỏi
không biết đến những sự kiện này, mặc dù các bạn đã nhiều lần đến Nhà Hát
lớn.
Phải chăng các bạn trẻ thờ ơ với LS của nước nhà? Tại sao các bạn trẻ
lại không để ý đến chính những di tích LS mà các bạn đã đến nhiều lần?
Theo PGS.TS Phạm Xanh - Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội thì lỗi
không hoàn toàn ở các bạn. Bởi ở di tích LS này chỉ có một tấm biển nhỏ ghi
vài dòng: “Nơi đây đã diễn ra một cuộc mít tinh trong Tổng khởi nghĩa tháng
Tám”. Với tấm biển nhỏ và những thông tin đó không thể thu hút được các bạn
trẻ là điều tất yếu.
Theo PGS. Phạm Xanh lỗi ở đây thuộc về những người làm văn hóa Hà
Nội. Với các di tích LS người ta chỉ gắn một tấm biển theo kiểu: Tại đây, ngày
này diễn ra sự kiện gì… Với cách làm như vậy thì những di tích này chỉ là di
tích “chết” và hậu quả của nó là các bạn trẻ ở Hà Nội chiều chiều vẫn đến Nhà
Hát lớn chơi nhưng chẳng mấy ai biết được nơi đây đã diễn ra những sự kiện
LS gì trong Cách mạng tháng Tám.
Học trong sách vở thì các sự kiện, con số khô cứng. Nhiều trường THPT
hiện nay thường tổ chức cho các HS đi tham quan bảo tàng với hy vọng việc
học sử sẽ hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, có một thực tế là các buổi đi tham quan bảo

tàng của các các bạn trẻ hiện nay không hiệu quả. Theo cô Trần Thị Nhung -
Phó hiệu trưởng Trường THPT Maria Curie mỗi lần nhà trường tổ chức cho
các HS đi tham quan bảo tàng với hàng trăm HS, khi đến bảo tàng chỉ có một
vài nhân viên bảo tàng thuyết minh giới thiệu trong vòng một tiếng, hai tiếng
thì các HS không thể hiểu và nhớ nổi những gì họ nói. Mặt khác, các bảo tàng
hiện nay trưng bày hiện vật không hấp dẫn và ít có sự thay đổi.
Bảo tàng Cách mạng Việt Nam hiện có hơn 15.000 hiện vật về Cách
mạng tháng Tám và mồng 2/9/1945. Tuy nhiên, việc trưng bày lại khá hạn chế
chỉ có khoảng 10%. Đã 14 năm công tác ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam chị
Nguyễn Tường Khanh cho biết : mặc dù có sự thay đổi về cách trưng bày
nhưng đó chỉ là những thay đổi không đáng kể và đặc biệt là những thông tin
đi kèm theo các hiện vật hầu như là không có.
7
Kỳ thi năm nào cũng vậy, kết quả thi môn LS luôn khiến nhiều người
trăn trở nhất : thống kê cho thấy có đến 90% bài thi môn này dưới điểm trung
bình. Làm thế nào không còn hàng ngàn bài thi sử dưới điểm trung bình vào
mùa thi đại học (ĐH) cũng như tại các cuộc thi khác? Ngành GD phải đổi mới
ra sao để môn Sử trở nên hấp dẫn, sinh động hơn?
Vậy phải làm gì để khắc phục tình trạng này ? Trước vấn đề mang tính
xã hội nhiều nhà giáo và bạn đọc đã góp ý kiến tâm huyết. Muốn HS yêu Sử,
hãy bắt đầu từ những điều gần gũi. Theo ông Phạm Văn Hà (Sở GD - ĐT Hà
Nội):
Thứ nhất, nên biến quan điểm, sự kiện, vấn đề thành những câu chuyện
LS, trong đó đặc biệt chú ý đến việc liên hệ tới những nét riêng của LS địa
phương với những con người, địa danh có thật. Những câu chuyện LS bao giờ
cũng khiến HS nhớ lâu hơn những con số, sự kiện khô khan.
Thứ hai, hầu hết các trường học của Hà Nội đều mang tên các vị anh
hùng, những người có công với đất nước, nhưng không phải HS nào cũng hiểu
rõ về lai lịch, ý nghĩa của những cái tên ấy. Niềm đam mê, yêu thích khám phá
LS nhiều khi bắt nguồn từ sự khâm phục, tự hào về những nhân vật mà mình

đã biết. Bởi thế, muốn HS yêu Sử, trước hết, mỗi đầu năm học, các nhà trường
nên dành thời gian nói chuyện về các nhân vật LS mà trường mang tên, hoặc
mở cuộc thi tìm hiểu về những đóng góp của nhân vật ấy để HS có cơ hội tiếp
cận thêm những thông tin mới.
Thứ ba, các phòng truyền thống của trường không nên chỉ dừng lại ở
việc lưu giữ, trưng bày những hình ảnh, thành tích hoạt động của thầy- trò các
thế hệ, mà còn là nơi ghi lại tên tuổi của các cựu GV, HS của trường đã anh
dũng hy sinh vì Tổ quốc, có nhiều đóng góp để xây dựng nhà trường. Nhớ ơn
các anh hùng, liệt sĩ, lớp thế hệ HS sẽ không chỉ thêm tự hào về ngôi trường
mình, mà còn ra sức học tập, rèn luyện, xứng đáng với những cống hiến của
cha anh.
Sáng kiến của TP Hồ Chí Minh trong việc treo những tấm pa-nô có
thông tin về những vị anh hùng trên các đường phố thời gian qua cũng là một
cách làm hay để các nhà trường tham khảo.
Đây là lần đầu tiên nội dung chính ba bản tuyên ngôn được tiếp xúc đến
người dân hết sức gần gũi và giản dị thông qua các tấm Pa-nô treo dọc các trục
đường chính. Đó là những áng văn bất hủ và hào hùng trong bài Nam quốc sơn
hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi và Bản Tuyên
ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình cách đây 62
năm.
Rất nhiều người dân TP.HCM đã khẳng định: Những câu trích trong tấm
pa-nô là rất thích hợp, phản ánh đúng tinh thần của bản tuyên ngôn đó. Nội
dung cơ bản của nó đã khẳng định chủ quyền dân tộc, cảnh cáo tất cả bọn
ngoại xâm dám đến xâm phạm chủ quyền của dân tộc ta , nhân dân ta.
Cùng với 3 bản Tuyên ngôn Độc lập là danh sách tóm tắt về tiểu sử của
tám mươi mốt nhân vật LS xếp theo thứ tự năm hy sinh hoặc năm mất, được
8
tính từ 2/9/1945 trở đi. Đó là những chiến sĩ cộng sản, nhân sĩ, chí sĩ, học giả
nhà văn hóa, nhà tu hành, bác sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ…Tất cả họ đều đặt lợi ích dân
tộc lên trên hết, sẵn sàng hy sinh tính mạng khi Tổ quốc lâm nguy.

