Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đặc sắc trong tư tưởng triết học HCM về văn hóa và phát triển văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.27 KB, 25 trang )

NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TRONG NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG IX KHÓA XI
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.
NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN
HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. Văn hóa và sự hình thành tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn
hóa
1. 2. Những đặc sắc trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa
và phát triển văn hóa
2.
SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
HỒ CHÍ MÌNH VỀ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
CỦA ĐẢNG TA TRONG NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG IX
KHÓA XI
2.1. Những tư tưởng cơ bản của Đảng về văn hóa và phát triển văn hóa
trước nghị quyết trung ương IX khóa XI
2.2. Nội sung cơ bản của Nghị quyết trung ương IX khóa XI về “phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động
chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là
một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời
hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp


xây dựng và phát triển nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta.
Là danh nhân văn hoá kiệt xuất, Hồ Chí Minh tượng trưng cao đẹp cho
cốt cách văn hoá dân tộc, thống nhất với các yếu tố văn hoá nhân loại. Trên cơ
sở những nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cốt cách văn hoá dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã kết tinh những giá trị ấy với tinh hoa văn hoá nhân loại trên những
phương diện khác nhau. Đó là văn hoá tình nghĩa, tinh thần nhân văn Việt Nam,
sự khoan dung, hoà nhập; lối sống và cách ứng xử Hồ Chí Minh đã có một sự
kết hợp hài hoà, nhuần nhị; đã giải quyết nhiều mâu thuẫn một cách biện chứng.
Đúng như triết gia Pháp Patxcan (Pascal) đã viết: “người ta không vĩ đại khi chỉ
đứng ở một cực, mà phải nối liền hai cực và đắp đầy khoảng giữa”.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết
quả quan trọng. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo
đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học - nghệ thuật ngày càng
phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát
triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ
thể, thiết thực; phát huy truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng mặc
dù vậy, So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ để tác
động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình
2
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội
có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn,
đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô
thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn
tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã
hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng.

Trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa, bùng nổ thông tin và giao lưu văn
hóa một cách mạnh mẽ. Cơ hội nhiều, song thách thức cũng không ít, bên cạnh
những cơ hội hợp tác, đầu tư phát triển, giao lưu, chọn lọc tiếp thu những tinh hoa
văn hóa thế giới thì Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít nguy cơ thách
thức trong việc hội nhập văn hóa. Nhiều vấn đề đặt ra một cách cấp bách: làm thế
nào để vừa hội nhập vừa không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, làm sao để ngăn
chặn tối đa sự du nhập của những luồng văn hóa phản giá trị, nội dung không lành
mạnh vào đời sống nhân dân Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hoá vào xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
ở nước ta là một nhiệm vụ to lớn và cấp thiết.
Trước yêu cầu của thực tiễn, Đảng Công sản Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XI, về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết là sự kế thừa, vận
dụng sáng tạo những quan điểm về văn hóa và phát triển văn hóa của lý luận mác
xít, mà trực tiếp là tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Có thể khẳng định, Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn luôn là một điểm tựa tinh thần vững chắc. Đồng thời,
với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá đã và đang trở
thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.
3
1. NÉT ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. Văn hóa và sự hình thành tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa
Một trong những người đưa ra khái niệm văn hoá sớm nhất là E. B. Taylo.
Trong cuốn  (1887), ông quan niệm văn hoá là một phức
hợp nhiều mặt, do con người tạo nên và mang tính xã hội. Cách hiểu văn hoá ở
phương Đông và phương Tây cũng có sự khác nhau, nhưng đều phản ánh tính
giá trị, thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người, làm cho con người
và xã hội ngày một tiến bộ hơn, ngày càng xa rời trạng thái nguyên sơ, khẳng
định tính người. UNESCO từ lúc được thành lập đến nay đã đưa ra một số định
nghĩa về văn hoá. Theo tổ chức này, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt

tinh thần và vật chất, văn hoá giúp cho con người tự hoàn thiện, quyết định tính
cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Bàn về văn hoá, người ta còn cho rằng, đó là sự hiểu biết, phát triển nội
tại bên trong của một con người, một dân tộc, tạo ra lối ứng xử, biểu hiện trình
độ “người” trong các quan hệ.
Mang trong mình truyền thống văn hoá phương Đông, lại được tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ánh sáng khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
1
.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa là khát vọng của dân tộc Việt
Nam về cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong các quan hệ của con người và đây cũng là
những giá trị tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam gia nhập vào các giá trị văn hóa
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.431
4
chung của khu vực và loài người tiến bộ. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn
hóa là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, sự
kế thừa những giá trị văn hóa nhân loại, sự vận dụng sáng tạo những quan điểm
văn hóa mác xít; vừa là sản phẩm của sự đúc kết nhứng kinh nghiệm trong hoạt
động thực tiễn phong phú của Người.
Điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành các yếu tố tư tưởng của các vĩ nhân trên thế giới. Và với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, điều kiện lịch sử xã hội cùng các yếu tố gia đình, quê hương, đất nước

và chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc cơ bản hình thành tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh về văn hóa.

Trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành -
Hồ Chí Minh đã hấp thụ một vốn văn hoá gia đình, quê hương, dân tộc. Từ vùng
quê làng Chùa, làng Sen, mở rộng ra là quê hương Xứ Nghệ, qua kinh đô Huế,
đến Phan Thiết, Sài Gòn Mỗi vùng vốn có sắc thái văn hoá khác nhau, nhưng
điểm tương đồng là tất cả đều sáng ngời truyền thống yêu nước, đoàn kết; xu
hướng cố kết cộng đồng dân tộc; tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; lạc
quan, yêu đời, hiếu học và truyền thống nhân ái, nhân văn Việt Nam. Hồ Chí
Minh có được những yếu tố văn hoá có tính chất cội rễ đó cùng với quá trình
tiếp nhận và nâng cao các giá trị văn hoá phương Đông. Nói cách khác, trên nền
tảng văn hoá dân tộc, Người đã dân tộc hoá những tinh hoa văn hoá được tiếp
nhận từ bên ngoài và không bị hoà tan trong bất cứ một nền văn hoá nào khác.
 !"# 
Trong nền văn hoá phương Đông có những tư tưởng nhân đạo lớn như: đại từ,
đại bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo; tư tưởng coi trọng đạo đức, luân lý, người
hiền tài và kẻ sĩ tức là đề cao văn hoá của Nho giáo. Hồ Chí Minh không những
nắm được những tư tưởng cơ bản của Phật giáo, Nho giáo mà Người còn am hiểu
Lão giáo với những yếu tố văn hoá sống giản dị, thanh bạch, chan hoà với thiên
nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc tới các danh
5
ngôn của Khổng Tử, của Đức phật Thích Ca. Và ở Hồ Chí Minh là một tấm gương
sáng về một cuộc sống thanh bạch, trong sáng, giản dị, khiêm tốn, luôn luôn chăm lo
cho lợi ích của nhân dân, của cả cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh sớm có điều kiện tiếp xúc
với nền văn hoá phương Tây khi người còn học ở Huế. Trên hành trình tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từng đến Pháp - Mỹ - Anh là trung tâm văn
minh của nhân loại lúc đó. Với nhận thức và tầm hiểu biết của mình, Người đã
sớm ghi nhận những gì mà cuộc cách mạng Pháp (1789) đã làm được như xoá

bỏ chế độ phong kiến, giải phóng nông nô, đấu tranh cho tự do của con người,
lập hiến pháp Đó là "một sự nghiệp rất nhân đạo”, một trong những cội nguồn
của “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Người cũng nhấn mạnh đến “quyền con người”
“quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi” trong Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ (1776). Tuy nhiên bằng sự nhạy cảm về chính trị và nhãn quan văn hoá qua
chứng kiến cuộc sống của nhân loại đau khổ, Người đã thấy sự thật đằng sau
khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là sự áp bức, bóc lột, đàn áp nhân dân
lao động, phản bội lại lý tưởng cách mạng, tức là phản văn hoá. Đến với phương
Tây, Người được tiếp xúc trực tiếp các tác phẩm của những nhà tư tưởng khai
sáng: Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ tư tưởng dân chủ của họ đã có ảnh hưởng
đến tư tưởng của Người.
$%&'()*+,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hoá
mới và ra sức phát huy sức mạnh của ánh sáng văn hoá Mác - Lênin cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Đặc biệt Người đã
nghiên cứu kỹ tư tưởng của V. I. Lênin về văn hoá, cách mạng văn hoá trong
nhiều tác phẩm quan trọng và cả qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền văn
hoá mới ở nước Nga của V. I. Lênin.
--./01#23&
Quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt chân lên hầu khắp các
châu lục, hoà mình vào phong trào công nhân các nước tư bản phát triển nhất thế
6
giới, sống, sinh hoạt với những người da đen ở châu Phi và ở cả Mỹ, Hồ Chí
Minh mới hiểu ra nhiều điều về bản chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đề
quốc cũng như bản chất giai cấp công nhân, những người cùng khổ trên thế giới
và nhất là hiểu rõ sự thật ẩn dấu đằng sau cái gọi là "Khai hoá văn minh" mà giai
cấp tư sản phương Tây đã rêu rao. Trong các hoạt động đấu tranh của mình, Hồ
Chí Minh không quên tố cáo chủ nghĩa thực dân tìm mọi cách đầu độc văn hoá,
đàn áp nền văn hoá các dân tộc thuộc địa.
Không chỉ hoà mình vào thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân và

các dân tộc bị áp bức mà Hồ Chí Minh còn hoà mình vào thế giới văn hoá vô
cùng phong phú và đa dạng của các dân tộc, nhờ đó Người hiểu biết nhiều sự
kiện văn hoá và các phương pháp đấu tranh bằng văn hoá. Người viết sách, ra
báo, tham gia nhiều hoạt động văn hoá, tổ chức nhiều hội liên hiệp đều nhằm
giác ngộ cách mạng cho nhân dân các dân tộc trong đó có đồng bào của mình.
Người muốn đem ánh sáng văn hoá đến cho mọi người cùng khổ để soi đường
cho họ tự giải phóng, tự đứng lên đấu tranh với các thế lực áp bức, bóc lột.
1.2. Những đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và phát
triển văn hóa
Văn hoá được hiểu là toàn bộ sáng tạo những giá trị vật chất và những giá trị
tinh thần của con người trong quá trình tồn tại và phát triển. Nguồn gốc và động lực
sâu xa của văn hoá chính là nhu cầu của con người (gồm nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần) và nó luôn luôn thay đổi, con người không bao giờ bằng lòng với
những cái mà tự nhiên ban tặng và những gì đã có. Điều này đã thúc đẩy con người
hoạt động và sáng tạo, cải tạo tự nhiên và xã hội, tạo ra của cải vật chất lẫn tinh
thần phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu cho mình, đây cũng chính là quá trình sáng
tạo văn hoá của con người. Theo nghĩa đó, ở đâu có con người và hoạt động của
con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá là sự phát huy và hiện thực hoá các năng
lực bản chất của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hoá, đồng thời
văn hoá là phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người. Con người
không thể tồn tại và phát triển với tính cách là con người được nếu tách khỏi môi
7
trường văn hoá và thực tế lịch sử phát triển của con người luôn gắn liền với lịch sử
phát triển của văn hoá.
Mặc dù hiểu và khái quát văn hoá theo nghĩa rộng, với nghĩa là tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt, bao gồm cả sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần của
xã hội nhưng trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh thường đề cập đến
khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp. Nghĩa là, văn hoá bao gồm các hoạt động về giáo
dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống Theo đó, hoạt động văn hoá là
hoạt động sản xuất ra những giá trị tinh thần nhằm giáo dục cho con người có khát

vọng hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Với cách hiểu đó, Người coi văn hoá là một
mặt của đời sống xã hội và là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng.
Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa được thể hiện trên những
quan điểm sau:
)4#54#678,
Khác với quan điểm của giai cấp thống trị, Hồ Chí Minh nhìn thấy vai trò to
lớn của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trong việc sáng tạo văn hoá. Văn
hoá không phải là sự sáng tạo riêng của các vĩ nhân, các nghệ sĩ, nghệ nhân, của
giai cấp thống trị , mà văn hoá trước hết là của nhân dân và do nhân dân sáng tạo
ra, Người khẳng định: Quần chúng không chỉ là người sáng tạo ra những của cải
vật chất cho xã hội mà còn là người sáng tác, kiểm nghiệm và có quyền hưởng thụ
các giá trị văn hoá. Chính vì thế, đội ngũ cán bộ văn hóa “cần phải giúp những sáng
tác của quần chúng. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý. Muốn làm như thế
thì cố nhiên là phải có chính trị, có kỹ thuật, thì mới mài cho viên ngọc ấy thành
tốt, khéo và đẹp”
2
. Do đó, theo Hồ Chí Minh, động lực của sự phát triển văn hoá
nằm chính trong nhân dân. Công tác xây dựng văn hoá phải quán triệt và thực hiện
tốt quan điểm quần chúng, sáng tạo văn hoá là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.
94#5:.#%-;6*3<,
Hồ Chí Minh cho rằng, việc nêu gương và cổ vũ người tốt việc tốt không
những có ý nghĩa động viên mọi người hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng trước
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.250
8
mắt, mà còn là một trong những biện pháp cơ bản để xây dựng Đảng và các lực
lượng nòng cốt của cách mạng, xây dựng con người mới và cuộc sống mới, đồng
thời để động viên người người thi đua, ngành ngành thi đua, làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người được giữ gìn và phát triển. Đó là những tấm gương có thật
trong nhân dân và cán bộ, đảng viên. Gương người tốt - việc tốt là “nét đẹp của đạo

đức mới, của con người mới Việt Nam đang hình thành. Họ đều là những người
bình thường làm những việc bình thường cho xã hội. Những việc bình thường ấy,
ai cũng có thể làm được nếu cố gắng một chút. Và nếu ai cũng làm theo người tốt
việc tốt thì cái tốt sẽ thành phổ biến, và xã hội ta sẽ tốt lên”
3
.
=4#5-5>0?#%,
Trên tinh thần biện chứng, Hồ Chí Minh chỉ ra: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải
bỏ Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”
4
.
Phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông, giữ gìn, khôi phục
những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hoá tinh
thần của nhân dân.
Bảo tồn, phát huy truyền thống gắn liền với phát triển, nâng nó lên một trình độ và
chất lượng mới nhằm đáp ứng trình độ văn hóa ngày càng tăng của nhân dân, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong
lĩnh vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của
văn hoá đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc
và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá
Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”
5
.
Đề cao bản sắc văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh phê phán những thói lai căng văn
hoá, quá đề cao văn hoá ngoại, coi nhẹ văn hoá dân tộc trong giới trí thức, văn nghệ sĩ
và cảnh báo về nguy cơ “mất gốc” văn hoá trong giới trí thức và văn nghệ sĩ nước ta.
Người viết: “có những trí thức Việt Nam rất thông thuộc lịch sử, địa lý và các chuyện
3
Trần Kư: Bác Hồ với sách người tốt, việc tốt, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.7-8.