Theo Giáo sư Huỳnh Lúa: Danh sách những anh hùng được giới thiệu
lần này đã thể hiện được tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập mà Bác Hồ
viết: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.”
Có thể nói đây là lần thứ ba TP.HCM triển khai chương trình “Dân ta
biết sử ta”. Đó cũng là cách thiết thực kỷ niệm ngày khai sinh đất nước. Thông
tin về tiểu sử các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những áng văn, những câu thơ
bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập được tuyên truyền trên đường phố hôm
nay đã góp phần nhắc nhở người dân Việt Nam về LS dân tộc, góp phần bồi
dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam,
cùng nhau xây dựng đất nước “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” trong
thời kỳ hội nhập.
Giảng viên TƯỞNG PHI NGỌ, Khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm TPHCM:
Đề thi cần đòi hỏi thí sinh độc lập suy nghĩ
Giữa dạy học và ra đề thi có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
yêu cầu của đề thi mang tính định hướng đối với việc dạy và học của thầy và
trò. Dạy học không hoàn toàn hướng tới mục đích thi nhưng trên thực tế, tỷ lệ
HS đậu bao nhiêu phần trăm luôn được coi là thước đo đánh giá việc dạy và
học. Do vậy, đề ra kiểu nào thì dạy và học kiểu đó. Nhiều năm nay, đề thi Sử
gồm vài ba câu không quá khó, chỉ cần thí sinh (TS) chăm chỉ, thuộc bài là có
nhiều khả năng đậu. Sự hơn nhau giữa các TS về căn bản không phải ở khả
năng tư duy độc lập mà ở chỗ có học thuộc đúng những nội dung đề thi đã ra.
Do vậy, tôi xin kiến nghị : Các đề kiểm tra, thi ở THPT (kể cả kỳ thi tốt
nghiệp) cần chuyển sang hướng yêu cầu TS độc lập suy nghĩ nhiều hơn. Câu
chữ của đề cần được diễn đạt sao cho dễ hiểu, chính xác. Sắp tới Bộ GD – ĐT
sẽ triển khai thi trắc nghiệm ở môn LS. Phương thức thi này có thể kiểm tra
được nhiều nội dung trong thời gian ngắn, nhưng không đo được khả năng của
mỗi TS trong việc nhận thức, trình bày, diễn đạt và giải quyết vấn đề một cách
sáng tạo.
PGS-TS NGUYỄN THỊ CÔI, Khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm Hà Nội:

Làm một cuộc cách mạng về vị trí môn lịch sử
Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học Sử của HS rất cần thiết, có tác
dụng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Muốn đổi mới cần xây
dựng và sử dụng các dạng sách bài tập (BT) LS trong dạy học có vai trò rất
quan trọng đối với quá trình, củng cố kiến thức LS cho HS. GV có thể sử dụng
các loại BT dưới dạng một câu hỏi tổng hợp, BT nhằm rèn kỹ năng thực hành,
hệ thống khái quát hóa kiến thức và vận dụng kiến thức, BT trắc nghiệm khách
quan. Để có những bài tập chất lượng đòi hỏi GV phải đầu tư suy nghĩ, tìm tòi,
sáng tạo. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá không chỉ là công việc của GV đứng
lớp mà còn là công việc của cấp quản lý. Bên cạnh đó, phải làm một cuộc cách
9
mạng trong quan niệm về vị trí môn LS từ cấp quản lý GD cao nhất đến ban
giám hiệu, cha mẹ HS và toàn xã hội. Cổ nhân từng dạy “lịch sử là cô giáo của
cuộc sống”, không có quan niệm đúng về môn học thì tất cả những đề xuất đổi
mới nội dung, PP, trong đó có hoạt động kiểm tra, đánh giá không thể đi vào
thực tiễn được.
ThS PHẠM PHÚC VĨNH, Bộ môn Lịch sử Trường ĐHSP Đồng Tháp:
Phải đổi mới cách tổ chức lớp học
Cách tổ chức lớp học phổ biến ở nhà trường phổ thông hiện nay còn
mang nặng tính áp đặt chủ quan, nó gián tiếp tạo nên sự bất bình đẳng đối với
HS trong quá trình dạy học. Trừ những HS có khả năng tương ứng với nội
dung và PPDH của GV trên lớp, số HS còn lại đang bị ép buộc phải tiếp nhận
những kiến thức hoặc quá cao, hoặc quá thấp so với khả năng của mình, làm
mất đi hứng thú, động lực học tập của một bộ phận khá lớn HS. Thực tế đó đòi
hỏi chúng ta phải làm sao để trong tất cả các môn học nói chung và môn LS
nói riêng, HS sẽ được học ở những lớp học có nội dung và PP phù hợp với khả
năng của mình? Chúng tôi cho rằng, để HS khá giỏi có điều kiện phát triển
năng khiếu của mình và các đối tượng HS khác có thể tiếp thu được những nội
dung bài học với PP thích hợp với khả năng của mình, các trường THPT nên tổ
chức lớp học theo từng môn học với nội dung, chương trình với PPDH được

phân thành nhiều mức độ từ cao đến thấp, tương ứng với khả năng của từng đối
tượng HS từ giỏi đến yếu kém.
(Tuổi Trẻ 29/7/2007) - Khi còn là HS, lúc “lều chõng” đi thi khối C,
tôi lo nhất là làm sao làm tốt môn LS. Chúng tôi được dạy rằng : học LS là
học thuộc lòng. Nếu xét ở khía cạnh để nắm các cứ liệu thì điều đó đúng,
nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc học thuộc lòng thì sẽ rất dễ quên khi không nhắc
đến nó thường xuyên. Khi kiểm tra, đánh giá kết quả dạy và học, đề kiểm tra
đều theo kiểu như: anh (chị) hãy nêu nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa
của ; anh (chị) hãy cho biết các nội dung của hiệp định Cũng không sai nếu
nói rằng học sinh lớp 2 học thuộc lòng cũng có thể trả lời được hết những câu
hỏi kiểu đó. Tư duy ấy làm học sinh thụ động với môn sử, cứ học vẹt từng câu,
từng chữ đến khi kiểm tra và chép đầy đủ ý vẫn qua.
Nhiều năm học môn sử ở trường phổ thông, tôi chưa từng gặp câu hỏi
kiểu như: Tại sao chúng ta ký hiệp định Vì sao sau Cách mạng tháng 8-1945
nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Những câu hỏi “mở” mang
tính tư duy, suy nghĩ để chọn ý cho phù hợp thì khá hiếm hoi. Thêm vào đó,
LS của cả một thời kỳ với đầy những biến động cùng hàng trăm sự kiện lớn
nhỏ, chi chít những ý nghĩa, nguyên nhân được viết trong một cuốn sách khá
dày nhưng thời lượng học quá ít. Trong khi đó, HS còn nhiều môn học khác
cần phải quan tâm nên thời gian dành cho môn LS cũng bị cắt xén, bỏ bê.
Đồng thời, người dạy còn thiếu PP truyền đạt trực quan như sử dụng giáo trình
điện tử, cung cấp nhiều hình ảnh hoặc cho học sinh tự diễn những sự kiện lịch
sử.
10
Do vậy, môn sử vốn “phức tạp” bởi ngày, tháng, năm, sự kiện, con số
càng gây chán cho người học khi vào tiết sử người học chỉ biết “dự thính
100%”. Nếu tất cả mọi nơi đều dạy sử theo cách đưa những banner, học sử qua
phim ảnh thì chắc sẽ thu hút người học hơn. Một khi đã thu hút người học,
làm cho người học thích thú môn sử thì chắc chắn việc học môn sử sẽ tốt hơn.
ĐỖ KIM CHUNG (ĐH KHXH&NV TP.HCM) Người thầy sợ “cháy”