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.94-95
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.173
9
thần thoại của nước Pháp, của Hy Lạp và La Mã. Nhưng khi hỏi đến các vị anh hùng
là tổ tiên, ông cha mình, hỏi đến địa lý nước mình thì mù tịt Coi chừng có nhiều
người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất
quý báu của mình bằng những người nước ngoài”
6
. Đồng thời, Người khuyên phải giữ
gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc dân tộc, phát huy cốt cách dân tộc, tinh
thần dân tộc để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta.
Trong truyền thống văn hoá Việt Nam, Hồ Chí Minh đề cao chủ nghĩa yêu
nước, coi đó là động lực tinh thần, là nguồn sức mạnh không bao giờ cạn, là triết lý,
đạo lý sống của mỗi người dân Việt Nam. Người khẳng định: Dân tộc ta là một dân
tộc anh hùng và có một lòng nồng nàn yêu nước. Đồng thời cũng nêu rõ và đề cao
truyền thống nhân ái, cố kết cộng đồng, tinh thần cần cù thông minh sáng tạo
trong lao động sản xuất, tinh thần anh hùng bất khuất, mưu trí, gan góc trong chiến
đấu chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
=4#50#4#&@&48,
Việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng nền văn hóa
cách mạng, vừa là một truyền thống lịch sử, vừa là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Nền văn hóa Việt Nam được hình thành và phát triển trong lịch sử lâu dài của dân
tộc không phải là kết quả vận động chỉ riêng những yếu tố nội sinh, Người nói:
“Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây
phương chung đúc lại Đông phương hay Tây phương có cái gì tốt ta học lấy để
tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và
văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với
tinh thần dân chủ”

7
.
Không phủ nhận việc kế thừa các giá trị văn hóa của nhân loại để làm phong
phú, đa dạng văn hóa dân tộc, nhưng Người cũng phê phán, chống lại “cách mượn”
không phải lối, chối bỏ đi các giá trị vốn có của dân tộc, hay là sự tiếp thu xô bồ
mọi thứ của thiên hạ, đồng thời cho rằng cần tiếp thu có chọn lọc những cái hay,
cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thực sự là “Việt Nam
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.556-557
7
Bác Hồ với văn nghệ sĩ, NXB Tác phẩm mới (NXB Hội Nhà văn), Hà Nội, 1985, tr.52.
10
hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên trong, tự nhiên như
những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam. Đứng vững trên cái nền dân tộc để
chiếm lĩnh, tiếp thu những giá trị văn hóa bên ngoài, bản lĩnh đó của dân tộc Việt
Nam đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm qua.
Người cho rằng không chỉ tiếp thu mà còn phải góp phần làm phong phú thêm
văn hóa nhân loại: “Mình có thể học cái hay của bất cứ nước nào ở Âu - Mỹ, nhưng
điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay
cho người khác hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả”
8
. Đây chính là sự vận
dụng phép biện chứng của “nhận và cho”, “vay và trả” trong tiếp xúc, giao lưu, đối
thoại giữa các nền văn hóa. Trong văn hóa, nếu chỉ muốn “viện trợ không hoàn
lại”, thì chính điều đó không chỉ là một thái độ rất không văn hóa mà còn không thể
phát huy được bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Ngoài ra, trong quá trình tiếp thu,
học tập kinh nghiệm, phải chú ý đến đặc điểm của dân tộc mình, nếu không sẽ
phạm phải sai lầm, giáo điều.
&4#5&A3B3CD14(.>'6
7:E,

Theo Hồ Chí Minh, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Người cho
rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý, coi trọng
ngang nhau là: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá - đây là bốn vấn đề chủ yếu của
đời sống xã hội và các vấn đề này có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Vì thế,
trong cuộc xây dựng đất nước, cả bốn vấn đề này phải được coi trọng như nhau.
Kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, do đó phải chú trọng xây dựng kinh
tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Phát
triển kinh tế để bảo đảm đời sống vật chất cho nhân dân và phải phục vụ cho mục
đích phát triển văn hoá của nhân dân. Để thực hiện các mục tiêu của xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải đấu tranh, xây dựng, phát triển, phải tiến hành một cuộc cách
mạng thật sự. Trong cuộc cách mạng đó, văn hoá luôn có ý nghĩa trọng yếu, quyết
8
Báo Cứu quốc, số ra ngày 9-10-1945
11
định. Đó vừa là điều kiện, nền móng cho sự xây dựng, phát triển của đời sống xã
hội, vừa là mục tiêu hướng tới trong quan hệ hài hoà với đời sống vật chất hay nói
cách khác, văn hóa phải ở trong kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị. Chính trị có được
giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn
hóa phát triển. Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối phải tiến hành cách mạng chính trị
trước, cụ thể là cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng
văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Chịu sự lãnh đạo của chính trị, văn hóa
phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận”,
“Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị”
9
(Sđd, t.6, tr.368-369). Tính chất mặt trận của văn nghệ
không phải chỉ chống giặc ngoại xâm, mà còn phải chống giặc nội xâm. Cho nên, văn

nghệ cần phải dũng cảm phê bình rất nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, nhũng
lạm, lãng phí, lười biếng, quan liêu Mặt trận văn nghệ không phải chỉ có “chống” mà
còn phải “xây”, mà xây là chính và lâu dài. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật
cần có lập trường vững, tư tưởng đúng, phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Không chỉ thấy vai trò quyết định của kinh tế và chính trị đối với văn hoá, Hồ
Chí Minh còn thấy được vai trò to lớn của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội. Văn hoá là nền tảng, động lực tinh thần cho sự phát triển mọi mặt
của đời sống xã hội, cho sự tiến bộ của xã hội. Người viết: “Trình độ văn hoá của
nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát
triển dân chủ cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”
10
. Văn hoá đứng ở trong chính trị và kinh tế cũng
có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá.
F4#5@G5H6I'D,
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.368-369
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.281-282
12
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng: Văn hóa phải phụng sự nhân dân, lấy
hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở cho mọi sáng tác. Với tính cách là
phương thức sinh tồn của con người, văn hoá được tạo ra là để phục vụ cho cuộc
sống con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể hưởng thụ các
giá trị văn hoá. Do vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hoá phải hướng vào phục vụ đại đa
số nhân dân chứ không phải là độc quyền hưởng thụ của bọn thống trị, bóc lột và
tầng lớp trí thức. Người chỉ ra rằng: “Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân,
góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng - nội
dung văn hoá phải có ý nghĩa giáo dục. Ví dụ: Phải giáo dục thế nào là đời sống

mới, thế nào là đạo đức cách mạng”(Sđd, t.10, tr.59). Văn hóa, văn nghệ muốn
phục vụ quần chúng nhân dân thì phải có chất liệu của cuộc sống, phải nghe đồng
bào, chiến sĩ, hỏi nhân dân, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân; phải thấy,
xem, ghi chép, chỉ có thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí
vô tận cho văn nghệ, cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn nghệ sĩ.
Người nói: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng nguồn
nhựa sống, còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(4).
Văn hoá phải phục tùng nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Rõ
ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì
phải tham gia cách mạng”
11
, người nghệ sĩ muốn được tự do sáng tác thì trước hết
phải là người tự do thực sự trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và phải tích cực
tham gia vào công cuộc kháng chiến, xây dựng Tổ quốc. Để thực hiện được nhiệm
vụ ấy, văn hóa, văn nghệ phải có những tác phẩm lớn xứng đáng với thời đại mới,
những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới để làm gương trong
cuộc sống hiện tại và để giáo dục con cháu mai sau; phải đấu tranh chống: Tham ô,
lãng phí, lười biếng, quan liêu, để xây dựng một xã hội lành mạnh, tốt đẹp. Đồng
thời, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ
nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, không
ngừng học tập chính trị, nâng cao chuyên môn, nghề nghiệp Nói tóm lại, để phục
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.646
13
vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức.
Văn hóa có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng con người Việt Nam
trong thời đại mới. Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải
xây dựng tư tưởng

12
. Con người xã hội chủ nghĩa phải là con người “vừa hồng, vừa
chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, trong đó đạo đức phải là gốc rễ. Con người mới ấy
không thể sinh ra ngay lập tức mà hình thành từng bước trong quá trình đấu tranh
cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một công việc lâu dài và gian khổ,
thường xuyên và khẩn trương vì chúng ta phải biến con người trong xã hội cũ
thành con người của xã hội mới; xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây
dựng là một xã hội hoàn toàn khác về chất và chưa có tiền lệ trong lịch sử dân tộc;
những thói quen, nếp sống của xã hội cũ đã ăn sâu, bám rễ trong tâm hồn con
người, làm trở ngại rất lớn cho bước tiến bản thân và của cả xã hội
Không chỉ khẳng định tính quy luật, vai trò và mối quan hệ của văn hóa với
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, mà Hồ Chí Minh còn đưa ra hệ tiêu chí
để xây dựng nền văn hoá Việt Nam với chủ trương: “Năm điểm lớn xây dựng nền
văn hoá dân tộc: 1. Xây dựng tâm lý tính cách: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây
dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi
sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính
trị: Dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”
13
.Việc chỉ ra những điểm lớn trên chứng tỏ
rằng, khi phân định nội hàm khái niệm văn hoá, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ
rằng, xây dựng nền văn hoá dân tộc phải đặt trong mối quan hệ qua lại với các mặt
khác của đời sống dân tộc như: Tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị, kinh tế. Xây dựng
văn hoá phải gắn liền với từng bình diện ấy, làm cho văn hoá trở thành phẩm chất
tốt đẹp, đặc trưng riêng có và ý nghĩa tích cực của những lĩnh vực đời sống đó.
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.323
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.431
14
2. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG NGHỊ