giáo án
Tại sao HS đạt điểm thấp môn LS? Ngoài nguyên nhân do một bộ phận
không nhỏ HS vì yếu các môn khác nên phải chọn khối thi này, có lẽ ai cũng
nhận ra việc các em học nhưng không nhập tâm được bài học.
Quan niệm hiện nay của không ít phụ huynh, HS, thậm chí cả GV, là
học môn LS không có tương lai. Trong khi đó, người thầy chẳng dám “đi xa”
hơn những gì có trong sách, không thể phân tích cặn kẽ vì sợ “cháy” giáo án.
HS đang bị nhiễu loạn thông tin khi phải tiếp thu kiến thức qua phim ảnh, trên
mạng không chính xác. Nhiều em HS thổ lộ với tôi rằng: ngày tháng nhiều quá
nhớ không xuể, dễ lẫn lộn sự kiện này với sự kiện khác. Cách học phổ biến của
các em hiện nay là học vẹt chứ không biết hệ thống hóa kiến thức, sự kiện,
đương nhiên điểm sẽ thấp.
Chấn chỉnh ngay chương trình, SGK là điều đã được nhiều nhà giáo đề
nghị trong những năm qua. Song song đó thầy cô nên hướng học sinh có PP
học tập phù hợp với bộ môn, hết sức tránh trường hợp học vẹt vừa mất công
sức, thời gian mà không mang lại hiệu quả. Nếu không kịp thời đổi mới, 2-3
năm tới tình hình này sẽ vẫn tiếp tục, có khi tệ hại hơn.
(Hà Nội Mới 16/8/2007) - Kỳ thi năm nào cũng vậy, kết quả thi môn
Lịch sử luôn khiến nhiều người trăn trở nhất : thống kê cho thấy có đến
90% bài thi môn này dưới điểm trung bình. Rất nhiều lý do đã được đưa ra,
như nội dung chương trình, kiến thức trong SGK còn nặng về lý thuyết. Bởi
thế, GV cũng chỉ cố gắng truyền đạt đủ kiến thức quy định, không còn thời
gian để cùng học trò khám phá những cái hay của môn học. Thứ hai là do PP
đào tạo GVLS ở các trường sư phạm hiện nay quá cứng nhắc với những sự
kiện, con số mà ít chú ý đến việc liên hệ thực tiễn Và rất nhiều lý do khác.
3. Từ việc Bộ GD –ĐT triển khai một số hoạt động về CNTT&TT
11
Ngày 07/9/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã có Công văn số
9584/BGDĐT-CNTT gửi các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học, cao
đẳng sư phạm, các khoa sư phạm hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học

2007-2008 về CNTT.
Để đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ về CNTT đã đề ra
tại Công văn 9584 nêu ở trên, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là chuẩn bị cho
năm học 2008-2009 là “Năm học Công nghệ thông tin”, cũng như triển khai
Chỉ thị 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ kí ngày 29/11/2007 về Chấn
chỉnh việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo trong hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước, Bộ GD&ĐT hướng dẫn và yêu cầu các Sở
GD&ĐT triển khai thực hiện ngay một số hoạt động sau :
1. Tổ chức triển khai việc cung cấp e mail với tên miền @moet.edu.vn cho
tất cả các trường phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
ngoại ngữ tin học, các trường trung cấp chuyên nghiệp Bộ GD&ĐT hoan
nghênh các Sở, các trường ĐH, CĐ đã tích cực tham gia để hệ thống hoạt động
thường xuyên, hiệu quả phục vụ trực tiếp cho công tác thông tin, liên lạc, báo
cáo, chỉ đạo, điều hành của Bộ, của ngành.
Bộ cũng đề nghị các Sở tiếp tục gửi danh sách để lập địa chỉ e mail với
tên miền @moet.edu.vn cho tất cả các trường tiểu học, THCS, THPT về
Bộ theo mẫu đã hướng dẫn của Cục Công nghệ thông tin tại CV
11224/BGDĐT-CNTT. Kế hoạch này cần hoàn thành trước ngày 15/01/2008.
2. Triển khai việc cung cấp e mail cho mỗi học sinh, mỗi giáo viên của các
trường với tên miền của Sở. Các Sở GD&ĐT cần đăng ký tên miền riêng, ví
dụ như Sở GD&ĐT tỉnh Hòa Bình đăng kí tên miền là @hoabinh.edu.vn.
Thống nhất sử dụng kí hiệu C1, C2, C3 trong tên e mail để chỉ các bậc học tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông tương ứng; C12 và C23 cho trường
hỗn hợp; C0 để chỉ bậc mẫu giáo.
Trước hết, ngay trong năm học 2007-2008 này, đề nghị các Sở ưu tiên
tạo ngay e mail của Sở cho học sinh THPT, đặc biệt cho học sinh lớp 12 để
phục vụ cho việc nhận thông tin đăng kí thi tuyển sinh, hướng nghiệp năm
2008.
3. Triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục: Các Sở cần triển khai
thống nhất hệ thống phần mềm quản lý trường học do Cục CNTT cung cấp

miễn phí. Trên cơ sở phần mềm quản lí trường học này, Cục CNTT sẽ cung
cấp các công cụ quản lý các cấp (Bộ, Sở, Phòng) để thống nhất cơ sở dữ liệu
về giáo dục phổ thông gồm giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất, thi Bộ
GD&ĐT thống nhất quản lý nhà nước về cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin
12
quản lí giáo dục về một đầu mối là Cục CNTT để tránh chồng chéo gây lãng
phí và đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn hệ thống thông tin giáo dục.
Hàng năm, Cục CNTT có trách nhiệm cập nhật phần mềm theo yêu cầu
mới, thu thập và xử lý dữ liệu, cung cấp lại các thông tin cần thiết và hữu ích
phục vụ cho công tác quản lý của các cấp quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng).
Cục CNTT đã gửi đĩa CD chứa đầy đủ thông tin dữ liệu phân tích hai kì
thi tốt nghiệp THPT và kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng của từng trường,
từng hội đồng thi để các Sở tham khảo và phổ biến đến các trường, các lớp để
cùng nghiên cứu rút kinh nghiệm, phục vụ cho cuộc vận động hai không.
4. Khai thác và sử dụng mã nguồn mở trong quản lý và giảng dạy
Khai thác và sử dụng phần mềm mã nguồn mở trong các đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước là một chủ trương lớn của Nhà nước. Vì vậy Bộ cũng nghị
các đơn vị, cơ sở giáo dục cần triển khai ngay các phần mềm mã nguồn mở
trong công tác dạy học chính thức trong trường phổ thông và trong công tác
quản lý :
a) Bộ phần mềm văn phòng Open Office www.OpenOffice.Org., do hãng
SUN phát triển, có thể tải về miễn phí tại địa chỉ trên.
Trong đó có các modun Soạn thảo văn bản (Writer), Bảng tính điện tử
(Spreasheet), Đồ họa (Draw), Trình chiếu (Presentation) và Cơ sở dữ liệu
(Base). Các modun này hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu sử dụng trong công tác
quản lý và giảng dạy, tương đương với Microsoft Office.
Các đơn vị có thể dùng bản Star Office, (là phiên bản thương mại của
Open Office), có thể tải về miễn phí
tại địa chỉ của Google.
Hiện nay toàn bộ các máy tính của các cơ quan Đảng đã được chuyển

sang dùng bộ phần mềm văn phòng Open Office. Bộ Thông tin và Truyền
thông đã thành lập Hội đồng tư vấn và sẽ có hướng dẫn việc dùng Open Office
trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước.
Các đơn vị cũng có thể sử dụng bộ phần mềm King Office, bản
standard, được công ty King Soft cung cấp miễn phí cho ngành giáo dục. King
Office có ưu điểm gọn nhẹ (28 MB), gài đặt nhanh chóng (3 phút) và có giao
diện hoàn toàn giống Microsoft Office nên thuận tiện trong giảng dạy môn tin
học văn phòng trong nhà trường (trừ phần cơ sở dữ liệu).
13
b) Việc mua bản quyền các phần mềm như Microsoft Office sẽ do Cục CNTT
làm đầu mối quản lý và triển khai thống nhất trong toàn ngành khi có hướng
dẫn cụ thể của Bộ Thông tin và Truyền thông. Theo đó các đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước không tự mua các phần mềm này.
c) Bộ gõ tiếng Việt (mã nguồn mở) Unikey. Các đơn vị cần chuyển hẳn sang
dùng bộ mã unicode theo TCVN 6909, tuyệt đối không tiếp tục sử dụng các bộ
mã khác như ABC, VNI trong giao dịch điện tử.
d) Trình duyệt web Firefox tải về miễn phí.
5. Triển khai hệ thống họp qua mạng điện thoại và video
Đây là hệ thống thông tin đa phương tiện được đề cập đến trong Chỉ thị
27. Trước mắt, theo điều kiện của địa phương, các Sở có thể trang bị hệ thống
họp qua điện thoại (không có hình) bằng việc mua thiết bị hội nghị thoại
(audio station) như của Polycom, ClearOne, Microtel… Đây là thiết bị điện
thoại phục vụ họp nhiều người từ nhiều điểm qua thoại của Bộ đã được thiết
lập bằng cách quay điện thoại về số máy 19001563 (Sau đó bấm thêm phòng
họp số … và mật khẩu). Cục CNTT sẽ phổ biến chi tiết.
Việc thiết lập hệ thống họp qua video conference đối với các Sở sẽ được
nghiên cứu và triển khai trong thời gian tới.
6. Triển khai hội thảo bài giảng điện tử e Learning
Phong trào làm bài giảng sử dụng phần mềm trình chiếu powerpoint
những năm qua đã có nhiều kết quả. Cục CNTT sẽ chủ trì và hướng dẫn công