QUYẾT TRUNG ƯƠNG IX KHÓA XI
2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về văn hóa và phát triển văn
hóa trước nghị quyết trung ương IX khóa XI
Xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta đã có định hướng phát triển từ rất sớm
trước cách mạng tháng 8/1945 thành công. Ngay từ năm 1943 khi đề cương văn
hóa Việt Nam ra đời xác định rất rõ các lĩnh vực của văn hóa: “văn hóa bao gồm tư
tưởng, học thuật, nghệ thuật”, văn hóa là một trong ba mặt trận kinh tế, chính trị và
văn hóa. Năm 1946 tại đại hôi văn hóa toàn quốc lần thứ nhất chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Tại Đại hội III của Đảng cũng đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cách mạng tư
tưởng và văn hóa đồng thời với cách mạng kỹ thuật và cách mạng quan hệ sản xuất. Tại
Đại hội IV năm 1976 và Đại Hội V năm 1981 tiếp tục xác định một trong những nhiệm
vụ trọng tậm của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây
dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức dân tộc, tính Đảng và tính
nhân dân. Các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII của Đảng, các nghị
quyết của Bộ Chính trị và các hội nghị trung ương không ngừng hoàn thiện các tưởng
văn hóa mà đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cơ sở.
Năm 1986, Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh tác động vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người. Chúng ta đổi
mới nhưng văn hóa chính trị vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; văn hóa
lấy tấm gương Hồ Chí Minh làm chuẩn mực, văn hóa pháp luật tiến bộ một
bước quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Năm 1987, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương
đảng khóa VI khẳng định rõ hơn vai trò to lớn của văn hóa nghệ thuật định
hướng nhân cách theo xã hội chủ nghĩa. Văn hóa – Nghệ thuật có tác dụng to
lớn trong việc góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ
quan trọng trong xây dựng con người mới chủ nghĩa xã hội.
15
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa 6 tháng 6/1988

và kết luận của Bộ Chính trị về văn hóa – nghệ thuật (11/1988), hội nghị lần thứ
VI ban chấp hành trung ương Đảng (tháng 3/1989) về “đổi mới và nâng cao chất
lượng phê bình văn học nghệ thuật”, Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành trung
ương về “công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” đều dựa trên những quan điểm tư
tưởng định hướng về văn hóa và phát triển văn hóa của tư tưởng triết học Hồ
Chí Minh về văn hóa.
Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng (1991) đã một lần nữa khẳng định
“nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới,
lối sống mới, con người mới, bắt đầu từ gia đình. Chọn lọc và giữ gìn, nanag cao
tinh hoa văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của các dân tộc, bảo tồn và
phát triển ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa,
khoa học của nhân loại. Dùng những hình thức sinh hoạt cộng đồng giáo dục lý
tưởng, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ, nâng cao trình
độ hiểu biết và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân, ngăn chặn các văn
hóa phẩm và hoạt động nghệ thuật gây độc hại. Hình thành nếp sống và tâm lý
xã hội có sức đề kháng chống lại những lề thói, tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp
hèn, suy đồi đạo đức, bảo vệ phẩm chất của phụ nữ”.
Nghị quyết trung ương 4 khóa VII đã thâu tóm và phát triển những tư
tưởng triết học trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và phát triển lên tầm cao
mới, ở đó, con người vừa là mục tiêu, là động lực của mọi quá trình văn hóa,
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn kiện đại hội Đảng VIII khẳng định: “văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội”. Mốc
đánh dấu sự đổi mới toàn diện tư duy về văn hóa của Đảng thể hiện ở nghị quyết
trung ương 5 khóa VIII về J.#%D3&
05K&#BL7M, Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh về văn
hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong đó nhấn
mạnh: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
16
thúc đầy xã hội; Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, là

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và phát triển văn hóa là
sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và
phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài.
Hội nghị trung ương 10 khóa IX đã tiếp tục phát triển những quan điểm
này và đến Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “0N%7
#O4PD05K&#BL7M5M
>0QR#HB 1%>0*:E54#&DO&
7#&S4(.'67:E”
14
.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “J.
D3&05K&#BL7M5%#35
O85O&T77MT5'50BU4#&
DM>0QR#O&7##B67:E52#
LTM57C&87AS'%”
15
.
Như vậy, trong quá trình xây dựng đất nước, thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đảng ta luôn nhận thức và vận dụng sáng tạo những
quan điểm cơ bản của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa và phát triển
văn hóa vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trước điều kiện kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, vấn đề văn hóa
và phát triển văn hóa đặt ra cho Đảng ta yêu cầu tiếp tục nhận thức và vận dụng
sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa và phát triển văn hóa trong
điều kiện mới. Tháng 6/2014 nghị quyết trung ương 9 khóa XI về %
D563&CT%BO1 được
ban hành, thể hiện một bước mới trong nhận thức vấn đề văn hóa và phát triển
văn hóa của Đảng ta.
2.2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết trung ương 9 khóa XI về Phát triển

văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khóa VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.54-55.
15
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, H.2011 tr.76.
17
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) –
một Nghị quyết có ý nghĩa như chiến lược văn hóa của Đảng trong thời kỳ đầu đổi
mới, tại Hội nghị lần thứ chín, ngày 09/6/2014, Ban Chấp hành Trung ương (khóa
XI) đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
So với tiêu đề Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) thì tại Nghị quyết
này, xây dựng con người Việt Nam được đưa lên tiêu đề; xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ xây dựng
và phát triển văn hóa. Đây là nét đặc sắc của Nghị quyết Trung ương 9 về văn
hóa, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa và phát
triển văn hóa, là kết quả trực tiếp của thành tựu phát triển tư duy lý luận của
Đảng ta về văn hóa, về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới.
Về mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa Hội nghị trung ương IX khẳng
định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tổng kết 15 năm thực hiện chiến lược văn hóa này của Đảng, chúng ta
nhận thức sâu sắc hơn về văn hóa – một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong
phú và đa dạng thuộc đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì thế, đã có
hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Chúng ta có thể có 3 hướng tiếp cận cơ bản
quan niệm về văn hóa:
Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do lao

động của con người sáng tạo và tích lũy lại tạo nên bản sắc của từng tộc người,
từng dân tộc, từng xã hội. Đó là “thiên nhiên thứ hai” do con người sáng tạo ra
làm thành các giá trị vĩnh hằng của nhân loại.
Tiếp cận từ cấu trúc, yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, khả
năng sáng tạo mà con người tích lũy được trong quá trình học tập, lao động và
18
đấu tranh. Nhưng sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó trở thành nền tảng
cho hành vi ứng xử của con người trong các quan hệ của con người với xã hội,
với tự nhiên, với bản thân mình.
Theo quan điểm giá trị văn hóa là trình độ phát triển các quan hệ nhân
tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định thành
một hệ giá trị mà chuẩn mực cơ bản là: Chân, Thiện, Mỹ.
Từ những quan niệm cơ bản về văn hóa trên đây, chúng ta nhận thức sâu
sắc bản chất của khái niệm văn hoá.
Nói văn hoá là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực bản
chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái niệm
văn hoá chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là khát
vọng hướng tới Chân, Thiện, Mỹ. Vì văn hoá là sự phát huy các năng lực bản chất
của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên văn hoá có trong tất cả các
hoạt động của con người. Cũng từ quan niệm bản chất văn hoá trên, chúng ta nhận
thức được vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa.
Văn hóa là mục tiêu phát triển của kinh tế - xã hội và của đất nước. Văn hóa thể
hiện trình độ được vun trồng ngày càng cao, ngày càng toàn diện của con người và của
xã hội, khiến con người, xã hội ngày càng đổi mới tiến bộ, tiến tới cuộc sống tự do, ấm
no, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân
và của cả cộng đồng được bồi dưỡng phát huy và trở thành hệ giá trị cao đẹp và chuẩn
mực của toàn xã hội. Mục đích này là khát vọng của toàn nhân loại. Đây cũng là mục
tiêu lý tưởng phấn đấu của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Văn hóa là động lực phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên
mọi tiềm năng sáng tạo của con người; Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển.

Văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách
quan, chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của đất nước.
Từ nhận thức sâu sắc nội hàm của văn hóa và vai trò của văn hóa trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
19
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo cơ sở lý luận cho Đảng ta
trong Nghị quyết Trung ương 9 đã bổ sung, phát triển 3 quan điểm chỉ đạo của
Nghị quyết Trung ương 5 là:
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc
trưng: Dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Thứ ba, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng.
Cũng trên cơ sở nhận thức sâu sắc quan niệm về văn hóa và vai trò của
văn hóa trong thời kỳ phát triển mới, trong Nghị quyết Trung ương 9, Đảng ta
đã đã có những quan điểm mới về quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam
trong thời kỳ mới:
)4#5 nếu như trong NQTW 5 ( khóa VIII) của Đảng mới chỉ dừng lại ở
luận điểm “ J.D3&05K&#BL7M”, thì
nay luận điểm mới của Đảng đã có sự mở rộng, gắn kết giữa xây dựng văn hóa
với xây dựng con người; trong mục tiêu chung, Nghị quyết chỉ rõ VJ.
D#63&%#3510*3*&W5
O&TT55'#>S,D.7.2
#LTM':E54#7C&87AS
BLL&7.%B#BL3MXA-&N#5
1&85'5"BY5&Z,Mục tiêu xây dựng văn hóa cũng là

mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặt con người vào vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời là chủ thể của sự
phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích của dân tộc, đất nước với quyền làm chủ của nhân dân, bồi đắp tình bạn,
đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người Việt Nam hội tụ đầy đủ các
20
phẩm chất tốt đẹp của cái chân, thiện, mỹ, mang đậm nét truyền thống cốt cách tốt
đẹp của con người Việt Nam, thống nhất với những phẩm chất của con người mới
xã hội chủ nghĩa giàu tính nhân văn, đậm chất dân chủ, đáp ứng với xu thế phát
triển của thời đại và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
94#5 trong NQTW 5 (khóa VIII) của Đảng đề cập VD4#L
T':E5?4#&N5?4#4.@[7.%>0:E
”, thì nay Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm đó và bổ sung, phát triển luận
điểm mới là “ Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Trong 6 nhiệm vụ cơ bản đối với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, điểm nổi bật nhất là lần
đầu tiên, Đảng ta đề cập đến vấn đề “ Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh
tế” (nhiệm vụ thứ 3 trong Nghị quyết 33-NQ/TW, khóa XI). Nghị quyết chỉ rõ V\@
S&4:.D!L5 A#1##
%U4#AS%:.3G785
&8,,,6:A&:.D>0,,,J.D
35D1]C"S4K5G58
4#&85-7.%B#BL3XA”.
Mặt khác, cùng với khẳng định quan điểm trong NQTW5 (khóa VIII)
về VD&#@:.4#D05K&#BL7M
,,,4#DO&#8H3
&Z, Đảng ta có sự bổ sung nhận thức mới về vấn đề này với các đặc trưng
là V55'#>S”.
=4#5 về xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ mới, quan
điểm thứ 3 của Nghị quyết 33-NQ/TW ( khóa XI) chỉ rõ V^%D-7.