nghệ làm bài giảng điện tử e Learning và chủ trì hội thảo khai thác thiết bị
CNTT, hội thi bài giảng điện tử, sử dụng CNTT trong đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy theo hướng tạo bài giảng e Learning, hội thảo và dạy
học online, áp dụng kết hợp với các thiết bị thí nghiệm đo lường điện tử.
7. Định hướng hoạt động thi đua về CNTT
Các hoạt động trên cùng với việc triển khai các hoạt động về CNTT
khác của các đơn vị, cơ sở giáo dục nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
năm học về CNTT, trước mắt phấn đấu nhằm đạt được một số kết quả cụ thể
sau:
a) Mỗi Sở GD&ĐT có tên miền riêng của Sở để thiết lập website và hệ thống e
mail quản lý. (Việc tạo e mail theo tên miền của Sở hiện nay là hoàn toàn miễn
phí trên nền gmail, các Sở không cần đầu tư mua máy chủ và không mất nhân
lực bảo dưỡng hệ thống).
14
b) Mỗi cán bộ của Sở, mỗi học sinh THCS và THPT, mỗi giáo viên có một e
mail theo tên miền của Sở.
c) Các Sở có thể tạo trang web của Sở như là một trang của mạng giáo dục của
Bộ. Các Sở cần cử cán bộ chuyên trách cung cấp và cập nhật thông tin cho
trang web này.
d) Mỗi trường THPT có phòng máy tính (với số lượng ít nhất là 25 máy) có
nối mạng nội bộ và kết nối Internet băng thông rộng ADSL. Chúng ta tiến tới
đạt chỉ tiêu ít nhất 20 học sinh/máy.
đ) Đến cuối năm 2008, cố gắng phấn đấu tất cả các trường đều được kết nối
Internet băng thông rộng ADSL. Ở những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng núi
cao, cần sử dụng kết nối Internet băng thông rộng qua chảo vệ tinh VSAT-IP.
e) Công tác biên soạn bài giảng điện tử: Khuyến khích mỗi trường THPT,
THCS tạo mới nhiều thêm bài giảng điện tử của các môn học, đặc biệt cho cả
các môn khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa, Nhạc, Họa. Khuyến khích giáo
viên tham khảo các tài liệu, bài giảng điện tử của đồng nghiệp trong công tác
giảng dạy song cần phát huy tính tích cực học tập thông qua thảo luận nhóm,

tổ chức cho học sinh tập tự giải quyết vấn đề, khuyến khích cách suy nghĩ độc
lập và suy xét, phản biện lại vấn đề. Tránh lạm dụng thái quá CNTT trong giờ
giảng như dùng nhiều hiệu ứng chữ chuyển động, mầu lòe loẹt, phông chữ khó
đọc, tham ghi nhiều chữ và cỡ chữ nhỏ, không có thời gian cho học sinh thảo
luận
f) Bộ GD&ĐT đã giao cho Cục CNTT chủ trì, tổ chức hội thảo và hội thi bài
giảng điện tử, khai thác thiết bị CNTT để đổi mới nội dung và phương pháp
giảng dạy theo hướng công nghệ e Learning. Hội thảo này dự kiến tổ chức vào
tháng 3/2008. Đề nghị các Sở tổ chức cho các trường tham gia tích cực.
g) Sử dụng các phần mềm mã nguồn mở trong công tác quản lý và giảng dạy
như Open Office, Unikey, FireFox.
h) Triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục do Cục CNTT cung cấp.
Việc hoàn thành các công việc trên sẽ là những nội dung của việc đánh
giá thi đua, khen thưởng các đơn vị, cơ sở giáo dục các địa phương năm học
2007 – 2008 về công tác CNTT.
Cũng theo qui định tại Công văn số 9584/BGDĐT-CNTT ngày
07/9/2007, Bộ yêu cầu các Sở gửi về Bộ (qua e-mail: )
báo cáo kế hoạch CNTT năm học 2007 -2008 và danh sách đơn vị đầu mối về
CNTT của Sở.
15
Ngày 20-12-2007: tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Phó Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân có
buổi đối thoại trực tiếp với các đại biểu tham dự Đại hội (ĐH) Đoàn toàn quốc
lần thứ IX. “Chính phủ đã nghe báo cáo của Đoàn thanh niên, những vấn đề
lớn mà Đoàn đặt ra. Có thể nói chính phủ, nhân dân đánh giá cao Đoàn thanh
niên đã giáo dục tuổi trẻ”, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân mở đầu bài nói
chuyện. Sau khi điểm lại những thành tựu vượt bậc của Việt Nam hơn 100
năm qua, kể từ khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Phó Thủ tướng khẳng
định 3 cơ hội mà Việt Nam đang phải đối mặt đó là toàn cầu hóa, kinh tế tri
thức và xã hội công dân. “Chính ở đây là thời cơ và vai trò của đoàn thanh

niên. Khi bước vào toàn cầu hóa và WTO có nghĩa rằng thị trường thế giới
mở cửa bình đẳng, điều kiện xuất khẩu mạnh lên, đây là cơ hội. Lao động kết
tinh vào sản phẩm lớn. Toàn cầu hóa dẫn tới đặc diểm là cầu thế giới kích
thích sản xuất trong nước. Cơ chế này đã hoàn thành, nhưng theo theo điều
kiện của họ”, Phó Thủ tướng nói.
4. Từ chỉ đạo của các Sở GD - ĐT triển khai ứng dụng CNTT&TT
Trong khi đó, một số tỉnh khác lại cập nhật khá tốt nội dung của trang
giáo dục trong website của tỉnh. Trên website của UBND tỉnh Đồng Nai và
Ninh Thuận có rất nhiều thông tin được cập nhật. Chánh văn phòng Sở Giáo
dục - Đào tạo Ninh Thuận cho biết những thông tin mới về ngành giáo dục
được tải lên trang web đều đặn. Chúng tôi thử vào trang web của UBND tỉnh
Ninh Thuận và thấy có những tin như: Lãnh đạo tỉnh chúc mừng ngày Nhà
giáo Việt Nam 20.11; Xã hội tôn vinh người thầy đăng ngày 20.11; Ngành
giáo dục với công tác an toàn giao thông đăng ngày 20.10. Vào trang web của
tỉnh Đồng Nai ngày 1.11.2007, trong trang giáo dục thấy có lịch công tác của
Sở Giáo dục - Đào tạo cho đến hết ngày 3.11.
Còn có chi tiết từng ngày Ban giám đốc Sở làm việc với trường nào, ở
đâu, rất rõ ràng và cập nhật nhiều bài viết mới về giáo dục trong tỉnh. Ngày
30.11, vào trang giáo dục của website: hue.vnn.vn có những bài viết về giáo
dục mới nhất trong ngày cho dù lấy từ báo khác như bài: Chưa bao giờ giữ bí
mật về thu học phí; Lại chậm thiết bị dạy học ở nhiều địa phương Vào trang
"Sở giáo dục" trong website của UBND tỉnh Lào Cai, có những thông tin mới
được cập nhật trong Ngày nhà giáo Việt Nam; những mô hình hay, tấm gương
học sinh vượt khó được đăng trước đó vài ngày
Ngày 12.12.2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Bộ đang đề nghị các
Sở GD – ĐT gửi danh sách học sinh để lập địa chỉ email với tên miền
@moet.edu.vn cho tất cả các trường tiểu học, THCS, THPT trước. ngày
15.1.2008.
16
Trong đó, ngay trong năm học 2007-2008 này, ưu tiên tạo ngay email