#36#:.6%%D,
:.D5S&4#&4:.6D5
4751QG BL_155(-5.5
#>05T`578Z,Nhiệm vụ đầu tiên Nghị quyết đặt ra là “\&4:
.63&%#35S&4#BHaT
21
154I.#58C547#,8%B0
&8&RKC5]C"S 4K5&S63&%
B077M5.#5"47b5DZ,Theo đó, vấn đề xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay phải hội tụ đầy đủ các đức tính theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đó là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân;
có tình thương yêu, đoàn kết, sống có nghĩa, có tình, trung thực, thẳng thắn, khiêm
tốn, nếp sống trong sạch, lành mạnh, cầu thị tiến bộ và tinh thần trách nhiệm cao
trong đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa; có tính chủ động, linh
hoạt, sáng tạo, ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ môi trường; quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trong lời nói, việc làm của mình.
Chương trình xây dựng và phát triển văn hóa phải vì mục tiêu phát triển
toàn diện con người, hoàn thiện nhân cách con người, với nhiệm vụ trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ
bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Các hoạt động của hệ thống giáo dục - đào tạo, của hệ thống thiết chế văn
hoá, khoa học phải hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới
quan khoa học, gắn giáo dục, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng tri thức, nâng cao trí lực và kỹ năng
sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của
kinh tế tri thức và xã hội học tập, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam.

Phải thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng lối sống cao đẹp: “Mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, lối sống có ý thức tự tôn, tự trọng, tự
chủ; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; ý thức bảo vệ môi trường, lối
sống kết hợp hài hoà tính tích cực cá nhân và tích cực xã hội, đề cao trách nhiệm
22
của cá nhân với bản thân, với gia đình và xã hội; biết khẳng định, tôn vinh cái
đúng, cái thiện, cái đẹp, cái cao thượng và nhân rộng các giá trị nhân văn cao đẹp.
Những quan điểm mới của Đảng trong Nghị quyết 33-NQ/TW ( khóa XI)
về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước không chỉ đáp ứng với sự đòi hỏi của thực tiễn đời sống
xã hội hiện nay mà còn là những định hướng lớn, mang tính chiến lược lâu dài
về phương diện văn hóa xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền các địa phương phải có sự nghiên cứu,
thường xuyên quán triệt đến mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân,
triển khai có hiệu quả chương trình thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của địa
phương, đơn vị gắn với triển khai việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh thực sự thiết thực, đưa Nghị quyết 33-NQ/TW (khóa XI) của Đảng
đi vào cuộc sống.
KẾT LUẬN
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Hệ thống những quan điểm của Người trở thành kim chỉ
nam cho hoạt động của Đảng lãnh đạo công tác văn hóa, sự nhận thức và vận
dụng sáng tạo của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang mang
23
lại những kết quả tích cực, văn hóa thực sự trở thành nền tảng của xã hội, góp
phần xây dựng phẩm chất nhân cách con người Việt Nam.
Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu vực đang
tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, xu hướng toàn cầu hóa,
quốc tế hóa thế giới trong đó có toàn cầu hóa, quốc tế hóa về văn hóa, nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tác động hàng ngày gàng giờ tới
bộ mặt văn hóa mà chúng ta xây dựng, làm biến đổi nhiều thang giá trị, xuất
hiện nhiều mặt trái, đặt ra nhiều yêu cầu mới trong xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trước thực tiễn lịch sử đó, quá trình xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần một mặt,
chúng tatiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa học, đại
chúng. Mặt khác, chúng ta cũng kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, những
sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài. Trong đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hoá sẽ vẫn luôn là một điểm tựa tinh thần vững chắc. Đồng thời, với sức
sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá đã và đang trở thành
một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, NXB Tác phẩm mới (NXB Hội Nhà văn), Hà
Nội, 1985
2. Báo Cứu quốc, số ra ngày 9-10-1945.
3. Nguyễn Duy Bắc (2011), N3&6>cX&1, Nxb
Thời đại, Hà Nội.
24
4. Trần Văn Bính, Xây dựng văn hóa, đạo đức lối sống của người Việt Nam,
Nxb QĐND
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011): #43&>LNNC
>3!88B%#A4TCJd'!L, Nxb CTQG, HN.
6. Nguyễn Trọng Đại, )7L:.eB4#&"
213. Tạp chí Giáo dục và xã hội tháng 6/2015
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, >388B%#A4T
Cddd5d55d5dd5ddd5dJ5J5JdNxb CTQG
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014

10. Nguyễn Chí Hiền, Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, Nxb CTQG, H. 2007
11. Hoàng Đình Phu (1998): fS#"31,
Nxb Khoa học Kỹ thuật, HN.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, 5, 6, 9, 10, 12.
13. Trần Kư: Bác Hồ với sách người tốt, việc tốt, NXB Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1998, tr.7-8.
14. Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, NXB Văn học,
Hà Nội, 1981, tr.516.
15. Vũ Ngọc Khánh, Làng văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn Học.
16. Phạm Thái Việt, Đại cương văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
H.2014
25

×