cho học sinh THPT, đặc biệt cho HS lớp 12 để phục vụ cho việc nhận thông tin
đăng ký thi tuyển sinh, hướng nghiệp năm 2008.
Cục Công nghệ thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng đã gửi đĩa CD
chứa đầy đủ thông tin dữ liệu phân tích hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và kỳ thi
tuyển sinh ĐH, CĐ của từng trường, từng hội đồng thi để các sở tham khảo và
phổ biến đến các trường, lớp để nghiên cứu rút kinh nghiệm, phục vụ cho cuộc
vận động "Hai không".
Căn cứ chỉ thị số 39/2007/CT-BGD&ĐT ngày 31/7/2007 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về nhiệm vụ trọng tâm năm học 2007-
2008; căn cứ Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công
nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; căn cứ
công văn số 9584/BGDĐT-CNTT ngày 7/9/2007 của Bộ GD&ĐT về việc
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT. Hưởng ứng
cuộc vận động của Bộ GD&ĐT lấy năm học 2008-2009 là “Năm học công
nghệ thông tin”, “trong năm học 2007-2008 toàn ngành cần chuẩn bị thật tốt
các nguồn lực nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực về ứng dụng CNTT trong
quản lý và giảng dạy. Tập trung nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị; mở rộng
việc đưa Tin học vào giảng dạy trong các nhà trường; đổi mới nhận thức và
nâng cao kỹ năng CNTT cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; thực hiện
đồng bộ việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động, trọng tâm vào công tác
giảng dạy, xây dựng kho học liệu điện tử trong từng trường học, từng quận,
huyện và toàn thành phố”.
1. Củng cố và nâng cấp cơ sở vật chất thiết bị về CNTT&TT
Các đơn vị, trường học tiến hành kiểm kê cơ sở vật chất, thiết bị CNTT
đầu năm học, lập kế hoạch thanh lý máy cũ hỏng, sửa chữa, nâng cấp, mua
sắm, bổ sung máy tính nhằm đáp ứng các yêu cầu về dạy Tin học cho học sinh
và cho công tác quản lý, giảng dạy. Ngoài ra, cần trang bị thêm một số phương
tiện kỹ thuật số khác phục vụ cho giảng dạy như: máy quét ảnh, máy chiếu đa
năng (Projector), máy chiếu vật thể 3 chiều, máy ảnh số, Phát huy tối đa hiệu
quả sử dụng máy tính thông qua việc tăng thời lượng sử dụng hữu ích cho

máy, tuyệt đối không để máy tính ngừng sử dụng thời gian dài.
Các trường trung cấp chuyên nghiệp (TCCN), trung học phổ thông
(THPT), các trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp (GDKTTH), trung tâm giáo
17
dục thường xuyên (GDTX) đều phải có mạng nội bộ và kết nối Internet băng
thông rộng (ADSL). Trong đó phải bố trí máy tính làm việc và truy cập
Internet dành riêng cho giáo viên trong phòng bộ môn, phòng chờ lên lớp, thư
viện, hội trường, và một số phòng truy cập Internet riêng cho học sinh.
Các phòng GD&ĐT tham mưu, đề xuất với UBND quận, huyện đầu tư
kinh phí tăng cường cơ sở vật chất thiết bị CNTT cho các cơ sở giáo dục trực
thuộc, tập trung vào các nội dung:
- Đảm bảo đủ máy tính, thiết bị CNTT dạy môn Tin học cho học sinh
theo chương trình của Bộ GD&ĐT và phục vụ cho việc ứng dụng CNTT trong
quản lý, giảng dạy tại các trường học.
- Kết nối Internet băng thông rộng (ADSL), nối mạng nội bộ cho 100%
số trường THCS và một số trường Tiểu học, Mầm non trên địa bàn để giáo
viên được sử dụng, khai thác Internet đồng thời giúp cho việc trao đổi thông
tin trên mạng được thuận lợi.
Cùng với việc mua thiết bị (phần cứng), cần phải dành kinh phí và quan
tâm đầu tư trang bị phần mềm nhằm tin học hóa các hoạt động và nâng cao
hiệu quả sử dụng máy tính. Xây dựng, tuyển chọn, mua công cụ tạo và quản lí
bài giảng điện tử, các phần mềm dạy học, phần mềm thí nghiệm ảo và e-
Learning, các phần mềm quản lý trường học
Các đơn vị triển khai sử dụng các phần mềm dùng chung cần nghiên cứu
kỹ tính đồng bộ với dữ liệu chung, tính khả thi và báo cáo Sở để tổ chức thẩm
định theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng CNTT cho cán bộ quản lý,
giáo viên, nhân viên
Tuyên truyền, phổ biến Luật Công nghệ thông tin, Nghị định 64 của
Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các

văn bản chỉ đạo của Bộ và Sở GD&ĐT nhằm xác định nhiệm vụ, trách nhiệm
về CNTT đối với các đơn vị, trường học và đối với mỗi cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên. Mỗi bộ phận, tổ chức, cá nhân trong đơn vị phải cụ thể hóa
nội dung các văn bản trên vào các hoạt động quản lý và chuyên môn của mình.
Các đơn vị, trường học có trách nhiệm chủ động phổ cập Tin học cơ bản
(kỹ năng soạn thảo văn bản, truy cập Internet, sử dụng thư điện tử, phần mềm
trình chiếu) cho tất cả cán bộ quản lý và giáo viên (ưu tiên phổ cập trước cho
độ tuổi dưới 50 đối với nam và dưới 45 đối với nữ), tuyển dụng và cử giáo
viên đi đào tạo trình độ nâng cao về tin học để có thể quản trị mạng máy tính
của đơn vị, xây dựng, khai thác sử dụng phần mềm dạy học và quản lý.
Các Phòng GD&ĐT quận, huyện có trách nhiệm tổ chức các lớp đào tạo
và bồi dưỡng Tin học cơ bản và theo chuyên đề cho cán bộ quản lý, giáo viên
trong địa bàn, đồng thời đôn đốc chỉ đạo, kiểm tra các trường về việc phổ cập
và nâng cao trình độ tin học tại cơ sở.
Trong năm học, Sở Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức các khoá đào tạo sử
dụng phần mềm dạy học bộ môn, các hội thảo về xây dựng, sử dụng phần
mềm và bài giảng điện tử trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
18
1- Triển khai đồng bộ ứng dụng CNTT trong quản lý giáo dục và đào tạo
Thực hiện nghiêm túc việc trao đổi thông tin trên mạng (thông qua trang
web của Sở và hệ thống thư điện tử nội bộ, không sử dụng giấy) đối với một số
loại văn bản: thông báo, giấy mời, lịch hoạt động, văn bản hướng dẫn, báo
cáo, từ Sở đến các đơn vị trực thuộc và ngược lại. Các Phòng GD&ĐT quận,
huyện thực hiện giao dịch, trao đổi thông tin với cơ sở qua các hộp thư điện tử
được các nhà cung cấp dịch vụ Internet cấp cùng với dịch vụ kết nối.
Tất cả các trường phổ thông và TCCN đều phải sử dụng phần mềm tin
học hóa các hoạt động quản lý: quản lý nhân sự; quản lý học sinh và kết quả
học tập; quản lý thi, kiểm tra và tuyển sinh, quản lý tài chính, tài sản, nhân sự
cán bộ, viên chức,…chú ý đảm bảo sự đồng bộ và liên thông dữ liệu giữa các
cấp học. Riêng đối với quản lý thư viện trường học, Sở sẽ tổ chức triển khai

phần mềm dùng chung trong học kỳ I cho các trường có nhu cầu và đủ điều
kiện đáp ứng.
Các đơn vị trường học đã nối mạng nội bộ phải thực hiện triển khai các
ứng dụng trên mạng: xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, chia sẻ thông tin,
tăng cường giao dịch qua mạng giữa các bộ phận, tổ, khoa, phòng,
Bố trí sắp xếp các máy tính truy cập Internet thuận tiện cho cán bộ, viên
chức, nhân viên trong đơn vị được truy cập Internet miễn phí nhằm khai thác,
trao đổi thông tin nâng cao nhận thức và phục vụ chuyên môn công tác.
Các phòng GD&ĐT quận, huyện cần tổ chức sử dụng các phần mềm
quản lý đồng bộ từ Phòng đến cơ sở trực thuộc giúp cho việc thống kê, báo cáo
thống nhất, thuận tiện; thực hiện quản lý chặt chẽ kết quả giáo dục hàng năm
của học sinh cấp THCS phục vụ cho việc thi và xét tuyển THPT thông qua
phần mềm quản lý từ Sở đến các trường.
Khuyến khích các đơn vị trường học xây dựng và duy trì trang thông tin
điện tử (website) và dịch vụ trực tuyến qua mạng internet, mạng điện thoại trao
đổi thông tin giữa gia đình học sinh với nhà trường. Trong quá trình thực hiện
cần đảm bảo nguyên tắc bảo vệ và bí mật thông tin cá nhân. Các trường Trung
cấp chuyên nghiệp phải có website nhằm cung cấp, trao đổi thông tin và quảng
bá rộng rãi ngành nghề đào tạo.
2- Triển khai rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, xây dựng
kho học liệu điện tử trong từng trường học, từng quận huyện và toàn
thành phố.
Các đơn vị, trường học phải tổ chức và tạo điều kiện cao nhất cho giáo
viên tất cả các bộ môn sử dụng phương tiện kỹ thuật số, sử dụng phần mềm
máy tính hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy và học tập. Các trường Trung cấp
chuyên nghiệp cần trang bị hoặc tự xây dựng các phần mềm học tập bộ môn
theo đặc thù môn học.
Có biện pháp khuyến khích cả về tinh thần và vật chất giúp giáo viên tự
xây dựng bài giảng điện tử và các phần mềm giảng dạy bộ môn. Phát động thi
đua, tổ chức các cuộc thi cho giáo viên xây dựng bài giảng điện tử, bài giảng

e-Learning trực tuyến nhằm xây dựng kho học liệu điện tử. Trong năm học,
19
mỗi giáo viên có trình độ tin học cơ bản cần thực hiện ít nhất 5 bài giảng có
ứng dụng CNTT. Các bài thao giảng, thi dạy giỏi của giáo viên cần phải sử
dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong đó có CNTT.
Tổ chức các chuyên đề trong tổ, nhóm chuyên môn về đổi mới phương
pháp giảng dạy có sử dụng phương tiện CNTT một cách hợp lý nhằm nâng cao
chất lượng bài giảng. Chú ý tránh hiện tượng lạm dụng phương tiện, hình thức
hoá bài giảng, không có tác dụng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy
phát huy tính tích cực của học sinh.
Mỗi trường học phải xây dựng kho học liệu điện tử, tập hợp các bài
giảng điện tử, phần mềm giảng dạy của giáo viên dùng chung trong các
trường, Đồng thời chia sẻ kinh nghiệm và tư liệu với các đơn vị bạn. Các
phòng GD&ĐT tuyển chọn tư liệu từ các trường để xây dựng kho học liệu điện
tử tại quận, huyện và đóng góp tư liệu cho kho học liệu dùng chung toàn
ngành.
Khuyến khích giáo viên sử dụng và khai thác thông tin, tư liệu trên
mạng Internet. Thành lập các nhóm giáo viên chuyên trách khai thác tư liệu
trên mạng và các nguồn khác theo từng bộ môn đưa vào kho tư liệu nhà
trường.
Tổ chức tham quan, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm ứng dụng CNTT với
các đơn vị khác trong và ngoài Thành phố.
3- Mở rộng việc đưa Tin học vào giảng dạy trong các nhà trường
Trên cơ sở điều kiện vật chất, thiết bị hiện có, các đơn vị trường học cần
mở rộng các loại hình giảng dạy tin học trong các trường học (chính khóa, tự
chọn, dạy nghề, ). Sử dụng tối đa thời gian hoạt động của máy tính vào việc
dạy tin học cho học sinh. Phấn đấu 100% học sinh tốt nghiệp THPT, THCS
được học Tin học cơ bản. Các trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) cần
quan tâm đào tạo học sinh cách khai thác, sử dụng các phần mềm chuyên
ngành thông dụng thuộc ngành đào tạo.

Các trường THPT, THCN, các trung tâm GDKTTH, GDTX và các
trường THCS có điều kiện, cần tổ chức cho học sinh sử dụng Internet trong
trường học (trong phòng máy, thư viện, văn phòng đoàn, đội, ) đồng thời định
hướng và quản lý chặt chẽ việc khai thác thông tin trên mạng.
5. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu
“Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách BT để đổi mới PPDH LS ở trường
THPT” là việc làm cấp bách và cần thiết. DHLS là một hoạt động mang tính
đặc thù, một quá trình sư phạm phức tạp, HS không thể từ “trực quan sinh
động” (nhìn quá khứ), mà phải đi từ cung cấp sự kiện để tạo ra biểu tượng LS,
hình thành khái niệm, rồi mới nêu được quy luật, rút ra bài học kinh nghiệm và
20
vận dụng vào thực tiễn. Việc cung cấp sự kiện LS cho HS càng cụ thể, giàu
hình ảnh bao nhiêu thì các em càng hứng thú học tập và hiểu biết LS bấy
nhiêu. Công việc nầy thường gặp rất nhiều khó khăn, nhưng ngày nay nhờ vào
CNTT&TT, GV có thể dễ dàng giúp HS đi “từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng”, hiểu dúng bản chất của sự kiện, hiện tượng LS, từ đó có tư tưởng
tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện ở các em. CNTT&TT có tác dụng
tích cực góp phần vào đổi mới PPDH bộ môn hiện nay. Theo các chuyên gia
GD, nếu cứ áp dụng PPDH truyền thống thì 90% trí thức của HS được tiếp
nhận qua tai, 10% qua mắt sau một thời gian ngắn sẽ rơi vào tâm trạng mệt
mỏi, giảm sự chú ý; nhưng nếu các em vừa được nghe, vừa được nhìn thông
qua hình ảnh, kết hợp với các hoạt động (huy động cùng một lúc nhiều giác
quan) thì kết quả ghi nhớ kiến thức của HS đạt hơn 90%. Tuy nhiên để nhanh
chóng đưa CNTT&TT vào đổi mới PPDH LS ở trường THPT, chúng ta phải
có sự chuẩn bị về xây dựng cơ sở vật chất (CSVC), trang thiết bị hiện đại, đào
tạo con người, sau đó mới triển khai thực hiện.
Hiện nay nền kinh tế tri thức đang đóng vai trò quyết định trong sản
xuất vật chất. Nhờ những phương tiện thông tin hiện đại mà khoảng cách về
không gian được rút ngắn hơn. Xu thế toàn cầu hóa yêu cầu con người phải
thay đổi nhịp sống của mình thì mới nắm bắt kịp những thay đổi nhanh chóng

của nhân loại, mới thích ứng và phát triển theo nhịp sống đương đại.
Khối lượng kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều, thời gian và điều
kiện tiếp thu lại có hạn mà yêu cầu của ngành GD về chất lượng đào tạo phải
ngày càng cao. Chính vì thế việc đổi mới nội dung và PPDH LS có tầm quan
trọng đặc biệt. Làm thế nào để HS không bị nhồi nhét kiến thức, lo học tủ, học
vẹt để thi cử?
Với chủ trương vận động của Bộ GD&ĐT, càng đòi hỏi người GV
DHLS phải cải tiến PP soạn giảng, làm thế nào để HS có hứng thú, phát huy tư
duy, óc phán đoán trong các vấn đề về các sự kiện LS để các em hiểu được
nguyên nhân, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm LS trong quá trình dạy học LS.
Qua hai năm giảng dạy SGK mới, về hình thức trình bày, cách thể hiện
nguồn kiến thức trong mối quan hệ giữa kênh hình và kênh chữ đã tạo điều
kiện cho GV có thể tiến hành đổi mới PPDH LS.
Từ công tác bồi dưỡng thay sách lớp 10 và 11, việc đổi mới PPDH LS ở
trường THPT đã trở thành một yêu cầu cấp bách của GV LS, vì không chỉ để
đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn LS ở trường THPT mà còn góp
phần làm thế nào để thay đổi nhận thức của xã hội về vị trí, tầm quan trọng của
bộ môn LS đối với việc GD thế hệ trẻ.
Việt Nam đang bước vào hội nhập quốc tế và khu vực cho nên càng đòi
hỏi cấp bách việc GD phải đổi mới và nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu
trên. Trước tiên và quan trọng hơn cả là việc DHLS phải phấn đấu vươn tới
chuẩn chung về chương trình đào tạo, về mô hình quản lý, đặc biệt là phải đạt
chuẩn về chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Nhiều
chuyên gia GD cho rằng tìm được lời giải cho vấn đề nầy cũng có nghĩa là tìm
21
được hướng cải cách chương trình, thay SGK, cũng chính là mục đích tìm ra
một hướng di cho phù hợp tình hình hiện nay của đơn vị.
Đề tài “Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách BT để đổi mới PPDH LS ở
trường THPT” nhằm giải quyết vấn đề cấp bách của GV bộ môn LS và của
công tác DHLS mà xã hội đang quan tâm hiện nay.

6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Bộ môn LS ở trường THPT có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con
người toàn diện vừa có tri thức khoa học, có tư tưởng đạo đức đúng đắn, đậm
đà bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự lập. linh hoạt, sáng tạo … trong cuộc
sống. Song muốn phát huy được ưu thế nầy, trước hết, HS phải nắm vững kiến
thức LS. Vậy làm thế nào để HS nắm vững kiến thức trong DHLS ở trường
THPT?
Căn cứ vào mục tiêu bộ môn LS ở trường THPT, đặc trưng của hiện
thực LS, đặc điểm nhận thức của HS và yêu cầu đổi mới GD hiện nay theo chỉ
đạo của Bộ GD – ĐT “Ứng dụng CNTT&TT để đổi mới PPDH ở trường
THPT” hiện nay, chúng ta thấy rằng, việc giúp HS nắm vững kiến thức là vấn
đề hết sức cần thiết. Song trước hết cần thống nhất khái niệm “nắm vững kiến
thức” của HS. Xung quanh khái niệm nầy, các nhà GD, tâm lí và GDLS đã đề
cập đến nhiều khía cạnh. Các nhà GD Xô Viết trước đây khẳng định : cũng như
bất kì một người nào, HS không bao giờ nắm vững thực sự kiến thức, nếu
người ta đem đến cho các em dưới dạng “chuẩn bị sẵn”. Không chỉ đơn thuần
học thuộc, hoặc nói theo lối cũ “nghiền môn LS” … mà chỉ có thể nghiên cứu
chúng mà thôi. Hoặc : “Kiến thức chẳng qua là một dạng nhất định của những
mối liên hệ tạm thời, được tạo trên vỏ não các bán cầu đại não do ảnh hưởng
của những kích thích bên ngoài và hoạt động tư duy tích cực của chủ thể đang
nhận thức” (Khalamop. Phát huy tính tích cực của HS như thế nào? NXB
GD. Hà Nội.1979, tr,19). Bách khoa toàn thư SP của Liên Xô cho rằng : Nắm
vững kiến thức trong DH là một hệ thống thông tin xác định bao gồm khả
năng: nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Nhà tâm lí học người Mĩ Bloom khi nói
về lĩnh vực nhận thức trong đánh giá kết quả học tập đã nêu lên các mức độ :
biết (nhận biết, nhớ lại), hiểu, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá, thông
qua 6 mức độ này để đánh giá HS nắm vững kiến thức hay không. Trong thực
tế 6 mức độ này cũng đều thể hiện : biết, hiểu, ứng dụng. Các nhà tâm lí học
Việt Nam cho rằng, nắm vững kiến thức là một hoạt động nhận thức tích cực
và tự giác của HS, đưa các em từ chỗ chưa biết đến hiểu sâu sắc, nhớ những kĩ

năng, tri thức, những khái niệm do GV truyền thụ và có thể vận dụng vào thực
tiễn (Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân. Tâm lí học. NXB GD Hà Nội 1979,
tr,47).
Trong những tài liệu PP DHLS, các nhà GDLS cũng khẳng định rằng,
nắm vững kiến thức trong DHLS là phải “biết”, “hiểu” LS và “ứng dụng”.
Đây là con đường nhận thức biện chứng LS từ nắm sự kiện đến tạo biểu tượng,
hình thành khái niệm để hiểu bản chất, rút ra bài học kinh nghiệm và quy luật
LS. Trong đó, “biết” LS chưa phải là thước đo chất lượng của việc học tập,
22
nghiên cứu LS, mà điều chủ yếu là hiểu LS, vận dụng tri thức LS vào tiếp thu
kiến thức mới và hoạt động thực tiễn (Phan Ngọc Liên-Trịnh Đình Tùng-
Nguyễn Thị Côi. PP dạy học lịch sử. Tập II. NXB ĐHSP, Hà Nội 2002,
tr.134-135).
Như vậy, các nhà tâm lí GD và GDLS về cơ bản đều thống nhất : nắm
vững kiến thức trong học tập nói chung, LS nói riêng là đòi hỏi HS phải “biết”,
“hiểu” và “vận dụng” được tri thức đã học.
Mức độ đầu tiên việc nắm vững kiến thức LS là HS phải “nhận biết”
được sự kiện, nhân vật … LS, có biểu tượng cụ thể, chân thật về bức tranh quá
khứ, nghĩa là HS nhớ LS và trả lời được câu hỏi “như thế nào?”. Đây là nền
tảng giúp các em hiểu được bản chất của sự kiện. Trên cơ sở biết LS, HS phải
tìm ra bản chất, ý nghĩa của sự kiện, thấy được mối liên hệ bên ngoài hay bên
trong của các sự kiện, hiện tượng. Đồng thời HS có thể lí giải được mối liên hệ
giữa các yếu tố thời gian, không gian, mối liên hệ nhân quả … Tức là HS phải
hiểu LS, trả lời được câu hỏi “tại sao?”. Từ “biết”, “hiểu”, trong quá trình
học tập HS cần rèn luyện khả năng “vận dụng” tri thức đã học để hiểu kiến
thức mới vào thực hành bộ môn và cuộc sống. Ba mức độ trên có mối quan hệ
chặt chẽ, biện chứng với nhau. “Biết” kiến thức LS là cơ sở để “hiểu”, “biết”
và “hiểu” lại là cơ sở để vận dụng. Đồng thời, hiểu sâu sắc kiến thức và có kĩ
năng vận dụng chúng càng giúp HS nhớ lâu và nắm kiến thức một cách bền
vững.

Với quan điểm như trên, việc giúp HS nắm vững kiến thức có vai trò rất
quan trọng trong DHLS ở trường THPT. Nó là yếu tố cơ sở đầu tiên của mục
đích học tập bộ môn. Chỉ có nắm vững kiến thức LS, HS mới nảy sinh tư tưởng
tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện con người các em. Không giúp HS
nắm vững kiến thức LS thì không thực hiện được mục tiêu môn học.
Thực tiễn DHLS ở trường THPT hiện nay đã có bước tiến, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu GD đặt ra. Một thực tế đang diễn ra là thế hệ trẻ
biết, hiểu rất mơ hồ về LS, không chỉ LS thế giới mà cả LS dân tộc. Điều này
được phản ánh phần nào qua kết quả các kì thi vào đại học. Theo thống kê của
VietNamnet, kì thi đại học năm 2005 có gần 56,5% số bài thi bị điểm 1 trở
xuống, năm 2006 điểm trung gình các bài thi LS là 1,96, thấp nhất trong các
môn, đặc biệt là kì thi TN THPT năm 2007.
Thực tế này còn được phản ánh trong các trò chơi đại chúng trên truyền
hình “Ai là triệu phú”, “Đấu trường 100”, “Rung chuông vàng” của Đài truyền
hình VTV Hà Nội … Các câu hỏi về LS hết sức đơn giản, thậm chí còn rất gần
với chúng ta hiện nay, nhưng những người chơi trẻ tuổi thường trả lời sai hoặc
không trả lời được. Thực tế đáng buồn đó đã khẳng định một điều là HS không
nắm vững kiến thức LS. Các em mới dừng ở biết, hiểu mơ hồ, vì vậy dễ quên
và trong bài thi có những sai sót tưởng chừng không thể có. Lí luận và thực tiễn
trên đặt ra một vấn đề nóng bỏng là phải nâng cao chất lượng DHLS để đáp
ứng mục tiêu môn học. Muốn làm được điều này, trước hết và cấp thiết phải
23
làm cho HS nắm vững kiến thức trong quá trình học tập. Đây là yêu cầu tối cần
thiết, đầu tiên trong DHLS.
Thành tựu của CNTT&TT đã và đang được ứng dụng rộng khắp trong
nhiều lĩnh vực, nhiều hoạt động, trong đó có HĐ DHLS. Đây là một trong các
điều kiện quan trọng để đối mới PPDH; là nhân tố đảm bảo cho HĐ DHLS đạt
hiệu quả; là cơ sở quan trọng để hình thành những phẩm chất và năng lực, hình
thành nhân cách người GV trong thời đại mới - thời đại của khoa học kĩ thuật.
7. Mức độ nghiên cứu đề tài

Năm học 2007-2008 là năm học thứ hai trường THPT áp dụng chương
trình SGK mới cho HS lớp 10 và 11 trong lộ trình cải cách GD. Vì thế đề tài
“Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách BT để đổi mới PPDH LS ở trường THPT”
là đề tài bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu thực hiện vì Bộ GD – ĐT ban hành
sách BTLS lớp 10 và 11 đưa vào giảng dạy kể từ năm học 2007 – 2008.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn
trong 3 vấn đề lớn :
-Ứng dụng CNTT&TT vào PPDH LS ở trường THPT.
-Đổi mới PP kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS THPT.
-Kết hợp sách BTLS với sử dụng GAĐT trong quá trình soạn giảng bài
dạy ở trường THPT.
8. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : “Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách BT để đổi mới
PPDH LS ở trường THPT”.
+ Khách thể nghiên cứu : Môn LS lớp 10 và 11 ở trường THPT.
+ Phạm vi nghiên cứu : Ứng dụng CNTT&TT, sách BTLS, PPDH mới.
9. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
9.1. Cơ sở lý luận thực tiễn
9.1.1. CNTT&TT là một thành tựu lớn của cách mạng khoa học – kĩ thuật
hiện nay
CNTT&TT thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, GD – ĐT và các hoạt động chính trị,
xã hội khác. CNTT&TT đã ảnh hưởng sâu sắc tới GD – ĐT đặc biệt là trong
đổi mới PPDH. CNTT&TT đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách
mạng GD, vì nhờ có cuộc cách mạng nầy mà GD đã có thể thực hiện được các
tiêu chí mới : Học mọi nơi, Học mọi lúc, Học suốt đời; Dạy cho mọi người và
mọi trình độ tiếp thu khác nhau; Thay đổi vai trò của người dạy, người học, đổi
mới cách dạy và cách học.
Ở nước ta ứng dụng CNTT&TT trong GD – ĐT được Đảng và Nhà
nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện

kĩ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng, Chính phủ, Bộ GD – ĐT đã thể hiện rõ điều nầy (Nghị quyết trung
ương 2 Khoá VIII, Chỉ thị số 29 của Bộ GD – ĐT ngày 30/7/2001/CT). Đặc
biệt Chiến lược phát triển GD –ĐT 2001 – 2010 của Bộ GD – ĐT đã yêu cầu
ngành GD phải từng bước phát triển GD dựa trên CNTT, vì : “CNTT và đa
24
phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lí hệ thống GD, trong
chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về
PP dạy và học”.
9.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các PP phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa so sánh, nghiên cứu
kết quả điều tra xã hội học…kết hợp lý luận với thực tiễn ứng dụng
CNTT&TT trong PPDH LS. Đặc biệt là nghiên cứu qua các bài giảng, các đề
tài nghiên cứu về đổi mới nội dung và PPDH LS ở trường THPT của các
trường ĐHSP, Viện nghiên cứu xã hội, khảo sát chất lượng dạy học môn LS ở
các trường THPT để định hướng làm sáng tỏ hơn các luận điểm khoa học mà
đề tài quan tâm đang giải quyết. Kết hợp với thực tế qua quá trình giảng dạy
chương trình thay sách lịch sử lớp 10 và 11 và những vấn đề có thể đề xuất
những biện pháp khả thi vận dụng vào nội dung đề tài đang nghiên cứu giải
quyết.
10. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
+ Đối với cấp lãnh đạo quốc gia
Bộ GD&ĐT đã có các công văn chỉ đạo hướng dẫn cho ngành GD triển
khai thực hiện : “Bộ GD&ĐT lấy năm học 2008-2009 là “Năm học công nghệ
thông tin”, trong năm học 2007-2008 toàn ngành cần chuẩn bị thật tốt các
nguồn lực nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực về ứng dụng CNTT trong quản
lý và giảng dạy. Tập trung nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị; mở rộng việc đưa
Tin học vào giảng dạy trong các nhà trường; đổi mới nhận thức và nâng cao
kỹ năng CNTT cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; thực hiện đồng bộ
việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động, trọng tâm vào công tác giảng dạy,

xây dựng kho học liệu điện tử trong từng trường học, từng quận, huyện và
toàn thành phố”.
+ Đối với cấp lãnh đạo cơ sở
Năm học 2007-2008 Sở GD-ĐT Bình Dương đã tập trung đầu tư kinh
phí xây dựng CSVC trường học , mua sắm TBDH hiện đại trang bị cho các
trường, tổ chức cuộc thi thiết kế và giảng dạy bằng GAĐT cho tất cả các
trường tham dự, tổ chức các lớp bồi dưỡng tin học và thi tin học chứng chỉ A
cho CBGV toàn ngành, tổ chức các buổi giới thiệu các phần mềm ứng dụng
CNTT vào việc đổi mới PPDH để chuẩn bị bước vào năm học mới “Năm học
công nghệ thông tin”.
BGH trường THPT Dĩ An thiết kế 3 phòng dạy học đa chức năng (trong
đó có một phòng sử dụng di động GV có thể dạy ngay tại lớp học), 2 phòng vi
tính nối mạng internet, tổ chức các lớp bồi dưỡng tin học trình độ A cho
CBGV của đơn vị, luôn động viên khuyến khích GV ứng dụng CNTT&TT để
đổi mới PPDH. Trong năm học 2007-2008 có 100% các tổ đều có GV sử dụng
phòng đa chức năng để giảng dạy thử nghiệm bằng GAĐT.
11. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 6 phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
25

×